← Quay lại trang sách

- 6 -

Kết quả của chủ định đó là tôi đã làm cháy xém cái lưng con ngựa. Giờ thì nó không còn là ngựa hoặc ngựa vằn nữa, nó trở thành con rồng nuốt lửa. Chỗ đuôi ngựa bây giờ trở thành bó pháo bông và từ chỗ đó tới chỗ khu của nó, thì con ngựa lonie không còn giữ được tư thế của nó nữa. Dĩ nhiên tôi có thể vẽ nó thành một con rồng thực sự. Nhưng việc biến đổi đó và trét mầu lên làm tôi bực mình. Nếu ta bắt đầu vẽ một con ngựa thì phải là vẽ con ngựa bằng không thì xóa cho bằng hết. Một khi ta đã phác họa hình thể một con vật thì phải vẽ đến nơi đến chốn mới được.

Tôi dùng một màu xanh đậm và xanh chàm tôi xóa tuốt con ngựa đó đi. Chắc chắn là trong trí óc tôi con ngựa vẫn còn chỗ đó. Người ngoài có thể nhìn vào những đống mầu trệt lên nhau này và nghĩ — vẽ gì mà kỳ quái. Nhưng tôi biết rằng dưới lớp mầu đó là con ngựa. Dưới bất cứ một cái gì cũng có một vài con vật nào và đó là một ám ảnh to lớn nhất, sâu xa nhất của con người. Khi tôi thấy con người ngồi lên chỗ có ánh sáng như những bông hoa quỳ, tôi tự nhủ «Hãy vươn lên, hỡi đứa con hoang, mi tưởng mi hay lắm, nhưng trong thâm tâm mi chỉ là một con rùa, một con chuột bạch". Người Hy Lạp rất mê ngựa, và họ ước mong được sống cảnh đầu người mình ngựa thay vì sống như Titan. Chà, ta lại phải nói quá nhiều về thần thoại.

Nếu bẩm sinh bạn là người đã khoái vẽ thủy mạc, thì mọi việc xảy ra đều y theo ý Trời. Nếu bạn được truyền là phải vẽ một hàng rào nghĩa trang thành một mầu vàng sáng, bạn sẽ thấy thích thú làm, chả kêu ca gì. Chỉ cần xem rằng cái mầu đó so với cái cửa chính mầu sậm hơn có quá sáng không. Có lẽ có một sự biên minh kín đáo nào đó chăng. Và thực ra khi tôi vẽ cái mầu vàng sáng này — mầu vàng tôi coi là màu đẹp nhất trong các màu vàng — tôi sung sướng, tôi vui mừng. Có một cái gì tiêu điều, chán chường ảm đạm, nặng nề cứ rút dần đi mãi. Tôi không lạ rằng, dù đó là nghĩa trang ở đồi Cypress, một nơi tôi đã đi qua lòng đầy chán ngán, phiền buồn từ bao năm rồi. Từ nghĩa trang đó, tôi nhìn xuống những con đường xe lửa cong queo gặp nhau ở sân ga, nơi tôi đã từng đứng đó khạc nhổ vặt. Hoặc là nghĩa trang St. John, với những bức tượng thiên thần bằng chì trông phát ngấy. Ở đó tôi đã làm phu đào huyệt. Hoặc là nghĩa trang Montparnasse vào mùa đông trồng như vừa trải qua một trận bão thép. Nghĩa địa, đất thánh nghĩa trang... Chúa ôi! Tôi từ chối không muốn được nhận chôn trong nghĩa trang. Tôi không muốn nhìn thấy bất cứ một kẻ ngu ngốc nào đứng trên thây tôi với những giọt lệ, vẻ mặt buồn thảm. Tôi chẳng muốn chút nào cả.Khi những tư tưởng này đang lướt qua đầu óc, tôi đã vô ý làm bẩn cái cây và sàn đất vì một bàn chải khô. Cây bây giờ lấp lánh như mới được mặc một bộ áo bằng vỏ cứng. Cành cây lốm đốm mầu bạc, mầu lam ngọc. Nếu tôi không thể đóng dính vào tay, thì tôi cũng có thể phủ lên thân xác của các vị tử đạo những vết máu đỏ tươi. Trên bức tường đối diện có treo bức tranh vẽ cảnh hoang dã xứ Ethiopia. Thân thể Chúa Cứu Thế bị đóng đanh, nằm dài trên sàn có phủ những vết máu. Những người Do Thái khát máu, đen đúa, người Ethiopia đang dùng những chiếc đanh sắc đóng đinh Ngài. Bọn chúng có cái vẻ sung sướng một cách man rợ. Tôi mua bức tranh vì có những vết máu bắn ra đó, tại sao thì tôi cũng chẳng biết nữa. Chỉ bây giờ tôi mới rõ lý do. Và chỉ bây giờ tôi mới nhớ lại một bức tranh nào đó treo ở hầm rượu của ông Bowery nhan đề «Thần Chết giáng xuống roài rệp». Tình cờ, tôi gặp một người điên. Cuộc viếng thăm có tính cách nghề nghiệp nên chẳng thú vị gì. Đã quá trưa lâu lắm và những con đường hoang vắng, bẩn thỉu ở Bowery bị trệt những tảng đờm. Ngay dưới công trường Cooper, ba tên du thủ du thực đang nằm ườn ra dưới cột đèn theo kiểu Breughel. Gió đang lùa mạnh qua chiếc cửa tò vò. Một giọng hát siêu phàm, kỳ lạ đang cất vang lên giữa đường phố, giống như một người đang khéo léo tìm cách để thoát một cảnh sợ hãi ghê gớm. Bên trên cái cửa xiêu xiêu của hầm rượu, có bức tranh «Thần Chết giáng xuống loài rệp» đó, có một người đàn bà nằm trần truồng, tóc bạch kim, xõa trên vai đang nằm dài trên giường và gãi. Cái giường như đang bềnh bồng trong không gian và có một người đàn ông đang lượn múa chung quanh, tay cầm một món đồ chơi của trẻ em như ống chích. Hắn có cùng một cái vẻ si mê như những người Do Thái với những chiếc đinh sắt lớn. Bức tranh có lấm tấm những vết máu. Để diễn tả con vật không cánh đầu tiên trên thế giới chuyên hút máu, bụng bị bóp nhẹp đó là con rệp màu đỏ nâu hoa pha cái mùi hăng hắc làm cho nhà cửa giường chiếu thối tha lên, nó có cái tên khoa học ghê tởm Cimex lectularius. Tôi đang cầm một bàn chải khô quệt những vết bẩn vào thân cây. Những đám mây bị những con rệp bao phủ, núi lửa đang phun cũng đầy rệp, rệp đang bò lổm ngổm xuống dốc núi đá vôi rồi xuống trầm mình trong dòng sông. Tôi giống như chàng thanh niên đang lang thang trên tầng lầu hai trong một bài thơ của Ivanovich, hoặc như một chàng kia lăn qua lăn lại trên nệm giường, anh chàng bị ám ảnh vì cảnh đời khốn cực, đói khát, rách nát, phá sản, hoàn toàn thất vọng, mọi sắc đẹp đều ở ngoài tầm tay của chàng. Cả đời tôi như bị gói trọn trong chiếc khăn tay bẩn thỉu và hầm rượu Bowery, nơi đây tôi đi qua lại hẳng ngày, rồi năm này qua năm khác, một lô những vết sẹo của nó không bao giờ mất đi được. Nếu tôi có được cái tên thì tên đó là Cimex Lectularius. Nếu tôi có được cái nhà thì đó là cái khe chiếc kèn trombone. Nếu tôi có được đam mê thì đó là đam mê tắm rửa thật sạch sẽ.

Giờ đây, tôi cầm bút vẽ như điên, tôi nhúng vào mọi thứ mầu, hết mầu nọ đến mầu kia, tôi bắt đầu quệt vào các cổng nghĩa địa. Tôi quệt đi quệt lại tới khi phần dưới bức họa dầy lên như một lớp sô-cô-la, và bức họa tỏa một thứ mùi thuốc mầu hăng hắc. Khi cái cổng nghĩa địa hoàn toàn bị hủy, tôi ngồi bệt xuống đất, lòng vui bâng khuâng, rỗi rãi chả có việc gì phải làm.

Bỗng nhiên tôi có một cảm hứng thật sự. Tôi cầm bức họa nhúng vào chậu rửa chén, rồi lấy bàn chải móng tay cọ đi cọ lại, chảy sạch mầu đi. Rồi để bức tranh lộn ngược xuống để mầu cô đọng lại. Rất thận trọng, tôi trải bức tranh đó sát lên mặt bàn giấy. Tôi dám nói với bạn, đó là một đại danh họa! Tôi đã khảo cứu tác phẩm đó cả ba giờ liền... Bạn có thể nói đó là một cái gì tình cờ mà có được đại danh họa này. Đúng. Nhưng bài Thánh Thi số 23 chả cũng thế là gì. Con chim nào cũng lạ lùng và gợi thi tứ cả. Cái hiện trước mắt tôi là kết quả của vô số những sai lầm, rút lui ý kiến, tẩy tẩy, xóa xóa, ngập ngừng, do dự. Nó cũng là kết quả của sự chắc chắn. Bạn có thể tin là như vậy được. Tin ở chiếc bàn chải móng tay, tin ở nước, tin ở mọi người và mọi vật. Tin tưởng Dante, Spinoza, Hieronymus Bosch, tin ở tiền mặt, ở công ty nặc danh, tiền nợ, sổ nhật ký: Dì Melia. Cứ thế. Ta lại vẽ một chiếc cân thiên bình. Bạn hãy móc một xu ra đi. Nếu bạn có thể móc một xu ra để mua một cuốn sách, bạn có thể làm như vậy được lắm. Nhưng bạn không mặc cả với một đồng xu trong hiện tại. Không có máy móc nào đủ tinh vi để làm giả những đồng xu này vì nó có đâu mà làm giả. Thế giới của thực tại và thế giới của làm bạc giả thì ở đàng sau lưng chúng ta. Thoát khỏi thế giới khả giác, ta phát minh ra một thế giới bất khả giác.

Khi bạn có thể vẽ một chiếc cân thiên bình, bạn sẽ không bao giờ vẽ được bức tranh. Giờ đây, bạn có một cái gì không sờ mó được, một cái gì tình cờ rồi ngủ gục suốt đêm trên cuốn số cái mở toang. Trên tay bạn có một dấu trừ. Tất cả những ngày tháng sống động, vui vẻ đều dán lên dấu trừ. Nếu bạn thấy cộng thì cũng như là bạn chẳng có gì cả. Bạn có một cái gì có tính cách tưởng tượng, từng lúc gọi là cái «cân thiên bình». Không bao giờ có cái cân thiên bình cả. Chỉ là một sự lừa bịp trắng trợn, giống như chiếc đồng hồ chết hay một cuộc hưu chiến. Bạn đụng vào chiếc cân thiên bình để thêm vào đó một trọng lượng giả tưởng vào, và tạo ra cái lý do cho cuộc sống của bạn.

Tôi không bao giờ vẽ được chiếc cân thiên bình. Và như vậy tôi có lý do để tiếp tục. Tôi đã để cả cuộc đời lên bàn cân đó, nhưng nó cũng chẳng thêm ra được cái gì cả. Để chẳng được gì cả, bạn phải vứt ra ngoài vô số những bộ mặt. Đúng vậy, trong phương trình sinh tồn, dấu hiệu của tôi là vô cực. Đi tới chỗ chẳng chỗ nào cả, bạn phải đi tất cả những nơi nào đã biết trên vũ trụ: bạn phải ở mọi nơi để chẳng ở nơi nào cả. Để có sự hỗn loạn, ta phải triệt hạ tất cả những gì là trật tự. Để trở thành điên, ta phải có đủ mọi sự tráng kiện tinh thần. Tất cả những người điên — tác phẩm của họ đã gợi hứng cho tôi đều đã có một sự ổn kiện tinh thần tới độ lạnh lùng. Họ đã chẳng chỉ vẽ cho tôi được điều gì cả vì cái kim trên cân thiên bình của họ chỉ sai hết, những tính toán của họ là vô nghĩa, vì các hình vẽ đã sai lạc hết. Cuốn sổ gáy mạ vàng họ trao lại cho chúng ta có một vẻ đẹp đáng sợ như những cây bị giam hãm trong bóng râm.

Danh họa của tôi cũng không khác gì những mảnh móng tay gẫy. Giờ bạn đang nhìn ngắm nó, tôi hỏi thật bạn, bạn có thấy trong đó những đại hồ bên kia dẫy Ural không? Bạn có thấy chàng điên Kotchei đang đong đưa chiếc dù bằng giấy không? Bạn có thấy cái khung vòm của Trajan nổi lên đám khói của Á châu không? Bạn có thấy loài hải âu ở Nam Bán cầu không? Bạn có thấy tuyết đang tan ở dẫy Hy Mã Lạp Sơn không? Bạn có thấy dân Creek và dân Seminol đang đi vào cổng nghĩa trang không? Bạn có thấy bức bích họa ở miền thượng lưu sông Nile với những con ngỗng trời, những con dơi và những chiếc lồng lớn nuôi chim không? Bạn có thấy vòm trời kỳ diệu ở đầu cán gươm của Thập Tự Quân và những công dã tràng của họ không? Bạn có thấy căn chòi kỳ lạ của người da đỏ đang phun lửa ra không? Bạn có thấy vũng nước đái dơ cùng bộ xương của con la và chất hàn the lấp lánh không? Bạn có thấy mộ phần của Belshazzar hoặc con ma cà rồng đang sục sạo trong ngôi mộ đó không? Bạn có thấy những cửa sông do sông Colorado khơi ra không? Bạn có thấy con sứa biển đang nằm ngửa và những tế bào họp lại để thành con vật đó không? Bạn có thấy đôi con người của Alexander đang nổ ra không, hoặc những nỗi sầu muộn đọng lại trong đôi mắt đó? Bạn có thấy mực trong các bài văn châm biếm không?

Tồi sự rẳng, bạn chẳng thấy những điều đó đâu. Bạn chỉ thấy tượng thiên thần mầu xanh bị nước đá làm cho giá buốt, cứng đờ. Bạn cũng chưa thấy bộ gọng dù, vì bạn đâu có được chỉ bảo để sửa gọng dù bao giờ đâu. Nhưng bạn chỉ thấy có vị thiên thần, và một cái đó của con ngựa. Và bạn có thể giữ lấy những hình ảnh đó, tất cả dành cho bạn đó. Giờ đây, thiên thần không bị những vết rỗ — chỉ có chấm sáng xanh lè chiếu vào cái bụng phệ và khung cửa tò vò gẫy nát. Thiên thần đứng đó để dẫn bạn lên Thiên Đàng, ở đó tất cả là dấu cộng, chẳng có gì là dấu trừ. Thiên thần đó giống như hình vẽ bóng trên giấy (đưa lên ánh sáng sẽ lộ ra), một bảo đảm cho cái viễn ảnh gạch sạch tội của bạn. Thiên thần cổ không có bướu. Chỉ có nghệ sĩ là có thôi. Thiên thần đứng đó để bỏ những cọng ngò tây vào đĩa trứng tráng của bạn, để thêu một bông hoa trên khuyết áo của bạn. Tôi có thể tẩy sạch những thần thoại ở bờm ngựa đi, tôi có thể chùi rửa mầu vàng ở Yangtsze Kiang đi, tôi có thể tẩy ngày tháng trên cái người ngồi ở thuyền gondola, tôi có thể tẩy xác những đám mây, vứt bỏ những giấy bóng bọc các đóa hoa cùng ánh sáng xiên khoai... Nhưng tôi không thể tẩy xóa thiên thần. Thiên thần là đại danh họa của tôi.