← Quay lại trang sách

- 2 -

Julian chuyên mặc màu xám, bất cứ màu xám nào ta có thể tưởng tượng ra được và chỉ màu xám thôi. Ông ta có cái vẻ chán nản của một kịch gia người Anh, mặt đầy gân, một người hay la cà đó đây, bắt chuyện với những người chuyên bán len, buôn bán nước ngọt, hoặc bất cứ món gì. Chỉ nghe giọng nói của ông ta, người ta cũng đủ bu đến rồi. Nó có vẻ như diễn kịch, ấm cúng, ngọt ngào, sắc bén hài hước của người Anh để biến một tư tưởng rất thường thành một cái gì quan trọng. Julian không nói điều gì có thể ghi âm được, nhưng giọng nói của ông ta lại gây một ấn tượng đặc biệt với những người nghe. Thỉnh thoảng ông ta và lão già cùng đi lang thang lại bàn Corse Payton, một thần tượng của Brooklyn đó. Corse Payton là một nghệ sĩ cũng như McCarren là một chánh trị gia.

Những điều cụ già luận bàn lúc này luôn luôn là những cái gì thật bí nhiệm với tôi. Cả đời cụ chả bao giờ đọc một cuốn sách, hoặc xem một vở kịch kể từ ngày Bowery trình diễn ở Broadway. Tôi có thể thấy cụ đứng hàng giờ ở quầy cơm trưa miễn phí với Julian, người khoái trứng cá muối và món măng hầm ở quán Olcott ông ta ăn sạch trơn chả cần phải nhờ đến chó nữa. Họ bàn bạc với nhau về Shakespeare, hoặc Hamlet hay Lear, những kịch phẩm bất hủ, hoặc bàn bạc về Công trình của Bob Ingersoll. Cùng lúc đó, đàng sau bar có ba người Ái Nhĩ Lan mặt nặng trịch, những con người hạ tiện, hàng ngày cũng có thói hay la cà ở bar đó. Họ nghĩ một cách tự nhiên là, phải có một đặc ân mới được người ta gọi là Patsy O’Dowd, một trong những kẻ hoang đàng, miệng còn hôi sữa, con của một con điếm mới ra ràng. Nếu ta hỏi O’Dowd rằng hắn có gì đáng khen không, hắn trề môi, lạnh lùng trả lời, chỉ mình bạn là người xứng đáng để «khạc» câu nói đó ra, rồi hắn cầm chiếc ly bạn đang uống lên, lấy khăn lau cho sạch, vì đó là công việc thường ngày của hắn. Người ta trả tiền hắn để hắn làm như vậy. Hắn càng chửi bẩn bao nhiêu, người ta càng quí hắn bấy nhiêu. Những thương gia ở tỉnh lên đạ quen thấy chiếc xe của họ được chùi sạch bằng khăn lụa, và sau khi lấy số xe gởi được nghe cái anh chàng thối miệng con hoang của một người Ái Nhĩ Lan gọi họ là những chàng trai hoang đàng vắt mũi chưa sạch, con của những con điếm... chửi cho vui.

Ông chủ của công ty thương mại phồn thịnh này là một người hơi mập, có những bắp chân trưởng giả, đầu như đầu sư tử. Lúc đi, bụng ông ta cứ phưỡn ra, một xị rượu vang nhỏ giấu sẵn trong túi gi-lê. Ông ta thường có thói gặc đầu một cách cứng cỏi kiêu kỳ với những thằng điên đang gật gù trong bar, trừ khi họ là những khách của Hotel, gặp trường hợp đó, ông dừng lại một chút, đưa ba ngón tay chuối mắn nổi đường gân xanh ra, nhếch bộ ria, rồi quay phắt một vòng dông luôn, ông ta là kẻ thù độc nhất của lão già. Lão già tự nhiên là không chịu nổi ông ta. Ông ta có cảm tưởng rằng Tom Moffat khi dễ lão. Khi Tom Moffat đến may quần áo là lão già phải tăng tiền công lên 10% hay 15% để đánh thuế tính kiêu kỳ của Moffat. Nhưng Tom Moffat, bẩm sinh đã là con người trưởng giả, ông ta không bao giờ trả giá và cũng chẳng bao giờ đích thân trả tiền hóa đơn. Ông ta chỉ bảo người kế toán của ông ta tìm ra sự khác biệt trong hóa đơn rồi người này trả tiền. Nếu có lúc phải may một bộ đồ soọc, một bộ nỉ mới, hay một bộ đồ vía, ông ta đi ào ào vào tiệm với vẻ trịch thượng cố hữu, bụng phưỡn ra, râu nhếch nhếch, đôi giầy bóng loáng, lộp cộp, rồi với một vẻ hơi khinh khi lãnh đạm, ông ta chào lão thợ may: «Này, cụ còn lộn nữa không đấy?» Vừa nghe nói vậy là ông già đã nổi sùng lên, lấy một miếng ăn thừa hay bất cứ đồ gì trong tầm tay quăng vào kẻ thù Tom Moffat. Làm gì mà cứ nhai đi nhai lại hoài cái «sai lầm chút xíu» của chúng tôi. Rồi ông già không tự kiềm chế được nữa. Viên kế toán của cụ, cụ dặn luôn phải tăng thêm chiều dài 3cm ở hóa đơn, nhưng không may đúng như vậy. Cuối cùng lão đụng phải một vấn đề khó giải quyết. Một hôm vào chính Ngọ, sau khi ăn uống như thường lệ, sau khi đã thương lượng với những khách bán len và ren tụ họp trong bar, cụ lừ lừ rút một tờ giấy trong cuốn sổ tính tiền của bar. Lão rút cây viết chì vỏ bạc đeo ở dây đồng hồ ra, ký tên vào tấm ngân phiếu, đưa cho Patsy O’Dowd và nói: «Bảo Moffat phải ký những tấm chi phiếu này để trả tiền thay tôi.» Rồi ông ta lặng lẽ đi ra, mời thêm một số bạn thiết nữa, bảo nhà hàng dành riêng cho một bàn ăn và đãi bạn. Khi Adrian đưa cuốn sổ tính tiền, lão bình tĩnh nói: «Đưa cây viết chì đây... Tôi trả cho tất cả những ông bạn này.» Khi thấy rằng ăn có bạn mới vui, cụ thường mời các bạn thân cùng dùng bữa trưa, và cứ nói đi nói lại với họ rằng: «Nếu cái thằng chó đẻ Moffat không trả tiền công may áo, thì chúng ta ăn để hắn phải trả... ha... ha...» Nói rồi, cụ gọi ngay món chim câu hầm, hoặc món tôm hùm nấu kiểu Newburg, một chai rượu Moselle ngon, hoặc bất cứ loại vang nào mà tên bồi bàn gợi ý ra.

Kể cũng lạ, là Moffat xem như không thèm đếm xỉa tới chuyện đó. Ông ta vẫn cứ đặt may hàng lố quần áo như thường lệ, mùa nào áo đó cứ thế... cứ thế ông vẫn cứ tiếp tục cãi nhau hóa đơn và vụ này dễ giải quyết kể từ ngày rắc rối về vấn đề ký chi phiếu ở cái bar của lão già thợ may đễ trừ tiền công may áo. Thôi thì thứ tiền: gọi điện thoại, chim câu hầm, tôm hùm, sâm-banh, dâu tươi, rượu Benedictine... Thật ra thì ông già ăn bậm vào số tiền ghi trên hóa đơn đặt may áo nhiều đến độ Moffat không lấy áo ra kịp. Khi vừa đến đặt một bộ đồ nỉ thì lão già đã ăn hết hôm qua rồi.

Cuối cùng Moffat tỏ ý muốn kéo dài việc trả tiền. Phiếu đặt hàng ngừng lại. Một hôm, gặp tôi đứng ở cầu thang, cụ vỗ nhẹ vào vai tôi, mời tôi lên phòng riêng, khen tôi là một bạn trẻ nhạy cảm và nói rằng giữa tôi với cụ có thể cứ tiếp tục giao thiệp với nhau được, mà chả ai phiền ai. Nhìn vào chi phiếu trả tiền, tôi thấy cụ đã ăn bậm vào số tiền công may. Có lẽ tôi cũng đã ăn bậm vào một bộ áo dài tay hay jacket chi đó. Chúng tôi cùng bàn là có nên tiếp tục nhận sự bảo trợ khinh khi của Moffat nữa không, có nên để ông ta tiếp tục bới những sai lầm trong hóa đơn không. Tôi kẹp vào nách một mớ những tấm chi phiếu và hứa với cụ sẽ xem xét lại tất cả.

Ông cụ già rất đỗi vui mừng vì công việc làm ăn vẫn trôi chảy, và cứ thế cả hàng bao nhiêu năm trường. Và dẫu vậy, Tom Moffat vẫn cứ đến đặt hàng, và chào ông già với lời chào cố hữu «Sao cụ còn tiếp tục tính nhầm nữa không đấy!»— Đây là loại vải xám Barathea tuyệt đẹp tôi dành cho ông đây... Moffat khẽ nhíu đôi lông mày, cười khẫy, đi đi lại lại như một con gà tây, đôi chân nhún nhảy tinh quái. Nửa giờ sau đó, ta lại thấy lão già đứng trong bar khoái hoạt nói: «Lại ký cho lão Moffat trả một bữa cơm trừ vào tiền công một chiếc áo jacket. Tiện thể Julian, bác thích món gì nào, ta kêu luôn.»Như tôi đã nói, cứ chính Ngọ là lão có thói đi ăn; cơm trưa thì bạ đâu ăn đó và bữa ăn thường kéo dài tới bốn hoặc năm giờ chiều. Bồ bịch của lão trong những ngày đó tha hồ vui vẻ. Sau bữa ăn, bọn người đó lại khệnh khạng lên thang lầu, khạc nhổ, cười hô hố, má đỏ ửng lên, rồi ngồi vật xuống những chiếc ghế bành lớn có để những ống nhổ kế bên. Ở đó có sẵn Pattee, người chuyên bán hàng tơ lụa, ren, cuộn chỉ, cúc áo, vải bố. Ông này là một người chậm chạp, thô kệch, giống như một con tầu bị bão táp quật nát, luôn luôn đi lại trong một tư thế thuyết dụ, ông ta tỏ vẻ mệt mỏi đến độ họa lắm mới nhếch mép được, nhưng khi hắn nhếch mép thì mọi người có cảm tưởng bị xóc bụng, hắn lầm bầm một mình nhất là về món bơ. Hắn khoái món bơ lắm, đẳng hạng là bơ Schmierkäse và Limburger, càng mềm càng tốt. Giữa chuyện bàn về bơ, hắn còn xen vào chuyện về nhạc sĩ Schubert Heine, hoặc một trận đấu võ nào đó cứ y như hắn sắp đoạt giải vô địch tới nơi. Hoặc hắn hỏi mượn hộp quẹt, bật lên rồi ngồi trên ghế nói về cái mầu của ngọn lửa ra sao. Hắn không bao giờ nói «chào tạm biệt» hoặc «hẹn sẽ gặp lại», nhưng luôn luôn là tiếp nối câu chuyện bỏ dở hôm qua như thể không có sự gián đoạn của thời gian. Chín giờ sáng hay sáu giờ chiều, không thành vấn đề, hắn luôn đi lại trông có vẻ phấn khởi, vui vẻ, chậm rãi, lầm bầm một mình, đầu gục xuống, ren cắp nách, hơi thở sặc mùi rượu, mũi đỏ và nóng nhẫy, hắn lủi đi giữa phố xá đầy nhúc người, một túi bỏ đầy bơ Schmierkäse túi kia đầy bơ Limburger. Bước lên thang máy, vào nhà hắn lại nói giọng đều đều đủ thứ nào là về công việc làm ăn, sắp có vài thứ hàng vải mới, bơ đêm qua ngon tuyệt... ta có thể nghĩ đến chuyện trả cuốn sách mới mượn hôm qua, hoặc trả tiền sớm để có hàng sớm, hoặc thà đi xem vài bức tranh bẩn thỉu, hoặc nhờ người gãi lưng giùm, nói chuyện tầm phào... còn hơn phí thì giờ với hắn, hoặc thà đội mũ lên đi nhậu với lão già còn hơn. Hắn ta vẫn cứ lầm bầm, càu nhàu, đợi lão già thợ may vì khi ông cụ về hắn ngẫng mặt lên đầy vẻ biết ơn. Ông cụ hỏi: «Ferd, chào bác, bác vẫn mạnh chứ. Gặp bác thật là hân hạnh.» Bộ mặt phèn phẹt của Ferd nở ra trở thành cái nhếch mép, đáng yêu cởi mở, thoáng một giây rồi hắn sủa lên đến nỗi Tom Moffat đi qua ở dưới cũng nghe rõ «Cụ nên thanh toán sớm cho tôi những món tôi đã bán chịu cho cụ chứ.»

Khi thang máy vừa xuống tới tầng dưới thì thằng nhỏ Rubin ở phòng sửa quần áo chạy ào ào vào, mắt hắn nhìn tôi một cách man dã rồi hỏi:«Bác có thích nghe cháu hát không?» Nó đã biết thừa là tôi thích, vì thế trở lại chiếc ghế dài, nhặt chiếc áo đang may dở lên, hắn cất cao cái giọng miền Cossack của nó lên. Nếu tình cờ gặp bé Rubin, ta có thể cho nó là một «thằng bé Do Thái bẩn thỉu» và có lẽ nó thế thật, nhưng nó lại biết ca hát, khi bạn túng tiền nó biết mở hầu bao, khi bạn buồn nó là kẻ buồn hơn. Nếu bạn giẫm chân lên nó, nó nhổ bọt vào đôi giầy của bạn, nếu bạn tỏ ý xin lỗi, nó sẽ chùi sạch nước bọt và đánh bóng giầy lại cho bạn, hắn có thể ủi quần thẳng nếp như máy.

Ở phòng thử quần áo thì Rubin, Rapp và Chaimowitz là ba người nhỏ thó nhất. Vào chính Ngọ, cả ba rút ra những miếng bánh mì to tổ bố không men của người Do Thái, đã được cẩn thận nhét đầy nào bơ ngọt, xà lách, cá mòi nướng. Trong khi ông già gọi nào là bò câu quay, rượu nho Rhine thì Bunchek, thợ cắt và ba ông thợ nhỏ thó ngồi trên những chiếc ghế dài ở phòng thử giữa những đống quần áo, nói chuyện rất hăng và thật trịnh trọng nào là tiền thuê nhà, hoặc chứng ung thư tử cung của bà Chaimowitz. Bunchek là một hội viên tích cực của Phong trào Phục hồi Quốc gia Palestine. Hắn tin rằng người Do Thái thế tất phải có một tương lai hạnh phúc rất gần. Tuy nhiên, không bao giờ hắn nói được một tiếng cho đúng giống như là «áp bức». Ngoài việc say mê với Phong trào Phục hưng Quốc gia Palestine, Bunchek còn có cái khoái là thích một ngày kia sẽ may một chiếc áo cổ áo ôm siết vào cổ. Hầu như khách hàng nào cũng vai tròn, bụng phệ, nhất là những tay chơi, suốt ngày chả có công việc gì hết, lổng nhổng ở tiệm may áo sang tiệm quần chuyện gẫu, hết tiệm nữ trang sang tiệm trồng răng, tiệm thuốc tây... Có nhiều việc thay đổi xảy ra, cùng với thời gian quần áo cũng rách, mỗi mùa qua đi, lại phải xếp áo lại, chờ năm sau sẽ mặc, nhưng sang năm tới thì có người phì ra hai mươi ký hoặc sút đi hai mươi ký hoặc nước tiểu đường... quần áo lại phải sửa lại cả.