- 3 -
Ôi! Những cuộc giãn xả tuyệt diệu trong nhà cầu. Nhờ vậy mà tôi biết được nào là Boccaccio, Rabelais,Petronius, và tác phẩm The Golden Ass. Bạn có thể nói rất đúng khi bảo rằng, các tác phẩm hay tôi đọc được đều diễn ra trong nhà cầu. Tệ nhất là cuốn Ulysses và những truyện trinh thám. Có những đoạn hay nhất của Ulysses chỉ đọc được trong nhà cầu thôi, nếu ta muốn thưởng thức trọn vẹn hương vị văn chương của cuốn đó. Nhưng làm như vậy không có nghĩa là phỉ báng tài nghệ của tác giả, ta chỉ cần so tác giả với Abelard, Petrarch, Rabelais, Boccaccio, những thiên tài tuyệt vời, hết sức chân thành, dám chấp nhận phân là phân, thiên thần là thiên thần. Chỉ là người đồng hành khá nhưng không phải là rari nantes in gurgite vasto. Và nhà cầu nào càng cũ kỹ, càng hư hại lại càng tốt (đối với cầu tiêu cũng vậy). Thí dụ, để thưởng thức Rabelais như đoạn «làm sao để tái thiết các bức tường thành Paris»... tôi phải tìm ra được một nhà cầu giản dị ở đồng quê, một căn nhà nhỏ làm riêng ra trong một miếng đất trống, có một luồng ánh sáng lọt vào qua chỗ cánh cửa cát hình trăng lưỡi liềm. Không có cái giật nước, không có dây kéo, không có giấy đi cầu mầu hồng, chỉ có một chỗ ngồi chồm hổm và hai chỗ ngồi khác cho hai người khác. Nếu có người cùng đi cầu với bạn vậy thì thật là tuyệt! Một cuốn sách luôn là một người bạn tốt. Trong nửa giờ bạn ở đó với người-bạn-sách đó— nửa giờ đó sẽ ghi sâu mãi trong trí nhớ bạn suốt đời cuốn sách đó, cùng với hương vị đó! Nếu là một cuốn cuốn sách dầy cộm với bạn trong nhà cầu cũng vô hại. Chỉ là những cuốn sách mỏng là hơi phiền. Những cuốn sách làm giấy lau thì tốt nhất. Thí dụ như cuốn LittleCaesar đã được dịch sang Pháp ngữ, được xếp vào loại truyện gay cấn, đam mê. Giở những trang sách đó,hình như tôi có cảm tưởng là lại phải trở về nhà ngồi đọc những tít báo lớn, nghe radio lải nhải, hoặc đi trên chiếc xe ngựa hai bánh tồi tàn, uống rượu Gin rẻ tiền, tán gẫu với gái tân, hoặc cột những người da đen vào rồi đốt sống. Có một cái gì làm ta bị đi tháo dạ. Ta có cùng cảm giác này khi đọc nguyệt san Atlantic, hoặc những nguyệt san đại loại, hoặc đọc văn của Huxley, Gertrude Stein, Sinclair Lewis, Hemingway, Dos Passos, Dreiser v.v... Tôi không nghe thấy lòng tôi rộn ràng khi mang những con chim đó vào nhà vệ sinh.Tôi kéo dây và theo cống chúng nhảy xuống mất tiêu, xuống tới sông Seine rồi vào lòng Đại Tây Dương. Có lẽ một năm sau đó chúng lại nổi lềnh bềnh trên mặt Đại dương rồi trôi giạt vào bờ Coney Island hoặcMidland Beach hay Miami cùng với những xác sứa chết thối, ốc bưu nhẽo nhẹt, cùng những đồ vô dụng, giấy đi cầu mầu hồng, những tin tức hôm qua, những cuộc giết người ngày mai...
Chẳng còn cái cảnh nhìn trộm qua lỗ khóa nữa! Không còn cảnh thủ dâm trong bóng tối! Không còn cảnh tự thú trước chốn công cộng! Hãy vứt bỏ hết mọi cánh cửa ở khung cửa! Tôi muốn có một thế giới trong đó âm hộ được tượng trưng bằng một kẽ nứt đơn giản.Tôi muốn có một thế giới có xương, có thịt, có những màu sắc đơn giản, một thế giới biết sợ hãi và tôn quí cái nguyên ủy như loài vật của mình. Tôi mỏi mong thấy cảnh đầy vui tươi, hoan lạc, không có gì là che giấu, hoặc bị biến thể hoặc lý tưởng hóa. Tất cả đều sáng rỡ như ban ngày. Tôi không còn muốn thấy cái cảnh những nàng trinh nữ thủ dâm trong thầm kín khuê phòng, hoặc buồn khổ, nằm không trên chiếc giường vương đầy mụn bánh. Tôi không muốn có những đòn đám ma của người Madagasca có tạc hình những con vật đứng chồng chất lên nhau và trên hết là hình Adam Eva. Eva có một kẽ nứt đơn giản, hiền thục giữa đôi chân khép lại. Tôi muốn rằng những ai là ái nam ái nữ thì thực sự là như thế đi, chứ không phải mơ hồ tin mình như vậy rồi đi lang thang như chó d... với một cái dương vật èo ọt và một âm hộ ráo hoẻn. Tôi muốn một đứa trinh khiết cổ điển theo đó thì phẩn là phẩn và thiên thần là thiên thần. Thí dụ cuốn KinhThánh theo lối King James thì không phải là cuốn Kinh Thánh của Wycliffe, hoặc bản kinh thánh Vulgate, cũng không phải là bản viết bằng tiếng HyLạp, hoặc bản Hebrew, nhưng là bản Kinh Thánh huy hoàng được viết ra trong thời kỳ Anh ngữ đang thời kỳ phôi thai. Khi ngữ vựng chỉ gồm có 20.000 chữ mà đủ lực để xây dựng những tác phẩm để đời. Một cuốn Kinh Thánh viết bằng tiếng Tegalic hoặc Svenska, một cuốn Kinh Thánh viết cho người Hottentot hoặc cho người Trung Hoa, một cuốn Kinh Thánh không được viết bằng thứ ngôn ngữ lắt léo của dân Gaulois thì không phải là Kinh Thánh nữa, đó chỉ là giả mạo, mạo hóa. Bản Kinh Thánh của King James được cái bọn người nhai cả xương tạo ra. Cuốn đó làm sống lại những cảnh huyền niệm sơ khai, rồi những cảnh hiếp dâm, giết người, dâm dật, chứng kinh phong, bạo dâm, tính kiêu căng, hiếu đại, quỉ sứ, thiên thần rồng, các thầy tu tế, ảo thuật, thần chú, những bệnh hay lây, bùa phép, những cảnh anh em trong nhà giết nhau, thần tử thí vua, con giết cha, tự sát, những trò thôi miên, vô trật tự, mộng du, những tiếng ca, điệu vũ, kịch trường,những lời nói tiên tri, lên đồng, bí thuật của những thuật sĩ, những điều huyền bí quyền hành, tội ác và vinh quang, nghĩa là Thượng Đế. Tất cả đều được đem ra ánh sáng ở cỡ thật khổng lồ, chua thêm mắm muối, tiêu ớt thật mặn mà đến độ tới thời đại Nước Đà sắp tới cũng không nhạt mùi.
Một cái gì nguyên tuyền cổ điển — hãy đốt đi tất cả những uy quyền chính thức. Vì những thứ uy quyền đó mà những cảnh cổ điển không được sống dậy trọn vẹn đầy đủ, nó ra cái cảnh sống dở cũng như ta đang chết nhưng vẫn chưa chết? Những gì đã làm cho những cảnh đó thoát khỏi sự tàn phá của thời gian, phải chăng đó là muối trộn trong những truyện đó! Khi tôi đọc Petronius hoặc của Apuleius hoặc Rabelais, họ xem ra gần nhau quá. Cái mùi muối của họ! Cái mùi xú uế ở trong chuồng thú của họ. Cái mùi nước đái ngựa, phân sư tử, mùi hôi mõm con cọp và da voi. Tục tĩu, dâm dục, nhục tình, ác ôn, buồn bực, điên rồ. Những tên hoạn quan thực sự, những người lại cái chính cống, những dương vật chính hiệu, những âm hộ thực sự, những bữa tiệc thực sự là tiệc. Rabelais tái thiết những bức tường thành Paris bằng phân người. Trimalchio tự đâm vào cổ mình. Trong vận động trường của Ceasar, những con ác thú ngái ngủ, đang thiểu não nằm dài nhớ cảnh rừng xanh nào là sư tử, hổ lang, chó sói, hổ báo cọp rằn, chúng đang nhai xương người rào rạo. Trong khi đó những vị tử đạo đang hiên ngang đi tới, cái vẻ hiên ngang đần độn, ngu si đang lên đoạn đầu đài ca vang Hallelujah!
Khi đề cập đến vấn đề nhà vệ sinh, tôi lại sống dậy vài giây phút tuyệt vời. Đứng ở cầu tiêu ở Boulogne, bên phải là đồi St. Cloud, người đàn bà đứng ở cửa sổ trên đầu tôi, mặt trời đang tỏa sáng trên mặt sông lặng lờ, tôi thấy một người Hoa Kỳ lạ lùng là cái thằng tôi đang nói, đang dụ những người Mỹ khác theo tôi. Tôi đang đứng ở một xó đất Pháp nào đó để tiểu tiện, tôi mời họ cùng làm việc đó như tôi. Tôi chúc họ được khỏe mạnh luôn, thận không bao giờ bị sạn. Để kỹ hơn, tôi dặn là có một số cầu tiêu tôi đã biết rõ, những cầu tiêu luôn có một người đàn bà mỉm cười nhìn xuống cười tình với ta. Chỗ đó thường có một bức tường đổ, một lầu chuồng cũ kỹ, một mặt tiền của tư dinh, một chỗ có vẩy lên đầy mầu sắc chẳng lên, một máng cho ngựa ăn, một vòi nước, một chuồng chim câu, một quán sách, một chợ rau... Hình như người Pháp luồn luôn khéo léo tìm được những nơi để đặt cầu tiêu cho thuận tiện. Tôi thường nghĩ tới cái cầu tiêu ở Carcassonne, nếu tôi chọn đúng giờ thuận tiện, thì từ đó tôi có thể nhìn được toàn cảnh thành phố Paris. Cầu tiêu đặt chỗ đó thật tuyệt, dù lúc tâm hồn tôi có nặng trĩu sầu buồn, khi tới đó tôi cũng lấy lại được sinh lực, và phấn khởi lạ thường. Rồi lại thấy dâng lên cái niềm kiêu hùng, dũng mãnh, vương mầu sợ hãi ngập hồn giống như nhà hiệp sĩ thuở xưa mệt mỏi khi dừng lại ở chân đồi chỗ có một dòng suối hiền lặng lờ, ngước mắt nhìn lên cao hướng về những tháp chuông nhỏ, còn vương vết tích chiến chinh đang nổi bật trên nền trời gió lộng.
Bỗng nhiên tôi lại nghĩ đến một cầu tiêu khác ngay bên ngoài đền Các Đức Giáo Hoàng ở Avignon. Chỉ là một tảng đá đơn giản ném ở một góc nhỏ kỳ thú nào đó mà vào một đêm xuân trông như được bao phủ bằng nhung ren và những hoa confetti. Thời gian trôi đi êm đềm tới độ ta có thể nghe được cả những tiếng tù và tắt nhỏ dần, nghe quá khứ trườn đi như ma quái rồi chìm vào những tiếng chuông ngân dài đang nghiến nát những điệu nhạc đêm. Cứ y như một tảng đá ném bịch trong một góc tối nào đó đang có những ngọn lửa đỏ lập lòe. Ở đó vào những lúc chiều mát, ta thấy trên những con đường nhỏ quanh co lao xao những hoạt động của những người đàn bà mặc áo bikini hay áo sơ-mi ngắn, đi rong rong trên những thềm nhà, miệng ngậm thuốc lá, tay ngoéo khách bộ hành. Khi đêm xuống, những bức tường trông như ráp liền vào nhau, những con đường nhỏ như chảy dồn vào một cái khe ở đó tụ tập cả một đoàn người hỗn tạp đang tò mò láo liên, khát tình đứng nghẹt cả lối đi. Họ cứ lượn đi lượn lại vòng lên vòng xuống chả có chủ đích gì cả, họ cựa quậy như những con tinh trùng đang quẫy đuôi đi tìm noãn, và cuối cùng họ bị cái miệng mở toác hoác của nhà thổ nuốt gọn hết.
Ngày nay khi ta đứng ở cầu tiêu bên cạnh Đền Đài đó, người ta chỉ hơi nhận ra có chút thay đổi. Đền Đài vẫn đứng sừng sững lạnh lùng như nhà mồ trước một công trường rộng mênh mông, trống vắng. Đối diện với Đền Đài đó là một biệt thự trông tức cười có tên là Âm nhạc viện. Hai ngôi nhà đó đối diện với nhau qua một khoảnh đất trống trải. Giáo Hoàng cũng đi hết rồi,nhạc cũng cuốn gói theo. Tất cả màu sắc và ngôn từ của cả một thời huy hoàng cũng chẳng còn nữa. Đối với cái khu vực nhỏ ở đàng sau Âm nhạc viện, ta có thể tưởng tượng được rằng ngày xưa đã có một cuộc sống như vậy sát bên bức tường của Đền Giáo Hoàng. Hồi sinh thời ở ngôi nhà mồ này, tôi tin rằng không có sự ngăn cách nào giữa Đền Đài và những ngã nhỏ quanh co đó. Tôi tin rằng những căn nhà tồi tàn, bé nhỏ, lợp rạ này đã chạy tuốt từ dưới lên tới cổng của Đền Đài. Tôi tin rằng Đức Giáo Hoàng bước ra khỏi căn phòng huy hoàng của Ngài để đi vào vùng lung linh ánh nắng thì bỗng nhiên Ngài cảm thông được với đời sống chung quanh Ngài. Hãy còn sót lại một vết tích của đời sống vương vả này như những bức họa đời sống ngoài trời, săn bắn, câu cá, đánh bài, đời sống của chim ó, của chó của những người đàn bà và các con cá vàng lóng lánh. Một đời sống Công giáo lan tỏa cùng với những màu xanh cây óng ánh đời sống tội lỗi và ân sủng Chúa, của ăn năn, thống hối, của những màu vàng đậm và màu nâu mạ vàng, của những chiếc áo lễ có vấy vết rượu nho và của những dòng suối có màu da cam hồng hồng. Từ căn phòng mặc áo ở một góc Đền Đài ta có thể phóng tầm mắt nhìn vào những mái nhà không bao giờ quên được của lâu đài Avignon và cây cầu bắc qua sông Rhône bị sập, người ta nói rằng các Đức Giáo Hoàng đã thảo những chiếu chỉ này trong nhà mặc áo này, các bức bích họa hãy còn mới, tự nhiên và sống động đến độ ngay cả những lăng tẫm này — nghĩa là Đền Đài này — ngày nay xem ra còn có vẻ sống động hơn là đời sống ngoài trời. Ta vẫn còn có thể tưởng tượng thấy vị Cha Chung của Giáo Hội đang ngồi ở bàn viết của Ngài ở đây, với một chiếu chỉ Giáo Hoàng trước mặt, một bình lớn có quai để uống nước ngay chỗ khuỷu tay Ngài. Ta cũng dễ dàng mường tượng thấy một thiếu nữ duyên dáng, mập quì dưới đầu gối Ngài, trong khi đó ở dưới kia trong căn nhà bếp thênh thang, những con vật đã được chiên ngon vàng ngậy trên đầu những cây sắt nhọn nướng và các chức sắc cấp dưới của Giáo Hội, những người ăn nhiều, uống nhiều đang ăn uống thỏa sức sau những bức tường lớn đầy tiện nghi và an ninh, không có việc lý giáo, không có lý sự cùn, không có chuyện tảo điên.Khi thần bệnh tật tới, nó quét suốt lượt từ nhà gianh đến đền đài, từ các linh mục mập mạp tới các bác nhà quê gầy nhom nhom. Khi Chúa Thánh Linh hiện xuống trên Avignon, Ngài đã ngự xuống ở Âm nhạc viện bên kia đường, Ngài đã đi xuyên tường, xuyên thịt và xuyên qua hết mọi đẳng cấp trong xã hội. Ngài làm cho tất cả được thịnh vượng lên, ở trong những khu đèn đỏ cũng như trong những khu cao tuốt trên đồi. Đức Giáo Hoàng không thể nâng cao gấu áo người lên và khi đi qua không ai được chạm vào gấu áo Ngài. Bên trong và bên ngoài bức tường chỉ là một cuộc sống thôi: đức tín, gian dâm, đổ máu, những sắc màu sơ lậu. Những đam mê đầu tiên. Những bức bích họa kể truyện. Những bức bích họa đó đã kê ra họ đã sống ra sao mỗi ngày và suốt ngày còn rõ rệt, âm vang hơn là sách vở nữa. Những điều các Đức Giáo Hoàng lẩm nhẩm trong râu của các Ngài là một chuyện —những điều các Ngài bảo vẽ trên tường lại là chuyện khác. Ngôn từ đã chết cả rồi.