- 3 -
Rồi anh chàng Paul, có thể kiếm cả mười ngàn đô-la một năm, nhưng luôn thất nghiệp. Có hồi kiếm được việc làm, nhưng người ta chỉ trả chín ngàn đô-la một năm, hắn không thèm chấp nhận đề nghị đó vì kiêu và đó là đề tài hắn càu nhàu lẩm bẩm suốt đi, rồi phải đi tìm việc khác. Paul cảm thấy có bổn phận bảo trợ việc may cắt của ông già. Một khi hắn ra tay là y như công việc trôi chảy, chả có bao giờ có một chuyện thắc mắc trong đầu óc hắn vì ông cụ rất chân thật. Nhưng lại phải cái tính hay mơ mộng. Cụ là người tiểu bang Indiana, tính tình dễ thương, như một con đường phẳng lì, êm ru, trải toàn mật ong, như thế cụ có phạm tội loạn luân đi nữa người ta cũng bỏ luôn cho cụ; một khi cụ chọn được một chiếc cà vạt hợp thời, chọn được cây can vừa ý, đôi găng tay thật hợp, đôi giầy bóng rít lên, và dây lưng quần có một xị rượu whisky, thời tiết đừng ẩm ướt quá, hoặc quá ảm đạm thì hình như có một suối ấm đầy tình thương yêu và hiểu biết, thông cảm luân lưu trong huyết quản đến độ những người bán ren, mặt dạn mày dày, ăn nói cục cằn, giờ gặp cụ cũng phải nói những lời êm dịu nhất.
Khi mọi việc an lành cả thì Paul cũng trở thành một người đàng hoàng như bất cứ ai ở vùng Đất Hứa của Thượng Đế. Hắn cũng biết yêu như bất cứ ai. Và tôi chưa thấy ai có tài thuyết phục và gây cảm tình như vậy. Khi niềm tin đã dâng lần trong lòng hắn thì chẳng ai dập tắt được.
Paul thường nói «Ta hãy bắt đầu từ chuyện Marcus Aurelius hoặc Epictetus rồi hãy tiếp gì thì tiếp.» Anh ta nói chả cần học tiếng Trung Hoa hoặc thổ ngữ miền Provençal. Hãy bắt đầu bằng việc suy tàn của đế quốc Rô-ma. Hồi đó tôi có tham vọng là làm sao Paul đồng ý được với tôi nhưng anh ta quả khó chiều. Anh ta chau mày khi tôi đưa cho anh cuốn «Zarathustra đã phán như vậy». Anh ta cũng chau mày khi thấy tôi ngồi ở ghế dài tranh luận với mấy anh lùn đó về ý nghĩa cuốn «Évolution créatrice». Anh ta ghê tởm bọn Do Thái trên hết mọi sự. Khi Bunchek, viên thợ may ló mặt ra, cổ quấn cái thước dây, Paul tỏ ra rất lịch sự và nể lắm. Anh ta biết là Bunchek khinh mình, nhưng vì ông ta là cánh tay mặt của lão già nên hắn tâng bốc, khen ngợi hết lời. Vì vậy thỉnh thoảng Bunchek cũng nhận thấy Paul hơi khùng khùng, mặc dù lùn nhưng anh ta vẫn tỏ ra có một cái gì đặc biệt làm ai cũng phải quí mến.
Xét bề ngoài thì Paul quả là sự vui vẻ hiện thân. Nhưng nội tâm, anh là con người rất buồn khổ. Thỉnh thoảng bà xã anh ta thường mắt rươm rướm, chạy ào vào tiệm khẩn khoản xin ông già khuyên nhủ Paul giùm. Hai vợ chồng thường đứng ở cạnh chiếc bàn trong kê sát cửa sổ nói chuyện nho nhỏ. Nàng rất đẹp, người cao lớn, chân dài, cứ như tượng, giọng nói trầm ấm và như run run mỗi khi nói tới tên Paul. Tôi còn mường tượng thấy ông già đặt tay lên vai nàng, trấn an nàng và hứa đủ thứ với nàng. Tôi biết nàng mến ông già lắm. Nàng thường đứng sát vào cụ, nhìn sâu vào mắt như thôi miên cụ. Đôi khi cụ chụp mũ vào rồi cùng xuống thang gác với vợ chồng Paul, điệu ủ rũ như là đi đưa đám cả lượt. Thế rồi, Paul lại biệt dạng, không ai biết tăm tích đâu mà mò, khi anh ta đang nổi cơn vui chơi. Rồi một ngày nào đó, anh ta lại bỗng trở về, chán nản, hối hận xấu hổ và xin lỗi mọi người, đồng thời anh ta đưa mấy bộ đồ để giặt khô, tẩy sạch những vết ói mửa và sửa lại một chút ở đầu gối.
Sau đó một chút, Paul lại nói thao thao bất tuyệt. Anh ta thường ngồi ở một chiếc ghế da sâu lòng, một tay cầm đôi găng, chiếc cán cặp giữa đôi chân, bàn luận về Marcus Aurelius. Xem ra anh nói hay hơn khi mới rời bệnh viện, hoặc khi mới sửa mũi lại. Cách thức anh ta ngồi ở ghế bành làm tôi nghĩ rằng anh ta đến tiệm may chỉ vì không tìm thấy ở đâu một chỗ ngồi tiện nghi như vậy. Quả là một công việc mệt nhọc khi phải ngồi xuống hoặc đứng dậy khỏi ghế. Nhưng khi đã ngồi rồi, Paul xem ra rất thoải mái, vui vẻ, lời nói tuôn tràn như suối reo. Ông cụ có thể nghe Paul nói suốt ngày. Cụ thường nói Paul là người bẻm mép, nhờ cái lối nói không vấp váp của Paul. Paul được coi như một người đáng yêu nhất của Đất Hứa, hơn nữa lúc nào lòng cũng phấn khởi. Khi Paul quá hối vì đã đặt may một bộ đồ, cụ thường la anh ta và nói: «Cái anh này, chẳng có gì anh coi là tốt cả! Xà! »
Paul phải nhận rằng, giữa anh và cụ có một cái gì hợp tính nhau lắm. Chưa bao giờ tôi thấy hai người nhìn nhau trìu mến như thế. Đôi khi họ nhìn nhau đến độ ứa nước mắt và chả ai tỏ ra ngượng ngùng khi thấy nước mắt chảy ra và có ai nhìn thấy thì cũng coi như pha. Tôi còn có thể nhận ra bộ mặt đầy tàn nhang, xấu xí, môi hơi dầy, hay khóc, nhếch lên của Paul, khi cụ già nhắc tới lần thứ một ngàn rằng anh ta quả là con người tốt. Paul không bao giờ nói cho cụ già biết những điều anh ta không hiểu, nhưng nói về những chuyện thường nhật, chàng bàn luận rất hăng hái, chàng nói rất êm ái, dịu dàng và cụ già xem ra hồn lìa xác để theo dõi chuyện của anh ta. Khi Paul đi rồi, cụ như kẻ mất hồn. Cụ sẽ chui vào một chỗ kín ở sở làm, ngồi đó một mình nhìn vào dãy hộc tủ đầy những lá thư chưa trả lời và hóa đơn chưa trả tiền một cách buồn bã. Khi nhìn cụ trong tình trạng đó là tôi vội nhè nhẹ xuống thang gác lủi về nhà, qua phố Bowery, rồi đi học theo đó tới cầu Brooklyn, rồi đi qua một dãy những chiếc giường rẻ tiền dàn hàng từ Tòa Đô chính tới bến phà Fulton. Nếu là một chiều hè, lối đi đầy những người chen vai thích cánh, tôi sẽ cố tìm xem trong đám đó có mấy người như Paul và tại sao họ lại thất bại ở đời như vậy, còn trong khi những người khác thành công thì lại thở hào hển như vậy. Tôi thấy lưng họ còng xuống, xương xẫu vêu ra, gân xanh nổi hẳn lên, bướu sưng lên, bộ ngực rám nắng, bụng phì ra hoặc trở thành không hình dạng với năm tháng chất chồng. Vâng, tất cả những kẻ bán hàng rong đó tôi đều biết cả, họ bẩn thỉu, hôi hám, đứng bên họ như đứng bên thùng rác, rồi thân xác thì đủ mọi bệnh tật do sầu khổ và giàu sang gây ra. Khi nói về mình thì đầy giọng buồn mửa ra được, lúc nào cũng «tôi, tôi». Tôi và thận của tôi. Tôi và bệnh gút của tôi. Tôi và bệnh gan của tôi. Khi tôi nghĩ tới bệnh trĩ của Paul, nghĩ tới bệnh mũi của họ, nghĩ tới tình yêu mến và sự học hỏi phát xuất từ những vết thương nặng của họ, tôi nghĩ rằng Paul không phải con người của thời đại này, nhưng là bà con anh em của Moses Maimonides, một người dưới thời Moor đã dạy ta biết cách chữa trị kỳ lạ các bệnh «trĩ, mụn cóc, nhọt bọc...»Những người cụ già quí lại thường chết non và đột ngột. Paul chết khi đi nghĩ ở bãi biển. Chàng bị chết đuối. Có người nói là anh ta bị thất tình. Vì có một lần Cora lên thang gác, mặc bộ đồ tang rất đẹp, khóc lóc như mưa. Chưa bao giờ tôi lại thấy nàng đẹp như vậy, dáng người dong dỏng cao, đẹp như một pho tượng. Tôi còn nhớ rõ tấm khăn nhung bó sát vào mặt. Tôi còn nhớ rõ lúc hai vợ chồng Paul đứng sát nhau kề cửa sổ. Lúc này nàng khóc lóc thảm thiết, ông già lại chụp mũ lên, rồi lại cùng nàng đi xuống lầu. Một lúc sau, không hiểu cụ nghĩ sao, cụ cứ giục tôi tới thăm vợ Paul và chia buồn với nàng. Khi bấm chuông phòng của chị, tôi run bắn người lên. Tôi cứ mong là nàng lõa thể ra mở cửa, ngực có đeo một chiếc băng tang. Tôi đắm đuối vì sắc đẹp của nàng, với cặp mắt bồ câu, đắm đuối vì vẻ mơ màng và cái hương thơm của miền Indiana nàng đã ngụp lặn trong đó. Thế mà lại mặc bộ đồ cụt, bộ đồ tang rất đẹp bẳng nhung đen, bó sát người. Đó là lần đầu tiên, đối diện với một người đàn bà có tang, một người đàn bà khi khóc ngực như muốn xổ tung ra. Tôi chả biết nói gì với nàng cả, nhất là nói về Paul. Tôi ấp úng, ngập ngọng, khi nàng mời tôi ngồi bên cạnh nàng trên ghế tràng kỷ, tôi có cảm tưởng đang ngồi xuống ôm lấy nàng.
Nàng ngồi trên một chiếc ghế đẩu nhỏ, ánh sáng chiếu mờ mờ, cái lưng to lớn của nàng chạm vào người tôi, ngực nàng cọ vào thái dương tôi, chúng tôi nói tất cả những chuyện về Paul, rằng anh ta tính nết thế nào, tốt ra sao, cuối cùng, tôi cúi xuống không nói gì cả, nâng áo nàng lên rờ vào người nàng. Tôi tiếp tục rờ vào người nàng, nàng thở dài sườn sượt, một chút khoái thú pha lẫn chút buồn thương vì chiếc áo tang còn sờ sờ ra đó, nàng nhắc đi nhắc lại: «Em không ngờ anh như vậy... Em không bao giờ nghĩ là anh sẽ làm như vậy...» Nói xong, nàng cởi chiếc áo nhung đen ra, chiếc áo tang đẹp, cắt ngắn, nàng víu đầu tôi xuống người nàng, nói là tôi hãy hôn nàng đi, hai tay mạnh khỏe của nàng ôm ghì lấy tôi, vừa rên rĩ, vừa khóc. Rồi nàng đứng dậy khỏa thân đi loanh quanh trong phòng một lúc. Cuối cùng nàng quì xuống cạnh chiếc ghế đi-văng tôi, tôi đang ngồi duỗi dài ra, nàng nói: «Anh có hứa với em là yêu em mãi mãi không? Anh hứa đi!» Tôi trả lời «Anh hứa» rồi một tay ôm ngang eo nàng, và tôi nghĩ «Không biết mình phải đợi đến bao giờ đây.» Nàng khóc như mưa, như đứa trẻ, rất chân thành, làm sao có thể nghĩ tới việc làm «tối hù» đó được. Nàng là con chim bị tên rồi.
Luôn luôn vui vẻ và tươi sáng! Cứ đều đều, mỗi mùa có một số người chết. Có khi là một cái chết lãng nhách như cái chết của Paul hay của Julian Legree, có khi một người chủ bar bị cà mũi vào chiếc đinh gỉ sét, hôm nay đang khỏe mạnh hăng hái, ngày mai đã ngã ra chết, cứ đều đều như vận hành bốn mùa, các con ó già cứ chết dần. Lúc đó chả phải làm gì cả, chỉ việc kẻ một vạch đỏ ở phần lề phải cuốn sổ hóa đơn và ghi «đã chết». Mỗi cái chết có thêm một chút việc, một bộ đồ chế mới, hoặc băng tang ở tay áo bên phải. Theo cụ già thì những ai đặt may băng tang là những kẻ đáng khi. Giống như máu đen được thay thế cho máu đỏ, máu mới. Máu mới! Đợt sống mới! Đó là một trận chiến vàng lên khắp dọc đại lộ, ở đâu có bán những bộ đồ tơ lụa. Họ là những đợt sống mới, thôi thì đủ mặt: găng-tơ, cờ bịch, gian thương, đầu cơ tích trữ, những kịch sĩ mạt hạng, những kẻ chiếm giải... Hôm nay giầu sang, ngày mai nghèo kiết, không có óc liêm sĩ, lòng chân thành, hoặc một chút tinh thần trách nhiệm. Trong máu họ luôn luôn là có vi trùng hoa liễu. Từ Paris hoặc Monte Carlo trở về với những tấm bưu thiếp bẩn thỉu, với những chuỗi hạch xanh cứng như đá nổi lên ở háng. Có người có những vết sưng tấy lên như thịt trừu chiên.