- 2 -
Tôi là kẻ đi đái nhiều và đái luôn kinh, cái đó là dấu hiệu của một người có đời sống tinh thần rất mạnh. Dù sao đi nữa, tôi cũng biết rằng tôi đang buồn khổ vô cùng khi tôi thả bộ trên đường phố New York. Luôn luồn cứ lo ngay ngáy không biết là lần tới sẽ dừng lại ở đâu và không biết rằng mình nhịn đái có lâu được không. Vào mùa đông, lúc ta mệt nhoài và đói lả, thế mà được đứng làm một phát trong vài phút tại một trạm xe điện ngầm tiện nghi, ấm áp, thật là thú vị tình thâm. Vào mùa xuân thì sự việc lại khác hẳn. Ta lại thích «làm giấc mộng con» dưới nắng xuân giữa những người trên cao nhìn xuống và mỉm cười với chúng ta. Khi một người đàn bà ngòi xổm để dốc bầu tâm sự trong một bồn tiểu thì đó không phải là cái cảnh đáng ta thưởng ngoạn, không có người đàn ông nào dù có cảm nghĩ thế nào đi cũng không thể chối cãi được rẳng cái cảnh người đàn ông đứng sau tấm kiếng đục nhìn đám đông với nụ cười thỏa mãn, dễ dãi, bâng quơ, với cái nhìn đăm đăm, tái hồi, khoái trá mà cho là một việc tốt, được. Giải quyết được «giấc mộng con» là một trong những khoái trá nhất của con người.
Có một số bồn tiểu tôi thường tới để đi như là cái bồn tiểu cũ nát ngoài bệnh viện câm điếc, ở góc phố St. Jacques và phố Abbé-de-l’Épée, ở chỗ nhà máy lốp xe Hutchinson gần vườn Luxembourg góc phố d’Assas và phố Guynemer. Ở đây, vào một đêm xuân thơm nức, bất xét những biến cố dù là thế nào đi nữa xảy ra, tôi thấy tôi là bạn cố trí của Robinson Crusoé. Suốt một đêm dài trằn trọc trong hoài nhớ, khổ sở, sợ hãi, mệt nhọc, những nỗi mệt nhọc sung sướng, những nỗi lo sợ vui vẻ.
Cái bài tựa của một cuốn sách có viết: «Cái lạ lùng của đời sống của người này, tóm lại là người ta thấy hắn còn tồn tại; đời sống của một người hầu như đủ lực làm nhiều chuyện khác nhau.» Hòn đảo bây giờ người ta nhận ra là đảo Tobago, ở cửa biển Orinoco cách Trinidad 30 dặm về hướng Bắc. Ở đó, Crusoé đã sống cô độc từ 8 tới 24 năm, những vết chân trên cát được vẽ lại một cách rất đẹp ở bìa sách. Tên mọi Vendredi, cái dù... Tại sao cái câu chuyện đơn sơ đó lại làm những người ở thế kỷ 18 say mê đến thế? Ta hãy nghe Larousse nói: «... câu chuyện phiêu lưu của một người bị lạc vào hoang đảo, tìm những phương tiện để tự túc, tự tạo cho mình một niềm hạnh phúc tương đối lại được tên Vendredi, một người được Robinson giải thoát khỏi tay dân mọi rợ, đến bổ túc cho... Cái lý thú của câu chuyện không phải là vì truyện nói lên được một sự thật về tâm lý con người, nhưng ở chỗ nó có nhiều tình tiết tỉ mĩ làm ta có mộ tấn tượng như là có thật.
Không những Robinson đã tìm được một cách để tồn tại, mà còn tự tạo cho mình một hạnh phúc tương đối. Hoan hô! Một người tự mãn với một hạnh phúc tương đối. Nhưng đó lại là một người Anglo-Saxon! Lại là người tiền Kitô giáo. Hãy hiện đại hóa câu chuyện đó xem sao, Larousse nghĩ ngược lại, chúng ta như một nghệ sĩ muốn tự xây dựng cho mình một vũ trụ thật là một câu chuyện có vẻ khùng, một người đã tự đánh đắm con tầu của mình để sống ngoài thời đại của thế giới hắn đang sinh sống, hắn không thể chia sẻ với người khác dù là với một người mọi rợ. Điều đángl ưu ý là trong khi thực hiện cái giấc mộng điên khùng của hắn, hắn đã tìm ra được một thứ hạnh phúc tương đối, mặc dù là cô độc trong hoang đảo. Trong tay hắn chẳng có gì cả ngoại trừ một khẩu súng lục cũ rích, một chiếc quần đùi rách, một bàn tay trắng với 25 ngàn năm tiến bộ thời hậu tuần lộc chìm sâu trong nơ-ron của hắn, một quan niệm của thế kỷ 18 về niềm hạnh phúc tuyệt đối! Và khi Vendredi tới, mặc dầu hắn là một người man rợ không nói được tiếng nói của Crusoé, thì cái chu kỳ đã hoàn tất rồi. Tôi thích đọc lại cuốn sách, nhưng phải vào một ngày có mưa. Một cuốn sách quí giá, tuyệt đỉnh của nền văn hóa Faust, những tên tuổi như Rousseau, Beethoven, Napoléon, Goethe đều đã góp mặt. Cả một thế giới văn minh đều thức trắng đêm để đọc cuốn sách đó in bằng 97 thứ tiếng khác nhau. Một bức tranh vẽ được thực tại của thế kỷ 18. Từ đó không còn hoang đảo nào nữa. Từ đó bất cứ con người sinh ra ở đâu cũng là hoang đảo. Mỗi người là một sa mạc được văn minh hóa, là hoang đảo cho chính mình đã tự làm đắm tàu để trôi giạt lên đó. Hạnh phúc tương đối hay tuyệt đối là ngoài đề. Từ đó mọi người tự trốn mình để tìm một hoang đảo trong tưởng tượng, để sống cái giấc mơ của chàng Robinson Crusoé. Ta hãy dõi theo những cuộc phiêu du cổ điển của Melvilles, Rimbaud, Gaugin, Jack London, Henry James, D.H. Lawrence... cả ngàn ngàn người như họ. Nhưng chả có ai trong bọn họ tìm được hạnh phúc. Rimbaud thì bị ung thư, Gaugin bị bệnh hoa liễu, Lawrence bị dịch tả. Thà không bị bệnh dịch còn hơn! Thà bị bệnh ung thư, hoa liễu, hoặc lao chứ thà không bị bệnh dịch. Bệnh dịch! Bệnh của thế giới tân tiến: chế độ thực dân, thương mãi, Thánh kinh phát không, chiến tranh, bệnh tật, chân tay giả, nhà máy, nô lệ, thiếu vệ sinh, ho lao, thiếu máu, đình công bãi thị, sự liên kết giữa các chủ hãng để đóng cửa xí nghiệp trước sự đe dọa đình công của thợ thuyền, chết đói, tiêu diệt, trống rỗng, không lúc nào ngơi nghĩ, chạy vạy chiến đấu, thất vọng, buồn khổ, tự tử, phá sản,chứng cứng động mạch, chứng cuồng tôn hiếu đại, điên cuồng, bệnh bướu thọt, nha phiến, acid prussic, bom hơi ngạt, bom hơi cay, chó dại, tự kỷ ám thị, say sưa bét nhè, tâm lý liệu pháp, thủy liệu pháp, xoa bóp bằng điện, máy hút bụi, thịt khô để dành, nho khô, bệnh trĩ lậu, chứng hoại thư. Không còn những hoang đảo, không có thiên đàng, không có cả hạnh phúc tương đối nữa. Con người tự trốn mình một cách điên cuồng đến nỗi họ tìm sự cứu rỗi dưới lớp đá băng hoặc trong những cánh đầm lầy nhiệt đới, hoặc giả trèo lên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn hoặc làm cho mình ngạt thở ở tầng tĩnh khí...
Cái điều làm cho những người thế kỷ 18 bị mê hoặc ấy là viễn cảnh của chung cuộc. Họ có đầy đủ mọi sự rồi. Họ lại muốn trở lại đường xưa lối cũ, muốn chui vào lòng mẹ một lần nữa.
Đây là phần phụ lục cho LAROUSSE...
Cái điều làm tôi xúc động trong cầu tiêu gần vườn Lục-xâm-bảo so với cái điều cuốn sách gây xúc động thì chả nghĩa lý gì; chỉ cái lúc đang đọc sách là đáng kể, cái lúc mà cuốn sách chứa đựng cái lúc xác định thời gian đặt cuốn sách vào một khung cảnh sống động của một căn phòng có ánh sáng mặt trời chan hòa, cùng với cái khung cảnh khi ta mới khỏi bệnh, những chiếc ghế giản tiện, sơ sài, tấm thảm rách mùi nấp bếp và giặt giũ, cái hình ảnh mẫu hệ to lớn, những chiếc cửa sổ mở ra mặt đường lùa vào đáy mắt ta những bước đi hỗn tạp của những bộ mặt lang thang, dài thượt, của những thân cây đầy bướu, những dây cáp xe điện, chuột chạy trên nóc nhà, những cơn ác mộng tả tơi, nhảy múa trên những dây phơi quần áo, các cửa phòng khách xoay xoay, những chiếc dù trương ra, tuyết đông lại, ngựa trượt chân, những cuộc đua xe, kính cửa sổ lạnh cóng lại, cây cối đâm chồi nảy lộc.
Ít ra, đối với riêng tôi thì câu chuyện Robinson Crusoé chỉ có đó khi tôi thấy nó. Nó tiếp tục còn tồn tại trong cái thế giới đầy ảo tưởng tăng hoài không dứt, một phần đời ta chứa đầy những ảo tưởng. Đối với tôi thì Robinson cũng được liệt vào một loại với tác phẩm của Virgil hoặc là của cái thế giới mấy giờ rồi? Vì hễ khi nào nghĩ tới Virgil thì tôi tự động nghĩ tới — Mấy giờ rồi? Đối với tôi Virgil là một anh chàng sói đầu, mắt đeo kiếng cận, ngồi ngửa người ra ghế dựa để lại một vết mỡ trên bảng đen; một anh chàng sói đầu mở ngoác miệng trong cảnh tĩnh tọa và anh ta đã giả bộ như vậy cứ năm ngày một tuần lễ và kéo dài như vậy trong nhiều năm trường. Một cái miệng rộng với bộ răng giả tạo ra một cái cảnh thật vô nghĩa và kỳ quái như sấm ngữ: rari nantes ingurgite vasto. Tôi nhớ lại một cách thật sống động cái niềm vui xấc xược khi ông ta đọc cái câu này mà theo cái anh chàng đầu sói, mắt ốc nhồi, con trai của một tên «chó chết» thì đó là một câu nói thật vĩ đại. Chúng ta ngâm nga phân tích, rồi lặp lại câu nói theo ông ta, chúng ta có cảm tưởng nuốt câu nói đó như nuốt viên dầu cá thu, ta nhai câu nói đó như nhai một viên thuốc khó nuốt, chúng ta mở miệng thật rộng như ông ta và làm lại cái phép lạ đó cứ năm ngày một tuần lễ trong vòng một tuần lễ, năm này qua năm khác, giống như những đĩa hát cũ rích để kỳ tới khi Virgil trở thành chính bản thân ta và mãi mãi trở thành đời sống của ta.
Nhưng mỗi lần cái anh chàng mắt ốc nhồi này ngoác miệng ra, và khi câu nói đó loảng xoảng rơi ra, tôi lắng nghe cái điều quan trọng nhất tôi phải nghe lúc này đó là câu nói — Mấy giờ rồi? Sắp đến giờ làm toán rồi, sắp tới giờ nghĩ rồi, sắp tới giờ rửa mặt. Tôi là một kẻ sắp sửa chân thành như Virgil và câu nói tuyệt vời: rari nantes in gurgite vasto. Tôi nói nhưng không ngâm lên hoặc nhấn mạnh gì cả, không chút lẫn lộn, tiếc nhớ hay hối hận, rồi chui vào phòng tắm thì còn hơn là đọc cả ngàn thi sĩ Virgil, luôn luôn sự việc đã là thế và sẽ cứ như thế. Lúc nghỉ ngơi, ta trở nên sống động. Lúc đó, ta trở nên con người dễ mến, không có cái gì là thảng thốt, hồi hộp: ta chạy vô chạy ra phòng riêng đóng cửa rầm rầm, bẻ tan cả khóa. Hình như ta bị một nỗi sự hãi ghê gớm bao phủ. Khi chúng ta lấy đồ ăn ném nhau ào ào, la hét, chửi rủa om sòm, quèo chân nhau té nhào, miệng liên tiếp sủa ra câu— rari nantes ingurgite vasto
Không những Robinson đã tìm được một cách để tồn tại, mà còn tự tạo cho mình một hạnh phúc tương đối. Hoan hô! Một người tự mãn với một hạnh phúc tương đối. Nhưng đó lại là một người Anglo-Saxon! Lại là người tiền Kitô giáo. Hãy hiện đại hóa câu chuyện đó xem sao, Larousse nghĩ ngược lại, chúng ta như một nghệ sĩ muốn tự xây dựng cho mình một vũ trụ thật là một câu chuyện có vẻ khùng, một người đã tự đánh đắm con tầu của mình để sống ngoài thời đại của thế giới hắn đang sinh sống, hắn không thể chia sẻ với người khác dù là với một người mọi rợ. Điều đángl ưu ý là trong khi thực hiện cái giấc mộng điên khùng của hắn, hắn đã tìm ra được một thứ hạnh phúc tương đối, mặc dù là cô độc trong hoang đảo. Trong tay hắn chẳng có gì cả ngoại trừ một khẩu súng lục cũ rích, một chiếc quần đùi rách, một bàn tay trắng với 25 ngàn năm tiến bộ thời hậu tuần lộc chìm sâu trong nơ-ron của hắn, một quan niệm của thế kỷ 18 về niềm hạnh phúc tuyệt đối! Và khi Vendredi tới, mặc dầu hắn là một người man rợ không nói được tiếng nói của Crusoé, thì cái chu kỳ đã hoàn tất rồi. Tôi thích đọc lại cuốn sách, nhưng phải vào một ngày có mưa. Một cuốn sách quí giá, tuyệt đỉnh của nền văn hóa Faust, những tên tuổi như Rousseau, Beethoven, Napoléon, Goethe đều đã góp mặt. Cả một thế giới văn minh đều thức trắng đêm để đọc cuốn sách đó in bằng 97 thứ tiếng khác nhau. Một bức tranh vẽ được thực tại của thế kỷ 18. Từ đó không còn hoang đảo nào nữa. Từ đó bất cứ con người sinh ra ở đâu cũng là hoang đảo. Mỗi người là một sa mạc được văn minh hóa, là hoang đảo cho chính mình đã tự làm đắm tàu để trôi giạt lên đó. Hạnh phúc tương đối hay tuyệt đối là ngoài đề. Từ đó mọi người tự trốn mình để tìm một hoang đảo trong tưởng tượng, để sống cái giấc mơ của chàng Robinson Crusoé. Ta hãy dõi theo những cuộc phiêu du cổ điển của Melvilles, Rimbaud, Gaugin, Jack London, Henry James, D.H. Lawrence... cả ngàn ngàn người như họ. Nhưng chả có ai trong bọn họ tìm được hạnh phúc. Rimbaud thì bị ung thư, Gaugin bị bệnh hoa liễu, Lawrence bị dịch tả. Thà không bị bệnh dịch còn hơn! Thà bị bệnh ung thư, hoa liễu, hoặc lao chứ thà không bị bệnh dịch. Bệnh dịch! Bệnh của thế giới tân tiến: chế độ thực dân, thương mãi, Thánh kinh phát không, chiến tranh, bệnh tật, chân tay giả, nhà máy, nô lệ, thiếu vệ sinh, ho lao, thiếu máu, đình công bãi thị, sự liên kết giữa các chủ hãng để đóng cửa xí nghiệp trước sự đe dọa đình công của thợ thuyền, chết đói, tiêu diệt, trống rỗng, không lúc nào ngơi nghĩ, chạy vạy chiến đấu, thất vọng, buồn khổ, tự tử, phá sản,chứng cứng động mạch, chứng cuồng tôn hiếu đại, điên cuồng, bệnh bướu thọt, nha phiến, acid prussic, bom hơi ngạt, bom hơi cay, chó dại, tự kỷ ám thị, say sưa bét nhè, tâm lý liệu pháp, thủy liệu pháp, xoa bóp bằng điện, máy hút bụi, thịt khô để dành, nho khô, bệnh trĩ lậu, chứng hoại thư. Không còn những hoang đảo, không có thiên đàng, không có cả hạnh phúc tương đối nữa. Con người tự trốn mình một cách điên cuồng đến nỗi họ tìm sự cứu rỗi dưới lớp đá băng hoặc trong những cánh đầm lầy nhiệt đới, hoặc giả trèo lên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn hoặc làm cho mình ngạt thở ở tầng tĩnh khí....Tiếng hò hét, huyên náo chúng ta gây ra thật quá lớn lao, sự tàn phá ghê gớm đến độ mỗi khi chúng ta mời một người khách lạ vào phòng tắm ta phải kéo luôn cả giáo sư sinh ngữ đi kèm, hoặc nếu ngày đó chúng ta đi ngoài trời thì phải có ông giáo sư sử địa đi kèm. Họ có thể có một bộ mặt nhăn nhó, đứng im trong phòng tắm tay cầm mẫu bánh mì thịt nguội, nhồi bơ, lắng nghe tiếng đấm nhau thùm thụp, tiếng la hét của bọn trẻ nhãi là chúng ta. Lúc họ rời phòng rửa mặt để ra ngoài hút một làn không khí trong lành cho căng buồng phổi,chúng ta hát vang rân và chẳng có ai phiền nhiễu vì chuyện đó, nhưng chắc chắn ai cũng biết rằng đó là một điều kiện mà các giáo sư bàng quan đó phải có đời sống ra người, họ, những người luôn luôn sử dụng phòng toilette và luôn học để biết mình là hạng người gì.