Chương 39
Đêm hôm đó, tôi ngồi trong phòng và ngắm Yves ngồi dưới một cây chuối rẻ quạt đang độ lớn. Anh đã mang cái cây mới về và trồng nó vào chỗ cái cây cũ đã héo đi và chết. Yves đang ngả người trên một chiếc ghế đẩy, trong tay anh cầm một chai rượu rum. Mắt anh nhìn lơ đãng phía trước, không tập trung vào cái gì đích xác ngoại trừ những con đom đóm đang nhóm lên những đốm sáng lập lòe. Cuộc thảm sát đã để lại những sang chấn trong lòng anh: anh không thể chịu được mùi mía (trừ lúc nó được hòa vào rượu rum) và căm ghét vị lá mùi tây; anh không thể bơi dưới sông ; âm thanh của tiếng Tây Ban Nha – cho dù phát ra từ miệng những người Haiti – cũng đủ làm mắt anh mở to ra, hơi thở anh dồn dập hơn, khuôn mặt anh đầy vẻ khiếp sợ, và môi anh như dính cứng vào nhau, không thể mở ra được để nói một câu hoàn chỉnh.
Nhiều năm trôi qua, mảnh đất cha anh để lại đã biến thành hơn hai mươi mẫu đất trồng đậu. Anh càng làm ra nhiều nông sản thì anh càng mua thêm nhiều đất. Giờ đây, gia đình anh đã làm chủ vô vàn những thửa ruộng trồng lúa nước, lúa miến, lúa mì, cà phê, ca cao, và khoai mỡ. Anh cũng tự xây cho mình một ngôi nhà đóng từ bê tông xỉ than gần một con suối nhỏ, nơi anh bàn bạc công việc với người làm, ăn trưa, và nằm nghỉ những buổi chiều muộn. Dọc hai bên bờ suối, anh trồng rất nhiều xoài, bơ, và đu đủ, nơi những con gà rừng và bồ câu rừng tới trú ngụ. Bất cứ ai quanh vùng cũng có thể tới để săn bắt chim hay tận hưởng những trái chín mọng lúc lỉu trong khu vườn của anh. Thế nhưng, khi ngồi trên chiếc ghế đẩy cũ kỹ của mẹ anh, anh chỉ là một người đàn ông cô độc ngồi nhấp từng ngụm rượu từ chai rum hiệu Reserve du Domaine của nhà Gardere. Thi thoảng, anh lại gục đầu ngủ thiếp đi sau những phút mải mê ngắm nhìn bầu trời. Mỗi khi uống một ngụm đầy rum, anh lại phun một ít thứ chất lỏng đắt tiền đó xuống đất, tạo thành một vũng sủi bọt tăm, để chia sẻ với những người mà anh không còn nhìn thấy hay chạm tới được.
Cả anh và tôi đều chọn một cuộc sống xoay quanh công việc để tự an ủi bản thân mình sau cuộc thảm sát. Chúng tôi có quá nhiều bóng ma ám ảnh những giây phút yên tĩnh hiếm hoi, nơi bất cứ ai trong bọn họ có thể hiện hình và từ chối rời đi.
Ngồi trên một cái xô nhựa trắng và nhìn về phía anh từ bậu cửa, tôi cảm thấy tiếc rằng chúng tôi đã không tìm nguồn an ủi từ nhau nhiều hơn. Sau khi tôi nhận ra rằng Sebastien sẽ không quay trở lại, tôi đã muốn tìm một người đàn ông có thể giúp tôi quên được anh và than khóc anh cùng với tôi. Có lẽ đây là một đòi hỏi quá sức với một người đàn ông cũng đang tìm kiếm những điều tương tự cho bản thân mình.
Cái xô đổ ra phía sau trong lúc tôi đứng lên. Yves quay người lại và trông thấy tôi đang chới với, cố gắng giữ thăng bằng trên hai cái chân đau. Khi anh chạy đến đỡ, tôi đã kịp đứng vững trên hai chân mình rồi. Anh buông tay tôi ra và quay về chiếc ghế đẩy, cầm chai rum lên, và đi về phòng mình.
Khi anh đi khỏi, Man Rapadou băng qua sân và đi về phía phòng may vá của tôi. Bà chườm một túi nước lạnh trên đầu, cố gắng không để nước chảy vào mắt. Bả thả người đánh phịch lên một chiếc váy dài mà tôi định may thêm vào vài nếp gấp trước khi đi ngủ.
“Man Rapadou, bác không ngủ được ư?” Tôi hỏi.
“Do hôm nay bác đi bộ dưới trời nắng nhiều quá đó mà,” bà trả lời. “Đáng ra bác không nên dang nắng ngoài trời lâu như vậy.”
“Bác có đang ốm không?”
“Bác không ốm, chỉ cảm thấy rất mệt thôi.” Bà ngả lưng xuống giường tôi, một tấm nệm nhồi bông mà tôi cố tình đặt sát đất.
“Amabelle, cuộc đời của bác và cháu luôn đầy ắp những giấc mơ,” bà nói. “Hàng đêm, bác thậm chí còn chưa đặt đầu xuống gối mà đã mơ thấy bác đang rơi rồi.”
“Bác mơ thấy mình đang rơi?”
“Bác rất hay mơ thấy mình đang rơi,” bà kể. “Với mỗi giấc mơ thì bác lại rơi xuống từ một nơi to hơn, cao hơn. Lúc đầu, bác là một đứa bé rơi ra từ trong bụng mẹ. Sau đó bác rơi xuống từ ngôi nhà của cha mẹ bác, một ngôi nhà gỗ ở giữa một đồi cà phê. Sau đó bác lại rơi xuống từ ngôi nhà của cha của Yves. Rồi tiếp đó bác rơi xuống từ những ngọn đồi hay những vách đá. Cuối cùng bác rơi xuống từ trên những đỉnh núi cao chót vót. Có lẽ trong giấc mơ kế tiếp bác sẽ rơi xuống từ những đám mây chăng?”
“Bác thường rơi xuống đâu trong giấc mơ?” Tôi hỏi. Có lẽ đó là một câu hỏi thừa thãi, nhưng tôi cần biết câu trả lời để chuẩn bị cho bản thân nếu sau này tôi cũng gặp những giấc mơ tương tự.
“Bác luôn tỉnh dậy trước khi chạm đất,” bà trả lời, “ngay cả khi bác có thể nhìn thấy mình càng ngày càng gần mặt đất hơn.”
“Bác nghĩ những giấc mơ này có nghĩa là gì?”
“Khi bác còn là một cô bé,” bà vừa nói vừa đưa những ngón tay cong cong thô kệch lần theo đường viền khuôn mặt của bà, giờ đã nhăn nheo với những vết chân chim nứt nẻ, “da của bác khô đến mức đôi khi nó tróc ra thành từng mảng rớm máu như vảy cá vậy. Bác rất vụng về vì chân của bác rất yếu, nhưng bác luôn biết cách thả mình lúc ngã và không chống cự lại khi lực hút kéo bác về phía đất. Khi bác trở thành một thiếu nữ, chân bác vì lý do nào đó trở nên cứng cáp hơn và bác không phải lo nghĩ đến chuyện bị rơi nữa, cho đến bây giờ.”
Tôi cố ôm bà vào trong vòng tay nhưng không thể vì người bà quá đồ sộ, nên tôi đưa tay vỗ về lưng bà như cách người ta giúp một đứa bé ợ hơi.
“Thật khó để chấp nhận cái cảm giác rằng nếu một ngày nào đó ta không còn trên thế gian này, cuộc sống vẫn sẽ tiếp diễn như bao ngày,” bà thốt lên.
Chính tôi cũng đã cảm nhận và sống trong những nỗi buồn ngày một chất chứa bên trong cơ thể. Những nỗi buồn, cả cũ lẫn mới, bỗng trở nên không thể thuyên giảm được, và tôi nhận ra rằng những phút giây hạnh phúc ngắn ngủi sẽ không kéo dài lâu. Khi tôi trông thấy một chàng trai trẻ đẹp, tôi thường hình dung anh ta sánh vai với một phiên bản thời còn trẻ của mình. Tôi mơ về cuộc đời an nhàn mà anh ta có thể cho tôi, một phòng khách sạch như li như lau với những món đồ trang trí ngăn nắp mà các con của chúng tôi sẽ không được đụng vào, ngoại trừ để quét bụi chúng vào mỗi thứ Bảy.
“Người ta không nên sống sót qua tuổi già một mình,” Man Rapadou nói, giọng nói của bà như đang đuổi theo những suy tư thầm kín. “Cái chết nên đến với chúng ta một cách chậm rãi và nhẹ nhàng, giống như cách bàn tay một người đàn ông lướt trên cơ thể ta vậy. Người ta chỉ có thể thấy niềm vui trong sự hấp tấp vội vã nếu người ta có đủ thời gian để tìm được niềm vui.”
“Man Rapadou, đã bao lâu rồi chưa có ai đụng chạm vào cái bụng bự của bác vậy?” Tôi hỏi để chọc cho bà cười.
“Không lâu hơn so với lần cuối có ai đụng vào bụng cháu đâu,” bà đáp, nở một nụ cười toe toét đến tận mang tai rồi dùng đầu ngón tay đo kích thước của nó. “Cuộc đời sẽ mang cho cháu hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Ví dụ, cháu ngồi trong vườn ăn xoài. Cháu để cho hạt xoài rơi xuống bất kỳ chỗ nào chúng muốn. Rồi một ngày nào đó cháu thức dậy, và cháu có một cây xoài ở trong vườn của mình.”
Tôi biết rằng đây là một lời khen ngầm của bà với tôi, một ẩn dụ đầy tử tế về sự xuất hiện của tôi trước cửa nhà bà nhiều năm về trước.
“Bác chưa bao giờ tiết lộ điều này với ai,” bà nói, hai tay đập lên bờ hông quá khổ, “nhưng bác tin rằng có nhiều người đã nghi ngờ, ngay cả con trai bác. Bọn Yanki đã đầu độc tâm hồn của cha Yves lúc ông ấy ở trong tù. Ông ấy đã trở thành gián điệp ăn tiền của tụi Yanki sau khi ra tù. Rất nhiều người chống đối lại bọn Yanki sống quanh khu này, và họ sẽ chết vì sự phản bội của ông ấy. Thế nên bác đã nấu tất cả những món ăn ông ấy yêu thích và thêm vào đó thuỷ tinh nghiền vụn và thuốc chuột. Bác đã đầu độc ông ấy. Có lẽ đây là lý do bác luôn rơi tự do trong các giấc mơ của mình. Bác sẽ sớm đến với ông ấy và bác rất sợ. Bác sẽ nói gì với ông ấy ở thế giới bên kia đây? ‘Ái tình chỉ là khoái lạc; danh dự mới là trách nhiệm.’ Bác không thể giải thích đơn giản với ông ấy như cách bác đã tự bao biện với mình trước kia được. Lời giải thích đó không còn là đủ nữa. Lẽ ra bác không nên nói chuyện này với cháu. Có lẽ cháu sẽ mang nó kể lại với con trai bác. Nhưng cháu không yêu nó như cách bác đã yêu cha của Yves. Có điều, tình yêu của bác với đất nước này còn mạnh mẽ hơn tình yêu của bác dành cho ông ấy. Bác không thể để ông ấy phản bội mọi người và bán đứng họ cho bè lũ Yanki được.”
“Bác thường nghe người ta nói rằng sự câm lặng thể hiện lòng thánh thiện, và bác vẫn không cảm thấy mình thánh thiện hơn chút nào,” bà nói, đưa tay quẹt một giọt nước mắt trên gò má. “Ngày đó, bác vẫn tin rằng vận may sẽ không phụ lòng người can đảm. Bác vẫn còn quá trẻ. Tất cả mọi thứ đều có thể chữa trị được, ngoại trừ cái chết. Bác ước gì mặt trời may mắn đã soi rọi vào đời bác khi bác vẫn còn là một cô gái trẻ trung, yêu đời với một người đàn ông bên cạnh, một người với niềm vui trong đôi mắt và trái tim quả cảm đầy danh dự.”
Sáng hôm sau, tôi để yên cho Man Rapadou nằm trên giường tôi, ôm ấp những nỗi sầu muộn trong giấc ngủ. Tôi đi xuống phố, về phía con đường lát đá bấp bênh dẫn lên pháo đài trên đỉnh đồi. Tại đó, trong những bao lơn hai bên pháo đài, tôi đi cùng một nhóm khách du lịch đang lượn lờ chụp hình những khu nhà kho, những bức tường đá, những khẩu pháo đã hoen rỉ, và những mái vòm uốn cong.
Sử dụng thứ tiếng bồi của tạp nham ngôn ngữ, những cậu bé người Haiti xung phong làm hướng dẫn viên cá nhân cho các đoàn khách đi thăm quan những hành lang phía bên trong pháo đài. Một trong những người hướng dẫn đặc biệt là một người đàn ông Haiti to lớn mặc một chiếc sơ mi trắng dài tay và thắt cà vạt đen. Ông ta đang dẫn một đoàn khách gồm một tá những khách du lịch da trắng trong trang phục đi biển.
Với một cái khoát tay lanh lẹ, người đàn ông hướng dẫn nhóm khách đi về cạnh của một bờ tường thấp để chỉ cho họ xem những tàn tích của Palais de Sans-Souci, nơi ở chính thức của nhà vua trước kia nằm phía bên dưới ngọn đồi.
Chỉ tay về phía những ngọn đồi phủ đầy thứ cỏ màu hung đỏ chuyên dành cho lũ dê, nơi từng có ngôi nhà của cha mẹ tôi, ông nói, “Trước kia, có rất nhiều người sinh sống trên những ngọn đồi đó, cho tới khi những trận động đất thường xuyên xảy ra đã đẩy họ dạt đi nơi khác. Quý vị có thể cảm nhận những rung chấn dù là nhỏ nhất ấy.” Tôi không tài nào nhận ra nơi nào trên những ngọn đồi còn mang dáng dấp của nơi tôi từng ở, mà tôi cũng không muốn nhận ra. Đất đai chỉ trở thành mối quan tâm của bạn khi bạn có con cái. Tất cả con cái của tôi sẽ giống như tổ tiên của tôi: những xác sống, những bóng đen, và những hồn ma.
Tôi vẫn ngờ ngợ không hiểu tại sao mình lại chọn đi theo đám khách da trắng và ông hướng dẫn viên người Haiti này cho đến khi tôi nhận ra rằng những lời giới thiệu của người hướng dẫn lẫn những lời thì thầm to nhỏ của những người khách trong đoàn đều bằng tiếng Tây Ban Nha.
Tôi đi theo họ đến một khoảng sân mở, nằm trên một trong những tầng cao nhất của pháo đài. Đó là nơi tôi không bao giờ léo hánh tới khi còn nhỏ. Ở giữa khoảng sân là một khối bê tông có hình dáng như một cỗ quan tài, nơi đôi khi được tin là mộ phần của Vua Henry I.
Trong lúc cả đoàn đi quanh khối bê tông, ông hướng dẫn kể cho họ nghe câu chuyện của Henry I.
“Henry Christophe từng là một người ngoại quốc trên đất nước này. Ông ta được sinh ra là một người nô lệ trên Những hòn đảo Đón gió 1 và đã biến mình thành một ông vua trị vì nơi đây.” Người hướng dẫn viên to lớn nới cà vạt quanh cổ trong lúc kể chuyện. Sau đó, dường như muốn nhắc nhở những vị khách trẻ tuổi của ông về những hư vinh, hay để tỏ ra công bằng hơn với lịch sử, ông thêm vào, “Nhà vua đôi khi rất tàn nhẫn. Ông ta thường bắt từng nhóm lính nhỏ nhảy xuống từ vách núi để làm ví dụ răn đe những kẻ khác.
1 Tiếng Anh: The Windward Islands. Đây là tên chung cho một nhóm các quốc đảo ở phía Đông biển Ca-ri-bê bao gồm Martinique, Dominica, St. Lucia, St. Vincent và Grenadines, và Grenada. Tên của chúng ám chỉ vị trí trực tiếp đón những ngọn gió Đông Nam hơn là Những hòn đảo Kín gió (Leeward Islands) nằm sâu hơn bên trong về phía Bắc biển Ca-ri-bê.
Hàng ngàn người Haiti đã chết để xây dựng pháo đài mà các vị đang thấy đây. Nhưng sự tàn bạo này không phải là ngoại lệ. Tất cả những công trình hay tượng đài đồ sộ như thế này đều được xây dựng trên xương máu của dân chúng.”
Để tỏ rõ thái độ của mình, ông đập tay lên khối bê tông, nhắc nhở nhóm du khách về điểm yếu khó tha thứ nhất của người đã chết: sự vắng mặt và im lặng của họ.
“Khi nhà vua năm mươi ba tuổi,” ông tiếp tục kể, “một cơn trúng phong bất chợt làm cho ông tê liệt toàn thân. Những kẻ thù của ông lập tức tổ chức một cuộc nổi dậy. Một vài người kể lại rằng, thay vì đầu hàng, ông đã tự kết liễu đời mình bằng một viên đạn vàng hay bạc. Tương truyền rằng ông được chôn ở trong pháo đài này, ở tại vị trí này. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bí ẩn đằng sau việc ông có thực sự được chôn ở đây hay không. Ông ấy có thể ở bất cứ đâu trong pháo đài này hoặc chẳng ở đâu cả.”
Khi họ rời khỏi khoảng sân với khối bê tông đó, người hướng dẫn nhìn quanh một lượt để chắc chắn rằng mọi người trong đoàn vẫn đang tập trung nghe ông nói. “Những người nổi tiếng trong lịch sử không bao giờ chết,” ông nói. “Chỉ có những con người vô danh không ai biết mặt mới tan biến như sương khói vào bầu không khí buổi sớm mà thôi.”