- 5 -
Một lần nữa, tôi lại trở lại chương vẽ phong cảnh ở trang 85. Toàn những tác phẩm tuyệt tác, mặc dầu các đường nét có cứng cỏi. (Người điên có một ám ảnh ghê gớm tính cách hợp lý và trật tự như lối của người Pháp). Từ nay tôi có nhiều điều phải vẽ nào là núi non, cầu cống, sân thượng, cây cối... Cái công trình vĩ đại của người điên đó là cây cầu luôn là cây cầu, cái nhà luôn là cái nhà. Ba người nho nhỏ đang khệnh khạng chống gậy ở hậu cảnh, nhất thiết là không cần cho bức họa, nhất là khi ta họa con ngựa lonie và cho nó một chỗ đứng đáng kể. Tôi đang kiếm một chỗ thuận tiện để đặt con ngựa vào đó. Có một điều đáng ta tò mò, chú ý ở phong cảnh này là có vẽ những bức tường thành kiểu Montauban, đã rụm đổ đó đây. Các bờ thành trông như những tảng đường, các căn nhà có rất nhiều cửa sổ, y như những người trong nhà hết sức sợ hãi trước quang cảnh đó. Có một cái gì rất gợi cảm khi ta bắt đầu họa một bức phong cảnh, tuy nhiên nó như đi ra ngoài mọi thời gian nhất định. Tôi có thể nói đơn giản là nó như nằm ở một cái vùng đất giữa Giotto và Santos Dumont với một chút thân mật của con đường tráng nhựa. Giờ đây, với phương châm đó dẫn đạo, tôi lấy lại được can đảm và bắt tay vào việc nữa.
Ngay dưới cái d... ngựa, và ngay chỗ mông con ngựa, ngay ở chỗ mà Salvador Dali rất muốn đặt một chiếc ghế kiểu Louis XV, hoặc một chiếc dây đồng hồ, tôi phóng bút vẽ một chiếc mũ cối và một trái dưa. Dưới cái mũ, tôi vẽ thêm bộ mặt người một cách hết sức vô tình vì lúc đó tôi có nhiều ý tưởng lộn xộn quá. Tuy nhiên, tôi đưa ngọn bút xuống theo đường ngoằn ngoèo của nét vẽ. Theo cách đó, tôi vẽ một bộ phận sinh dục của con ngựa thật lớn trong tình trạng cương. Nó là cái chân thứ năm, rồi tôi có thể vẽ nó cong lại thành cái tay người. Sao không! Lúc này tôi đã vẽ xong một người đội mũ cối rộng vành đứng sát bên mông ngựa. Đẹp! Đẹp! Tuyệt vời! Có thể xem nó có vẻ hơi thô kệch, hơi xa tính chất nghệ thuật thuần túy thời Trung cổ, tôi mặc cho cái tính chất bất thường của người điên hướng dẫn cảm hứng tôi. (Lần đầu tiên tôi thấy có một chút nghi hoặc len lén vào tâm tư, đến nỗi tôi không thể nào tập trung tư tưởng được nữa). Nhưng trang 366 viết: «Cuối cùng, với Matisse thì tính chất của đối tượng có thể được bộc lộ một cách hết sức trung thực, không cần phải theo sự chỉ dẫn của tinh thần hoặc sự chính xác của thị quan. Đó là tính cách phát biểu nguyên sơ nhất.» Tiếp tục vẽ... Sau khi hơi bị khó khăn khi vẽ chân người ta, tôi giải quyết bằng cách đặt nửa thân người đó dưới bức tường thành. Người đó đang dựa vào bức thành, có vẻ rất mơ màng, đồng thời tay hắn đang thúc vào sườn ngựa. (Dọc theo những bờ sông trên đất Pháp, bạn thường hay xô vào những người đang đứng dựa vào những bức tường chắn ở bờ sông họ đang mơ màng. Nhất là sau khi họ đã «xả bình» thật đã). Để rút ngắn công việc và xem còn bao nhiêu khoảng trống nữa trên bức tranh, tôi vẽ rất nhiều những đường ngang dọc để tạo thành một cây cầu đang đổ sụm. Việc này ít ra giết được 1/3 bức họa, nếu cứ theo đà này ta vẽ. Giờ tôi lại vẽ sân, bờ dốc thành, ba cái cây, những núi tuyết phủ, nhà và những cửa sổ hợp với những căn nhà. Nó giống như một con đường ngoằn ngoèo. Chỗ nào tảng đá nằm không đúng chỗ tôi vẽ thành một căn nhà, hoặc một mái nhà. Dần dần tôi vẽ lên phần trên bức tranh, chỗ đó may quá, khung ảnh đã bớt nhiều công việc. Chỉ cần thêm vào cây cối và núi đồi là xong.Giờ đây, cây cối lại là một vấn đề nan giải. Làm sao vẽ thành cái cây chứ không phải là một bó hoa. Tuy nhiên, tôi cũng phải để cho ánh sáng xuyên qua lá cành để bớt được một phần công việc. Thêm một chút mây mỏng, xóa đi vài cái cành lá thừa. (Xóa bỏ luôn luôn là một kỹ thuật tốt để đơn giản hóa vấn đề). Nhưng mây lại trông giống như những tờ giấy bóng mỏng đã làm bay tung những đóa hoa đám cưới. Một đám mây quá mỏng đến nỗi trông không thấy gì cả và cũng không phải như một giấy bóng kiếng nữa. Mọi vật nào có hình thù đều có thể trông thấy được. Michelangelo đã suốt đời tìm kiếm những hình thể trong đá cam thạch, trong thơ văn, trong tình yêu, trong kiến trúc, trong tội ác, trong Thiên Chúa... (Trang 390: «Nếu nghệ sĩ theo đuổi sự sáng tạo đích thực mà chỉ lo tìm đối tượng thì đối tượng đó có thể bị hy sinh và bị cái thiết yếu của sự sáng tạo chi phối».
Tôi đi tới núi — như Mahomet. Từ nay tôi bắt đầu thực hiện ý nghĩa của sự giải phóng. Một ngọn núi! Núi là cái gì? Đó là một đống bụi, không bao giờ bị hao mòn, ít ra là nó không có thời gian trong lịch sử. Một ngọn núi thì quá dễ. Tôi muốn vẽ một núi lửa. Tôi muốn có cái cớ để con ngựa của tôi phải hí lên, cất vó lên. Hợp lý! Hợp lý! «Người điên hơi tỏ ra lo lắng, để làm sao cho hợp lý!» (Người Pháp cũng vậy). Vậy thì tôi không phải là một người điên, nhất là không phải là một người Pháp điên. Vì thế, tôi vẽ cái miệng núi lửa trước, rồi vẽ tiếp xuống chân núi để nối với cây cầu và cái nhà ở dưới. Có một điều đúng là tôi vẽ những vết nứt ở sườn núi để diễn tả sự tàn phá do núi lửa gây ra. Đây là một núi lửa đang phun lửa và sườn núi đang bốc cháy.
Khi tôi đang làm việc, tôi vắt áo sơ mi trên tay tôi. Đúng là một áo sơ mi, vì tôi có thể nhận ra cái cổ cồn của áo và tay áo. Điều cần thiết hơn cả là cái nhãn hiệu Rogers Peet, số 16... Tuy nhiên có một việc bật nổi rõ rệt là cây cầu. Kỳ lạ thật. Nếu bạn vẽ được một đường vòng cung thì phần còn lại của cây cầu coi như tự nhiên xong. Chỉ có một viên kỹ sư mới có thể phá hủy cây cầu.
Càng tiếp tục vẽ hết thì công việc hầu như xong. Tất cả cái phần lờ mờ ở dưới tôi nối lại để vẽ thành một nghĩa trang. Góc cao hơn phía trái, có một lỗ do núi lửa để lại, tôi vẽ một thiên thần. Đó là một cái gì có một bản chất đặc biệt, một phát minh tự nhiên, có tính cách tượng trưng rất cao. Đó là một thiên thần vẻ buồn bã, bụng to, cánh do bộ xương sườn đỡ lấy. Thiên thần đó xem như bỗng nhiên hiện xuống giữa rừng tư tưởng của tôi và như bay liệng một cách huyền bí trên những con ngựa xứ lonie, hiện giờ đã mất về tay con người.
Bạn có bao giờ ngồi ở một ga xe lửa để xem thiên hạ giết thời giờ chưa? Họ có ngồi một cách thảm não như những thiên thần bị truất phế, lưng thì còng xuống, bụng phệ ra? Phút giây muôn thuở, họ bị lên án là phải sống mình với mình — tại sao ta lại không thêm đôi cánh cho họ? Tất cả những thiên thần trong nghệ thuật của tôn giáo đều là giả trá cả? Nếu bạn muốn xem thiên thần thực sự, bạn phải đi tới kho tàng Trung Ương hoặc nhà ga St. Lazare. Nhất là nhà ga St. Lazare và phòng Salle des Pas Perdus.
Lý thuyết hội họa của tôi là phải vẽ càng nhanh càng tốt, cần chăm sóc kỹ về mầu sắc. Vì thế, tôi là một tay pha mầu chứ không phải là một họa sĩ vẽ ngựa. Vậy thì bóp những tuýp mầu ra nào. Tôi bắt đầu vẽ cạnh sườn con ngựa bằng màu bóng. Không hiệu quả lắm. Tôi quệt đại một vệt màu đỏ thắm, trên bức tường cạnh đó. Hơi đẹp đẹp và hơi có vẻ Ý quốc. Xét chung tôi không bắt đầu một cách ổn thỏa về mầu sắc. Có một khung cảnh của một ngày có mưa làm gây nhớ cảnh Utrillo. Tôi không thích cái cảnh tĩnh mịch đến đần độn của Utrillo hoặc những ngày mưa cùng những con đường ngoại ô của thành phố đó. Tôi không thích cách đàn bà thành phố đó quay ngoắt lưng lại với bạn hoặc... Tôi lấy con dao cắt bánh ra. Tôi định thử lối họa bằng cách phết thật đầy son. Trong lúc bóp mầu ở ống mầu ra, có một cái gì thôi thúc tôi phải thêm một con thuyền gondola vào bức tranh. Tôi để chiếc thuyền đó nằm ngay dưới dạ cầu, nó tự động hạ thủy.
Giờ đây, tôi bất thần biết được lý do tại sao muốn vẽ con thuyền gondola. Trong những bức tranh của Renoir tôi xem hôm nọ có một cảnh vẽ thành phố Venise và dĩ nhiên là không thể không có con thuyền gondola. Giờ đây có một cái gì làm tôi hơi xúc động đó là một người ngồi trên con thuyền gondola, rõ rệt là một người đàn ông. Mặc dầu hắn chỉ là một chấm đen nho nhỏ, hơi tách khỏi những chấm khác làm thành ánh sáng mặt trời, biển sóng vỗ bập bềnh, những dinh thự đang sụp đổ, những cánh buồm... Hắn chỉ là một cái chấm trong cảnh mầu sắc huy hoàng — tuy nhiên hắn rõ rệt là người. Bạn có thể bảo hắn là một người Pháp và hắn là người của năm 1870 hoặc khoảng đó... Đây chưa phải là kết thúc của chiếc gondola. Hai ngày trước khi tôi rời đất Mỹ vào năm 1927-28 gì đó, chúng tôi tụ họp đông đảo trong nhà. Lúc đó nghệ thuật vẽ thủy mạc của tôi vào độ khá nhất.
Cái chứng mê thủy mạc của tôi bắt đầu một cách khá lạ lùng. Vì đói lại lạnh quá sức tưởng tượng, hàng ngày tôi phải lui tới trong nhiều tuần lễ với người bạn tên JOE ở các phòng tắm và cầu tiêu công cộng và ở những nơi nào chơi không tốn tiền. Vào một chiều kia, trên đường trở về nhà xác, chúng tôi thấy một bức vẽ phóng lại bức họa của Turner ở mặt tiền một tiệm tạp hóa. Ấy cũng vì thế mà tôi mê tranh thủy mạc, và đó cũng là một trong những thú vui nhất, hoạt động nhất trong thời kỳ bết nhất của đời tôi. Cả hai chúng tôi bỏ bừa bãi trên sàn đầy những bức họa, tôi không nói quá. Hễ khô đến đâu, chúng tôi lại treo lên tới đó. Ngày hôm sau, chúng tôi hạ loạt đó xuống để treo một loạt khác lên. Hết mặt phải chúng tôi lại vẽ sang mặt trái những bức họa cũ, rồi lại xóa đi hết. Có khi phải dùng dao cạo mầu đi và trong lúc thí nghiệm, bỗng chúng tôi khám phá ra nhiều chuyện rất đỗi ngạc nhiên. Chúng tôi lại tìm ra được cách tạo được một bức họa bằng café xay nhỏ và vụn bánh, than và cúc kim sa. Chúng tôi để những bức họa ướt sũng hàng giờ trong phòng tắm, dùng bàn chải chải mầu đi, sau đó mang bức họa lại gần mỡ chiên trứng gà đang nóng để nó bắn vào. Turner bắt đầu công việc họa như thế vào mùa đông giá buốt năm 1927-28 gì đó.
Hai đêm trước khi ra đi, có một số họa sĩ đến nhà để xem xét công việc chúng tôi làm. Họ là những họa sĩ nhà nghề và cũng chẳng thèm để ý gì tới công việc của những người tài tử như chúng tôi. Như thường lệ, các bức thủy mạc chờ khô nằm ngổn ngang trên sàn. Để làm một thí nghiệm cuối cùng, chúng tôi đi chân không trên những bức họa đó rồi rót rưựu vang từng chút một theo bước chân đi. Không hiểu cái kết quả do những gót bàn chân tạo ra cùng với rượu đổ trên cao từ năm phân mét ra sao. Chúng tôi lại càng thấy phấn khởi. Có hai người bạn chúng tôi đang dùng bút vẽ trên tường. Một người bạn khác đang đun café để mong vẽ được những bức họa mới. Còn một số thì đang uống café.
Trong giữa bữa tiệc trà thân mật — chừng 3 giờ chiều — vợ tôi bước vào. Nàng gọi riêng tôi ra rồi đưa cho một tấm vé tàu thủy. Nàng có vẻ hơi buồn. Tôi nhìn trân trối: «Để làm gì vậy em?» Nàng trả lời: «Anh phải đi ngay!» Tôi trả lời: «Nhưng anh đâu có muốn đi. Anh thấy hoàn toàn sung sướng ở đây mà!» Nàng nói một cách chua chát: «Em biết thế rồi! »
Dầu sao thì tôi cũng phải đi. Và khi vợ chồng chúng tôi dừng lại ở Thames, trong đầu óc tôi chỉ quay cuồng có mỗi một ý tưởng là làm sao phải xem bằng được phòng triển lãm tranh ở Tate. Cuối cùng chúng tôi đã tới đó và đã được nhìn tận mắt những bức họa thời danh của Turner. Có cái điều may là từ đó tôi đâm say mê lối vẽ thủy mạc. Turner quả thực là một họa sĩ trứ danh về bộ môn thủy mạc. Tác phẩm luôn được sáng tạo dưới ánh sáng ngọn đèn dầu. Tôi thực sự ghét cay đắng việc phải giã biệt London, thủ đô này làm tôi sống dễ chịu biết bao. Dầu sao, khi bị loại bỏ Southampton, tôi tự nghĩ «vòng tròn đã khép kín rồi, từ mặt tiền tiệm tạp hóa cho tới đây.»
Tuy nhiên cứ tiếp tục... con thuyền gondola này sắp trở thành một trở ngại đây. Nhưng trước hết phải lau sạch bức tường đã. Cầm con dao cắt bánh mì, tôi nhúng sâu vào thùng sơn rồi quệt vào các cửa sổ nhà. Jesu lạy Chúa, tức thời cả nhà như bừng lửa ngọn. Nếu tôi thực sự điên, hoặc không giả vờ điên, thì tôi sẽ vẽ thêm lính chữa lửa vào bức tranh, rồi vẽ những nét chéo nhau để thành những chiếc thang chữa lửa. Cơn điên của tôi đã mặc hình thức một đám cháy. Tôi sẽ biến cả căn nhà thành ngọn lửa hồng. Trước hết là bằng màu đỏ thắm sau đó đỏ son, cuối cùng màu đỏ máu. Bức tranh này được quyết định lấy tên là bức «một cuộc hiến tế thiêu sinh».