← Quay lại trang sách

Chương 3 MÙA THU Người cầu nguyện - The Prayer

Vầng trăng trắng ngà nổi lên giữa bầu trời đêm trong vắt của mùa thu. Một vầng trăng mập mạp nửa vời, vài ngày nữa mới trở nên tròn vành vạnh. Ánh trăng màu xanh nhạt, làm nổi lên mờ mờ cảnh vật của khu mũi đá không một bóng người này, nhìn như một thủy cung giữa buổi đêm. Mặt biển bên dưới đen ngòm, như nhựa than đá nung chảy, phản chiếu ánh trăng lấp lánh.

Cơn gió đêm trượt bên trên mặt biển đen ngòm thổi ngược lên vách đá, mang tới cơn gió mát cho không gian bên trên mũi đá. Đón nhận cơn gió ấy, đám bông lau phất phơ chạm vào nhau tạo nên tiếng xào xạc nho nhỏ.

Đám côn trùng mùa thu, dế và bọ chuông quay 360 độ vòng quanh tôi, cất tiếng kêu ầm ĩ.

Trộm tới rồi đây.

Tên này là một kẻ xâm nhập trái phép.

Tiếng động giống như rất nhiều người đang đi tới, tạo nên âm thanh giống như cơn gió. Đầu gối tôi đã sớm run rẩy. Tôi tiến từng bước về phía trước trên đôi chân thảm hại của mình. Thật khẽ, thật khẽ để không gây ra tiếng động…

Đêm xuống, tiệm cà phê liền giống như một ngôi nhà nhỏ nghèo nàn cắm tạm bợ trên nền đất, không đổ móng gì cả. Tôi vừa tự trấn an chính mình “Bình tĩnh nào, bình tĩnh nào” vừa đi về phía bên phải của tiệm.

Cảm giác sau mỗi bước chân của tôi, tiếng côn trùng mùa thu càng to rỗ hơn. Chúng đang chỉ trích tôi, những tiếng kêu, tiếng gáy, tiếng động…

Tim tôi đập loạn tới mức khó mà nghĩ rằng nó thuộc về cơ thể tôi, tôi không thể áp chế nổi nhịp đập ấy. Hơi thở cũng trở nên dồn dập hơn. Bước lên bậc tam cấp, tôi lên đến khoảng hiên nhà làm bằng gỗ có đặt một cái bàn và hai cái ghế cũ kỹ. Không biết có phải do không được làm cẩn thận lắm, mà mỗi bước tôi đi những tấm ván lại kêu lên két, két.

Thứ tiếng này là sao chứ. Đây có phải nhà ma đâu… Đúng lúc tôi nghĩ vậy thì…

“Ối!!!”

Đột nhiên, một thứ màu trắng hiện ra dưới chân tôi, tôi thiếu chút thì không đứng vững. Tôi bình tĩnh lại nhìn cho kỹ, hóa ra đó là con chó. Vòng cổ của nó có buộc một sợi dây dài, sợi dây nối với ngôi nhà nhỏ cho chó nằm ở cuối hiên nhà.

Con chó thở những tiếng hộc hộc ngắn, vẫy chiếc đuôi trắng tròn của nó.

“Thật là. Làm mình hoảng cả hồn…” Tôi thầm thì xen lẫn tiếng thở dài, lấy một chiếc xúc xích cá từ chiếc ba lô đeo trên vai ra. Không buồn gỡ túi nilon bọc ngoài, tôi bẻ chiếc xúc xích làm đôi, khẽ đặt trước cửa ngôi nhà nhỏ dành cho chó.

Con chó đưa mũi tới ngửi mùi một lúc, rồi khó nhọc cắn miếng xúc xích cá mới chỉ lòi ra một đầu. Với món này, có lẽ con chó sẽ ở yên đó được một lúc.

Cạnh chiếc bàn ngoài hiên có một cửa sổ kính với khung gỗ được sơn màu xanh dương. Loại cửa gợi cảm giác đầy thân thương hoài niệm, là loại cửa thường thấy trong thời kỳ Chiêu Hòa [18] . Lúc nhìn vào kẽ hở giữa hai cánh cửa sổ đó, tôi hơi ngạc nhiên.

Thế mà lại không có khóa. Cửa sổ này không có chốt khóa.

Sao chủ nhân của nó có thể bất cẩn nhường ấy nhỉ? Với cửa sổ kiểu này, một kẻ mới hành nghề đạo chích như tôi cũng sẽ dễ dàng vào được thôi.

Tôi khẽ trượt cánh cửa sổ bên phải sang một bên. Tuy nhiên, có vẻ cửa được lắp vụng về quá nên chỉ mở ra được tầm ba xen-ti. Cánh cửa sổ bên trái cũng vậy. Chẳng còn cách nào khác, tôi đành nắm chặt khung cửa sổ và nâng nó lên, cánh cửa sổ bên phải dễ dàng bung ra.

Con chó trắng thỉnh thoảng sẽ quay sang để ý trạng thái của tôi, nhưng rồi nó lại sớm dồn sự chú ý vào chiếc xúc xích cá bên trong vỏ nilon, tiếp tục cuộc chiến gian nan của nó, có vẻ khó ăn thật.

Tôi chú ý hết sức để không tạo ra tiếng động, đặt khung cửa sổ vừa tháo ra xuống nền hiên. Ngay cả những vật trang trí và các chậu cây được bày lộn xộn trên bệ cửa sổ cũng được tôi nhẹ nhàng lấy ra từng cái một, xếp hàng ngay ngắn bên ngoài hiên.

Tới lúc rồi. Những việc tôi làm tới lúc này là phá hoại tài sản của người khác. Bước tiếp theo là xâm nhập nhà ở trái phép. Và cuối cùng là ăn trộm. Nếu không phải trở thành một kẻ giết người cướp của thì tốt… Vừa nghĩ vậy, tôi vừa lôi một con dao pha luông [19] từ trong ba lô ra.

Tôi rút con dao dày cộp từ chiếc vỏ dao làm từ gỗ cây liễu ra.

Lưỡi dao thép phản chiếu ánh sáng xanh nhàn nhạt của vầng trăng, nó được mài cẩn thận đến mức nếu lắng tai nghe sẽ có cảm giác như nghe thấy tiếng “keng” vang lên.

Chuyện đó là đương nhiên. Vốn dĩ tôi là thợ mài dao chuyên nghiệp. Mà không, có lẽ nên nói tôi từng là thợ mài dao thì đúng hơn. Bởi từ giây phút này tôi sẽ trở thành kẻ trộm.

Tôi tăng thêm lực nắm chuôi con dao pha luông trong tay. Nuốt nước bọt đánh ực một tiếng.

Cơn gió đêm màu xanh nhạt mang theo mùi của biển thổi tới. Cảm giác như tiếng dế và tiếng bọ chuông mỗi lúc một ồn ã hơn. Bên dưới vách đá, biển đang rầm rì rên rỉ.

Tôi sẽ đi ăn trộm thật ư?

Đã tới giờ hành sự, tôi vẫn hỏi lại cho chắc. Không phải hỏi lại chính mình, mà là hỏi con dao pha luông đã được tôi mài sắc đến hoàn hảo. Nhưng thứ cất tiếng đáp lại lại là bao tử trống rỗng của tôi.

Ọc ọc ọc…

Ngẫm lại thì cả ngày hôm nay tôi không được bữa nào cho ra hồn rồi. Cây xúc xích cá tôi cho con chó trắng ăn khi nãy là món đồ ăn cuối cùng của tôi.

Phải có thực mới vực được đạo chứ.

Phù… Tôi nén lại hơi thở run rẩy, tăng thêm quyết tâm của mình. Sau đó, tôi đặt chân lên bệ cửa sổ, run run xâm nhập vào bên trong căn nhà.

❀ ❀ ❀

Ánh trăng không rọi được tới bên trong tiệm.

Tôi bật chiếc đèn pin nhỏ mua ở cửa hàng một trăm yên, đầu tiên tôi rọi xuống chân mình. Sàn nhà thô lậu được làm từ những mảnh ván vụn đóng đinh cẩu thả hiện lên mờ mờ dưới ánh sáng vàng của cây đèn pin.

Tôi lướt ánh sáng lên trên, lần này tôi quay đèn nhìn qua một lượt trong tiệm.

Có hai chiếc bàn. Những đồ trang trí chẳng rõ của nước nào được bày lung tung khắp nơi, trên chiếc giá nằm sâu bên trong tiệm chứa đầy đĩa than và đĩa CD. Một cây guitar cổ điển cũ kỹ được dựng cạnh cửa sổ. Chiếc lò sưởi củi có ống khói tráng thiếc đã khá cũ, phía sau nó là một quầy thanh toán cũng cổ lỗ sĩ nốt. Bên trong quầy thanh toán là một cửa phòng dạng trượt.

Bà lão chủ tiệm sống trong căn phòng phía sau cánh cửa trượt ấy. Ban ngày, lúc tới đây nhòm từ bên ngoài vào trong để thám thính tình hình, tôi đã nhớ đại khái được sơ đồ nhà trong giới hạn những thứ tôi nhìn thấy rồi.

Bà lão đừng có ra ngoài này nhé, xin bà đấy.

Tay phải tôi cầm con dao pha luông, tay trái cầm đèn pin. Hai tay tôi đeo loại găng tay cao su dùng để làm bếp mua ở cửa hàng một trăm yên. Đôi găng tay có màu hồng. Có thể vẻ ngoài này thể hiện rõ tôi là một tên trộm nghiệp dư, nhưng đây đích thực là lần đầu tiên tôi làm việc này nên cũng chẳng làm gì khác được. Đầu gối tôi run tới mức như sắp rời cả ra, nhưng sau vài lần chôm chỉa cho quen chắc sẽ hết run thôi.

Vừa cố gắng sao cho không gây ra tiếng động trên lớp sàn gỗ tạm bợ rẻ tiền, tôi vừa tiến từng bước về phía quầy thanh toán. Nhưng giữa chừng tôi khẽ va phải chân ghế, tạo ra tiếng lạch cạch nho nhỏ.

“Nguy… nguy hiểm quá. Phải đi cẩn thận hơn mới được.”

Vừa thầm thì với con dao pha luông như vậy, mắt tôi đột nhiên dừng lại ở bức tranh treo trên tường. Trên tường có hai bức tranh treo cạnh nhau có đóng khung. Bức bên phải vẽ cảnh mép đá, trên mép đá có hai người đàn ông câu cá đang ngồi quay lưng lại; nét vẽ rất khoáng đạt và mạnh mẽ. Bức bên trái là tranh phong cảnh, vẽ một chiếc cầu vồng rực rỡ bắc ngang trên biển.

Đây là phong cảnh nhìn từ mũi đá này ư?

Tôi dùng ánh sáng của cây đèn pin để soi rõ bức tranh cầu vồng.

Bức tranh với nét vẽ mềm mại này tỏa ra mị lực ngay cả khi được đặt trong tiệm cà phê mờ tối. Tôi liên tục nhắc nhở bản thân rằng “Không được! Không được!”, nhưng đôi chân tôi vẫn tự ý tiến về phía bức tranh. Và rồi, khi cuối cùng cũng tiến được tới khoảng cách có thể ngửi thấy mùi sơn vẽ, tôi bắt đầu say mê thưởng lãm từng chi tiết của bức tranh.

Càng ngắm càng thấy bức tranh thật đẹp.

Tôi đột nhiên cảm thấy muốn được ngắm bức tranh thật kỹ lưỡng trong ánh sáng tự nhiên ban ngày thay vì dưới ánh đèn pin như thế này.

Tôi không hiểu gì về nghệ thuật, và cũng không hứng thú gì với nó, nhưng không hiểu sao khi tưởng tượng ra phòng khách nhà mình sau khi treo bức tranh này lên, tôi lại cảm thấy một cảm giác hạnh phúc thật lạ.

Nhưng rồi tôi lập tức nhớ ra.

Vốn dĩ tôi đã không còn nhà nữa. Vợ và con gái… tôi đã đánh mất tất cả. Cơn khủng hoảng kinh tế chết tiệt đã lấy đi mọi thứ của tôi. Thế nên bây giờ tôi mới dùng dao vào một việc như thế này… Nắm chặt lấy chuôi con dao pha luông, tôi lùi lại một bước, rồi hai bước.

Thế nhưng dù làm thế, tôi vẫn không thể rời mắt khỏi bức tranh cầu vồng.

❀ ❀ ❀

Ngẫm lại thì…

Bánh răng cuộc đời tôi bắt đầu trật khớp kể từ khi đất nước này bị nuốt chửng bởi cuộc đại suy thoái chưa từng có trong lịch sử do ảnh hưởng của việc bong bóng kinh tế vỡ và vụ phá sản của anh em nhà Lehman [20] . Cơn suy thoái đã dẫn tới sự phân chia thành hai thái cực trong ngành sản xuất dao kéo, từ đó việc buôn bán làm ăn của tôi không còn thuận lợi nữa.

Nghĩa là, hầu hết thị phần dao cao cấp dành cho đầu bếp nấu món ăn truyền thống đã bị công ty sản xuất truyền thống ở Osaka tên Sakaiuchi Hamono thâu tóm, thị phần những loại dao khác thì nhanh chóng bị loại dao rẻ tiền của Trung Quốc chiếm hữu. Tới khi nhận ra thì thời đại này đã không còn là thời đại để một anh thợ mài dao thôn quê như tôi có thể kiếm ăn được nữa.

Việc làm dao được phân chia thành hai nhóm việc, việc của thợ rèn - đập miếng thép, nung thép, tạo ra hình dáng con dao, và việc của thợ mài - mài sắc con dao để nó cắt được, thêm chuôi dao để biến nó thành một sản phẩm hoàn chỉnh. Nhưng ở làng quê nơi tôi sinh ra, ông lão thợ rèn cuối cùng trong làng đã bỏ việc với lý do không kiếm lời từ việc rèn dao nữa, vì thế tôi không thể làm ra những con dao mới được. Nếu không có thợ rèn, thợ mài dao sẽ mất đi những con dao để mài. Khi đó, đương nhiên tôi không còn sản phẩm giao cho nhà buôn, cũng có nghĩa tôi mất đi thu nhập.

Luống cuống không biết làm sao, tôi trở thành một anh thợ làm thuê, chỉ làm một công việc là mài những con dao đã cùn cho những bà nội trợ trong vùng để vượt qua giai đoạn khó khăn.

Nhưng tôi không thể nuôi sống gia đình với công việc đó. Tiền tiết kiệm của gia đình tôi nhanh chóng cạn tới đáy, tôi đành phải để vợ ra ngoài làm công việc bán thời gian. Và dẫu thế nào tôi cũng phải tạo ra những con dao mới, vì thế tôi đã vay tiền để mua lại nguyên xưởng rèn mà ông lão thợ rèn đã dùng, thuê thợ trẻ từ bên ngoài về, hướng tới việc sản xuất khép kín cả hai khâu rèn và mài dao. Thế nhưng, một người trước giờ chỉ quen mài dao như tôi dường như chẳng có chút năng lực kinh doanh nào, việc kinh doanh của tôi nhanh chóng thất bại thảm hại.

Món nợ lớn nhanh như thổi. Tôi đã phải đi năn nỉ họ hàng để vay tiền nhưng vẫn không đủ trả, đành phải vay nóng bên ngoài dù biết bước đi ấy sẽ chỉ dẫn tôi vào cái vòng luẩn quẩn oan nghiệt. Và rồi, từ tháng sau đó, chuỗi ngày khóc lóc xin xỏ những người tới đòi nợ khi họ dọa nạt gia đình tôi với ánh mắt và giọng nói vô cùng đáng sợ bắt đầu. Không lâu sau vợ tôi có biểu hiện của bệnh trầm cảm, con gái tôi bắt đầu thường xuyên gây chuyện cãi vã với tôi.

Một buổi tối, vợ và con gái tôi rời khỏi nhà trong nước mắt.

Tôi lặng lẽ nhìn theo họ. Bởi tôi biết có giữ họ lại cũng không giải quyết được việc gì.

Những chiêu dọa nạt của bọn đòi nợ ngày càng vượt quá giới hạn. Và rồi, trong buổi tối mà tôi suýt bị chúng đưa đến chỗ một bác sĩ chui tham gia đường dây buôn bán nội tạng, tôi đã bỏ trốn khi trên người hầu như không có bất cứ thứ gì. Dựa vào mối quan hệ của một người bạn thời cấp hai, tôi được vào trọ trong một căn nhà cũ nát trên bán đảo này.

Nhưng ở khu phố nửa làng quê nửa thành thị này chẳng có công việc nào dành cho một người đã quá năm mươi tuổi, lai lịch không rõ ràng như tôi, vì thế tôi nhanh chóng bị đuổi khỏi căn nhà trọ cũ nát đó. Từ hôm đó tôi trở thành kẻ lang thang, vẩn vơ đi lại dọc bờ biển, cho tới hôm nay tình cờ tôi tìm thấy tiệm cà phê này.

Và rồi tôi hạ quyết tâm sẽ dùng con dao pha luông tự làm - con dao tôi thủ theo người để bảo vệ sự kiêu hãnh cuối cùng của mình - để dùng vào việc phi pháp đêm nay.

Một tiệm cà phê mọc trơ trọi trên mũi đá cô liêu vắng bóng người. Đêm đến, sẽ chỉ còn lại một bà lão nhỏ bé.

Chẳng ngôi nhà nào đúng với nguyện vọng của một tên trộm mới vào nghề hơn cửa tiệm này. Đương nhiên, tôi không hề hi vọng sẽ kiếm chác được nhiều tiền từ nó. Có điều, trước mắt tôi phải tìm được thứ gì bỏ bụng trong vài ngày sắp tới đã, sau đó chỉ cần kiếm thêm ít tiền tàu xe lên thành phố là được.

Sau đó tôi sẽ…

❀ ❀ ❀

“Gâu gâu!”

Đột nhiên con chó trắng cất tiếng sủa vang ngoài hiên.

Tôi giật mình, nhờ tiếng sủa ấy mà quay về với hiện thực.

Không được, không được, giờ không phải lúc đứng ngắm tranh. Mình phải nhanh chóng trộm tiền rồi rời khỏi đây.

Dù luyến tiếc, tôi vẫn cố ép đôi mắt mình rời khỏi bức tranh cầu vồng. Rồi tôi rón rén bước về phía quầy thanh toán.

Đúng lúc ấy, cảm nhận được sự thay đổi rất nhỏ trong không khí, cơ thể tôi cứng đờ lại.

Mùi… mùi cà phê ư?

Không thể nào. Bà lão đang pha cà phê trong căn phòng bên trong đấy ư?

Không, không thể có chuyện đó được. Giờ đang là nửa đêm. Hơn nữa đây không phải tiệm cà phê hay sao. Có ngửi thấy mùi cà phê cũng là đương nhiên thôi. Mình sợ hãi cái gì vậy chứ. Cứng cỏi lên xem nào.

Vừa tự mắng bản thân, tôi vừa dồn lực vào đôi chân đã run rẩy trở lại, khẽ cất bước rón rén, nhưng mỗi bước đi của tôi đều làm ván sàn kêu lên tiếng cót két.

Lúc tới được trước quầy thanh toán, trái tim tôi đã đập loạn, đến mạch đập cạnh tai tôi cũng khua ầm ĩ. Để giải phóng đôi bàn tay, tôi khẽ đặt con dao pha luông trong tay phải xuống chiếc kệ bên cạnh, đưa đèn pin lên miệng ngậm. Rồi tôi thử ấn chiếc nút có ghi chữ “thanh toán” trên chiếc quầy thu ngân cổ lỗ sĩ đó.

Kịch!

Cách!

Tiếng chuông lớn tới mức giật mình vang lên, ngăn kéo quầy được mở ra… Ngay sau đó…

Choang!

Từ căn phòng phía sau cánh cửa kéo vọng ra tiếng gì đó như tiếng đồ gốm sứ bị vỡ.

Hóa… hóa ra, bà lão ấy thực sự… đang thức… ư…?

Quên cả việc thò tay vào ngăn kéo quầy thu ngân vừa mở ra, tôi hấp tấp vớ lấy con dao pha luông đặt bên cạnh, bắt đầu chậm rãi đi lùi về phía cửa sổ.

Này, đừng có bỏ trốn chứ. Nếu trốn đâu cần mang theo dao pha luông. Dao không phải chỉ dùng khi ăn cướp thôi sao. Đối phương chỉ là một bà lão thôi mà.

Một “tôi” thứ hai kêu lên trong lồng ngực tôi như vậy. Nhưng cơ thể cứng ngắc vì căng thẳng của tôi cứ tự ý lùi từng bước, từng bước về phía sau.

Còn một chút nữa thôi là ra tới cửa sổ.

Phải mau chạy đi thôi. Trước khỉ bị bà ấy nhìn thấy mặt.

Không phải nếu bị nhìn thấy mi sẽ giết bà ấy luôn sao?

Điên hả. Ta làm sao giết ai đó được.

Nguy rồi, nguy rồi, nguy rồi, nguy rồi!

Khoảnh khắc não không còn điều khiển được cơ thể tôi nữa, đột nhiên có âm thanh lan ra khắp trong tiệm.

“Hích!” Bị giật mình, tôi hít vào một hơi trấn tĩnh lại thì thấy cổ họng phát ra tiếng kêu như vậy.

Thứ “âm thanh” đó chính là tiếng nhạc, hơn nữa còn là một giai điệu rất khẽ khàng.

Quả nhiên bà lão ấy đã tỉnh dậy… Lúc nghĩ tới đó, cơ thể tôi đã hoàn toàn cứng đờ. Cơ bắp và các khớp xương của tôi cứng hết lại, như thể tôi đã biến thành một món đồ chơi tráng thiếc hoen rỉ.

Cạch.

Cánh cửa trượt phía sau quầy thanh toán khẽ khàng mở ra.

Ôi, ôi…

Ánh sáng trắng từ chiếc đèn huỳnh quang phía sau cánh cửa trượt tràn vào trong tiệm. Tôi vội vã lùi lại phía sau, nhưng rồi vấp phải cây guitar cổ điển, tôi ngã bịch xuống sàn dưới chân cửa sổ.

Khi cánh cửa trượt được mở ra hoàn toàn, giữa ánh sáng trắng được những khung cửa cắt gọt thành một góc vuông vức, một bóng người nhỏ bé hiện ra. Cái bóng ấy nhìn xuống tôi rồi nói, với chất giọng mềm mại và vô cùng bình tĩnh:

“Chào mừng quý khách!”

❀ ❀ ❀

Đột nhiên chiếc đèn trong tiệm bật sáng. Đôi mắt đang quen với bóng tối của tôi nhất thời bị lóa không nhìn thấy gì. Sau khi thị lực chậm rãi phục hồi, tôi thấy bà lão đang bước về phía tôi.

Ôi, ôi…

Tôi cố rặn ra tiếng nói, vẫn ngồi bệt dưới sàn, tôi chĩa mũi con dao pha luông về phía bà lão.

“Ồ, con dao có vẻ sắc quá. Dao ở nhà tôi gần đây không được mài giũa gì nên cùn lắm chẳng cắt được gì cả.” Bà lão nói với vẻ mặt điểm tĩnh như không, rồi đặt một tách cà phê lên chiếc bàn gần cửa sổ.

Vừa thở hổn hển, tôi vừa cố tự nhủ bản thân bình tĩnh lại.

“Tôi có để đường và sữa bên cạnh đấy. ủa, anh tháo cửa sổ ra rồi à? Mùa này vẫn còn nhiều muỗi bay vào nhà, phiền lắm.”

Bà lão này bị sao vậy…?

Vẫn ngồi bệt dưới sàn, tôi ngước mắt nhìn lên, ánh mắt tôi chạm phải mắt bà. Gương mặt bà nhìn như đang mỉm cười.

Đột nhiên, mùi hương cà phê thơm ngát làm mũi tôi nhột nhột. Tiếng nhạc cũng chuyển thành giọng hát trong trẻo nhưng đầy trang nghiêm của một phụ nữ người nước ngoài tự khi nào.

Một lúc sau tôi mới chầm chậm hoàn hồn. Cảm thấy đôi chân hèn nhát khi nãy đã có lực trở lại, tôi chậm rãi đứng lên. Cùng lúc, bà lão cũng ngồi xuống phía đối diện trên chiếc bàn nơi bà đặt tách cà phê.

“Mời anh. Anh uống đi kẻo cà phê nguội mất.”

Tự nhiên tôi bắt đầu bối rối không biết để con dao đang cầm trên tay phải của mình ở đâu. Nhưng rồi cảm thấy kỳ cục khi rút lại con dao mình đã lăm lăm chìa ra nãy giờ, tôi nói một câu vụng về tới mức chính minh cũng thấy xấu hổ.

“I… im mồm. Đưa… đưa tiền đây.”

Nhưng bà lão ngồi phía bên kia chiếc bàn không mảy may thay đổi sắc mặt. Trái lại, tôi cảm thấy nụ cười của bà còn đậm đà hơn cả khi nãy.

“Tôi vẫn đang im lặng đây, còn tiền thì ở trong ngăn kéo quầy đó. Nói vậy chứ cũng chỉ có ít thôi.” Nói rồi bà rụt cổ, cười khúc khích.

“Này… này bà. Bà có hiểu chuyện đang xảy ra không hả? Tôi là…”

“Anh là kẻ trộm chứ gì?”

Bị bà lão cướp lời, tôi chợt cảm thấy luống cuống như đang ngã chúi về phía trước, không biết nói câu gì tiếp theo. Thay vì thế, tôi nuốt nước bọt đánh ực một tiếng.

“Thôi đủ rồi, anh ngồi xuống đi. Để tách cà phê nguội đi thì tội nghiệp nó lắm.”

Trên nền nhạc du dương trong tiệm, một giọng hát nam giới vừa chen thêm vào. Một bài song ca tiếng Anh. Ca khúc mỗi lúc một hào hứng hơn, cùng với sự hào hứng đẹp đẽ ấy, cảm giác như sự yên bình trong trái tim tôi - thứ mà giây phút trước hãy còn rời rạc - giờ đã phục hồi lại như cũ. Giống như những mảnh ghép trong bức tranh ghép hình dần tìm được vị trí của mình, tôi cũng dần trở lại là chính mình hơn.

“Ô kìa, tôi mang sữa và đường ra mà lại quên mang thìa mất rồi.”

Bà lão thè lưỡi ra đầy nghịch ngợm rồi đứng lên, đi qua bên cạnh tôi, bước vào căn phòng phía trong. Sau đó, bà nhanh chóng trở lại, đứng cách trước mặt tôi khoảng năm, mười xen-ti.

“Thìa của anh đây.” Bà lão nhỏ bé đưa chiếc thìa về phía tôi.

“À, à…” Cảm giác như một gram khí độc cuối cùng còn sót lại trong lòng tôi đã thoát ra ngoài, tôi vừa thở dài một hơi thật sâu vừa đặt con dao pha luông lên bàn. Rồi tôi dùng bàn tay ấy đón lấy chiếc thìa từ tay bà.

“Rồi, anh ngồi xuống kia đi.”

“…”

Tôi chậm rãi ngồi xuống trước tách cà phê đang bốc lên hơi nước trắng.

Bà lão ngồi xuống ghế đối diện.

Khúc song ca mỗi lúc một hào hứng hơn. Sự hào hứng trọn vẹn và đẹp đẽ, như trong cảnh cuối của một bộ phim Hollywood, khi nam chính và nữ chính cuối cùng cũng được ở bên nhau.

Tôi cho đường và sữa vào tách cà phê, lấy thìa khuấy đều. Sau đó, tôi chậm rãi đưa cà phê lên miệng. Hương vị phong phú của tách cà phê đã lâu tôi không thưởng thức lan tỏa trong miệng. Một hương vị thật đặc biệt, khiến não tôi như tê dại trong ngọt ngào.

Ca khúc kết thúc, dư âm của nó dần tan đi. Bên trong tiệm tĩnh lặng đến mức có thể nghe thấy tiếng giọt nước rơi tí tách. Ngay sau đó, bài ca của những con côn trùng mùa thu ùa vào tiệm, qua khung cửa sổ toang hoác.

Những con côn trùng không còn chỉ trích tôi nữa.

“Anh thấy cà phê thế nào?”

“Ngon… bà ạ.”

Bà lão nheo mắt lại cười, nói “Tôi biết mà.”

Tôi nhấp thêm ngụm cà phê nữa. Nó quả thực rất ngon. Không, hơn cả ngon, tôi còn cảm thấy có thứ gì đó thật ấm áp, thật ngạc nhiên, tôi thiếu chút thì rơi nước mắt.

“Còn âm nhạc thì sao?” Bà lão hơi trườn người trên chiếc bàn về phía trước, hỏi.

“Â… âm nhạc ư?”

“Ừ. Tôi muốn hỏi về ca khúc vừa kết thúc ấy.”

“Ừm…” Tôi cố tìm cách diễn tả dư âm của bài hát hãy còn đọng lại đầy nhiệt huyết trong trái tim mình. Nhưng tôi không tìm được câu từ phù hợp. Vì thế tôi chỉ nói một câu cảm tưởng rất chung chung.

“Cảm giác rất kỳ lạ.”

Quả thực là kỳ lạ. Bóng dáng của chính tôi - người lẻn vào đây để ăn trộm - bỗng như trở thành bóng dáng của một ai đó khác… Giống như một cảnh trong phim truyền hình, nói đúng hơn, cảm giác như mỗi lúc tôi lại thấy cảnh ấy thêm không thật. Từ một kẻ ăn trộm, cùng với tiếng nhạc hào hứng đó, tôi đã dần trở lại là chính mình - tôi nghĩ mình vừa được nếm trải cảm giác đó.

“Cảm giác rất kỳ lạ, ư?”

Tôi khẽ gật đầu. Rồi tôi lại nhấp một ngụm cà phê.

“Bài hát này là một ca khúc phúc âm nổi tiếng có tên The Prayer. Trong tiếng Nhật, tên bài hát có nghĩa là Người cầu nguyện. Vừa rồi là bản song ca giữa Donnie McClurkin và Yolanda Adams. Tôi đã nghĩ chắc chắn bài hát này sẽ phù hợp với anh.”

Chắc chắn bài hát này sẽ phù hợp với anh ư?

Tôi đặt tách cà phê lên bàn. Đoạn, nhận ra tay trái mình vẫn đang nắm cây đèn pin, tôi tắt công tắc đèn và đặt nó cạnh con dao pha luông.

“T… tại sao bà chọn ca khúc khi nãy cho tôi?”

Tôi nhận ra nãy giờ mình đã từ từ bị cuốn theo nhịp độ câu chuyện của bà lão. Nhưng đâu đó trong lòng tôi thấy dễ chịu với chuyện ấy, thậm chí tôi còn nghĩ mình muốn được trôi theo như vậy.

“Vì trông anh giống như một người cầu nguyện.”

“Tô… tôi ư?”

Bà lão khẽ gật đầu.

“Bà đã quan sát tôi?”

“Một cách kín đáo. Từ khe hở của cánh cửa trượt đằng kia. Ngôi nhà này được xây lắp rất tệ nên có rất nhiều khe hở, nhìn thấy rõ lắm.” Bà lão nói rồi tự mình cười khúc khích.

“Anh đã đứng ngắm bức tranh cầu vồng ấy rất chăm chú.”

“A…”

“Bóng dáng của anh khi đó, không hiểu sao rất giống bóng dáng của một người đang cầu nguyện. Thế nên tôi đã thử chọn ca khúc The prayer? ”

Bóng dáng của một người cầu nguyện, ư?

Lúc đứng ngắm bức tranh ấy, tôi… Phải rồi, tôi đã nhìn lại quá khứ của mình. Dù tôi đã cố gắng hết sức, cuộc đời tôi vẫn càng lúc càng tồi tệ, quãng đời đó hiện ra chớp nhoáng trong đầu tôi như hình vẽ trên chiếc đèn kéo quân. Trong dòng hồi tưởng ấy lẽ nào tôi đã có một chút tâm trạng cầu nguyện sao?

“Bà…”

“Đừng gọi như vậy nữa, tôi có một cái tên riêng là Etsuko đấy.”

Nhìn gương mặt đầy nếp nhăn của bà lão khi bà cười nụ cười trêu chọc, tôi bất giác bật cười theo. Sự nặng nề trên vai tôi nhất loạt tan biến đi mất.

“Tôi gọi bà là bà Etsuko nhé?”

“Được. Anh định nói gì?”

Tôi liếc mắt sang con dao pha luông đặt bên cạnh, nói:

“Nhìn thấy tôi bà không sợ sao?”

“Đương nhiên là sợ rồi. Đang lúc tim đập thình thịch trong phòng thì tôi nghe thấy ngăn kéo khóa của quầy thanh toán bật ra với một tiếng động lớn, tôi giật nảy mình, làm rơi vỡ một chiếc cốc cà phê mà tôi luôn giữ gìn cẩn thận.”

Bà Etsuko nói, chăm chú nhìn tôi.

“Xin… xin lỗi bà.”

Tôi vào đây ăn trộm, vậy mà cuối cùng lại xin lỗi vì một chiếc cốc cà phê bị vỡ, chẳng hiểu sao tôi thấy mình thật ngốc. Nhìn tôi như vậy, bà Etsuko lại cười khúc khích.

“Nói thực là, lúc đó tôi cũng cầu nguyện.” Bà Etsuko nói như đang lẩm bẩm với chính mình, bà ngước lên nhìn bức tranh cầu vồng trên tường. “Tôi cầu nguyện rằng kẻ đã hạ quyết tâm bước vào nhà tôi ăn trộm nhưng lại bị mê hoặc bởi bức tranh kia không phải là người xấu.”

Ánh mắt bà Etsuko di chuyển từ bức tranh cầu vồng về phía tôi. Đuôi mắt bà hàm chứa ý cười khi bà nhìn tôi, nhưng tôi vẫn thấy biểu cảm ấy có nét buồn man mác.

Không biết đáp lại thế nào, tôi luống cuống đưa tách cà phê lên miệng. Nhưng bên trong tách đã cạn khô.

“Ha ha ha. Anh nhất định không phải người xấu đâu. Trái lại còn là người tốt nữa.”

Chẳng biết bà đang khen hay đang cười nhạo tôi nữa, nhưng giây phút đó, trong lòng tôi biết rõ một điều. Tôi nói ra điều mình nghĩ ấy.

“Bà Etsuko tốt hơn nhiều…”

Tôi nói nhỏ như đang thầm thì. Hơn nữa, tôi đã nói một điều hiển nhiên, như một thằng ngốc. Một gã đàn ông vào ăn trộm nhưng thất bại, và bà lão chủ nhà tiếp đãi gã trộm một tách cà phê, bản thân việc so sánh hai người này với nhau đã là vô nghĩa.

“Chà, tôi không chắc nữa.”

“Sao cơ ạ?”

“Nếu như tôi pha thuốc độc vào tách cà phê này thì anh nghĩ sao?”

Tôi bất giác nhìn xuống tách cà phê trống rỗng, thấy vậy bà Etsuko phá lên cười.

“Đùa thôi. Tôi lấy đâu ra cái gan đó chứ.”

Ha… ha ha ha… Lúc định thần lại, tôi nhận ra mình cũng đang cười theo bà. Vừa cười, tôi vừa bị đánh úp bởi một cảm giác hoài niệm dường như run rẩy. Bởi thực sự, đã rất lâu, rất lâu rồi tôi mới nghe thấy tiếng cười của chính mình như vậy.

Hóa ra tôi vẫn có thể cười được.

Nhận ra điều đó, tôi thở ra một hơi dài, không hiểu sao cảm thấy an tâm một cách kỳ lạ. Và rồi, cùng với tiếng thở dài ấy, có một thứ khác cũng cuộn lên trong tôi, bóng dáng bà Etsuko trước mặt tôi chợt trở nên chập chờn. Đó là vì từ hai mắt tôi, những giọt nước mắt đang ầng ậng dâng lên.

“Bà ơi… Tôi xin lỗi bà nhé…”

Tôi nắm chặt hai bàn tay trên đầu gối mình, đầu cúi xuống. Vừa nói lời xin lỗi, như thể dòng chảy được khai thông, bao cảm xúc bên trong tôi cuộn trào lên, nước mắt tôi cứ thế tuôn ra mãi. Những giọt nước mắt trong suốt rơi lộp bộp trên chiếc bàn cũ, tạo thành một vũng nước mắt nhỏ. Tôi dùng mu bàn tay phải lau nước mắt như cách một đứa trẻ vẫn làm.

“Đó, tôi biết anh là người tốt mà.” Tiếng nói từ phía bên kia chiếc bàn mang theo hơi ấm dịu dàng đầy an ủi.

Sau đó, tôi cúi đầu khóc một lúc khá lâu. Một người đàn ông đã quá năm mươi tuổi như tôi đang ngồi khóc nức nở. Lý do của những giọt nước mắt này quá phức tạp, khiến tôi không buồn nghĩ tới, bà Etsuko cũng không hỏi gì cả.

Một lúc sau, khi cảm xúc của tôi dần ổn định lại, bà Etsuko bắt đầu nói chuyện với giọng tâm sự thân tình.

“Có một câu nói mà tôi rất thích.”

Khóc đã đủ, tôi ngẩng đầu lên nhìn bà Etsuko.

“Nếu trong sự tự do của bạn không bao gồm thứ tự do mắc lỗi, thì sự tự do ấy chẳng có giá trị gì cả.”

“…”

“Đó là câu danh ngôn của Gandhi, người lãnh đạo phong trào dân tộc ở Ấn Độ. Một câu nói rất hay phải không? Câu nói này là từ hồi xưa rồi, người vẽ nên bức tranh cầu vồng kia đã nói cho tôi biết đấy.”

“…”

“Tối nay, anh đã có sự tự do để gây ra lỗi lầm. Chỉ cần sau này không lặp lại lỗi lầm nữa, thì kinh nghiệm tối nay của anh không uổng phí chút nào.”

Từ trước tới nay chưa bao giờ tôi được đối xử độ lượng đến thế, tôi không biết phải đáp lại ra sao. Nên nói cảm ơn bà Etsuko, hay nên xin lỗi bà lần nữa đây?

“Nhưng mà này, anh ấy mà…” Đột nhiên giọng nói của bà Etsuko trở nên vui vẻ hơn hẳn.

“Anh chẳng có sự tinh ý của một tên trộm tí nào. Ai lại tới trộm ở một cửa hàng nghèo túng thế này chứ.” Bà Etsuko nói rồi cười.

“Thế… ạ?”

“Mở tiệm cà phê ở chốn heo hút này, mỗi cốc bốn trăm yên, lấy đâu ra lãi lời gì. Giờ có lấy hết số tiền trong quầy thanh toán thì cũng chỉ được khoảng hai mươi nghìn yên thôi.”

“Vậy tại sao bà lại mở tiệm ở đây?”

Bà Etsuko khẽ thở ra, rồi bà liếc mắt nhìn bức tranh cầu vồng trên tường.

“Tuy tôi đã già nhưng cũng có ước mơ của riêng mình.”

“Ước mơ ư?”

“Ừ. Tôi ở đây cầu nguyện cho ước mơ ấy trở thành hiện thực.”

“…”

“Sống nghĩa là cầu nguyện rồi anh ạ.”

“Ơ…”

Tôi nhớ lại ca khúc “The prayer” khi nãy. Một ca khúc nhạc phúc âm có tựa đề “Người cầu nguyện”, với lời hát vừa trang nghiêm vừa đẹp đẽ.

“Khi con người ta hình dung ra điều họ muốn trở thành và cầu nguyện từ sâu trong trái tim, mong mỏi điều đó trở thành sự thật, người đó sẽ có thể sống tiếp, dẫu có chuyện gì xảy ra đi nữa. Nhưng khi mất đi ước mơ hay hi vọng, khi không còn gì để cầu nguyện nữa, thì họ sẽ lầm đường lạc lối.”

Tôi tự nhìn lại chính mình. Mấy năm nay quả thực tôi không có điều gì để cầu nguyện. Nhưng đó là lẽ tất nhiên thôi. Tôi đã bị đặt vào hoàn cảnh không thể mang trong mình bất kỳ ước mơ hay hi vọng gì. Những con người rơi xuống vách đá của cuộc đời và chạm xuống đáy sâu của vách đá ấy sẽ bị bao vây hoàn toàn bởi bóng tối. Dưới đáy vực ấy, dù cố nhìn vào tương lai, họ cũng không nhìn thấy tia sáng của niềm hi vọng mong manh nào. Và chỉ những người từng trải qua cảnh rơi xuống đáy vực mới hiểu được điều đó.

Tôi không định phản biện lại lời bà Etsuko nói, nhưng tôi không thể không nói ra những cảm xúc của mình.

“Tôi nghĩ có những hoàn cảnh mà ở đó con người ta không thể nuôi ước mơ hay hi vọng gì về tương lai của bản thân được.”

Không ngờ khi nghe tôi nói vậy, bà Etsuko cũng đồng tình “Anh nói đúng” rồi nhìn tôi. “Tôi cũng nghĩ vậy. Bởi ngày xưa tôi đã từng như vậy rồi. Nhưng dù có thế nào, anh cũng không được từ bỏ việc cầu nguyện.”

“Biết rõ không có ước mơ cũng không có hi vọng gì mà vẫn cầu nguyện ư?”

“Đúng thế.” Bà Etsuko chậm rãi gật đầu. “Nếu có nhiều lý do khiến một người không có ước mơ hay hi vọng đối với tương lai của mình, thì họ có thể cầu nguyện cho tương lai của người khác mà. Anh cũng có một vài người thân yêu chứ? Chỉ cần anh cầu nguyện cho cuộc đời của những người đó tốt đẹp hơn, và anh hành động để điều đó trở thành sự thật, là anh có thể sống một cuộc đời rất tuyệt vời rồi.”

Người thân yêu… Trong đầu tôi, hình ảnh vợ và con gái hiện lên. Thứ hiện lên là nụ cười hạnh phúc của họ trước khi tôi vay nợ. Gia đình tôi khi đó không giàu có, nhưng giờ nghĩ lại, tôi nghĩ gia đình tôi cũng tràn ngập tiếng cười, bằng hoặc hơn hẳn những gia đình bình thường.

“Tôi đã sống vì những người thân yêu của mình. Nhưng rồi việc gì cũng thất bại…” Nói tới đó, tôi chợt ngẩn người.

“Nếu trong sự tự do của bạn không bao gồm thứ tự do mắc lỗi, thì sự tự do ấy chẳng có giá trị gì cả.” Tôi nhớ tới câu nói của Gandhi.

“Phải rồi. Câu đó cũng có nghĩa là tôi có quyền được thất bại nhỉ?” Nghe tôi nói, bà Etsuko lặng lẽ mỉm cười.

Đột nhiên, một làn gió biển mát lạnh từ phía ngoài cửa sổ tràn vào. Khi tôi để ý tới, tiếng côn trùng đã ngưng hẳn, thay vào đó tôi nghe thấy tiếng sóng biển phía xa.

“Còn bà Etsuko…”

“Gì cơ?”

“Bà có ước mơ gì mà sống một mình ở nơi này vậy?”

“Anh muốn biết ư?”

“Vâng…”

“Vậy để tôi kể anh nghe nhé.” Bà Etsuko lại nở nụ cười tinh quái, sau đó bà thong thả kể lại. “Trên mặt biển phía trước mũi đá này, có một chiếc cầu vồng giống như bức tranh kia…”

Nói tới đó, bà Etsuko “A…” lên một tiếng, ngẩng lên nhìn trần nhà. “Đám muỗi và nhậy vừa từ cửa sổ tràn vào.”

Tôi cũng nhìn lên trên. Những con nhậy nhỏ bay vo ve quanh chiếc bóng đèn huỳnh quang.

“Anh có thấy mở cửa sổ như vậy hơi lạnh không? Để tôi đi pha thêm cà phê, anh lắp lại cửa sổ giúp tôi nhé?” Bà Etsuko nói rồi chậm rãi đứng dậy, đi vào trong khoang bếp.

Tôi cũng đứng dậy, lần này tôi ra khỏi tiệm bằng lối cửa ra vào, sửa lại chiếc cửa sổ và đặt đồ trang trí trên bậu cửa về chỗ cũ. Nhìn ra ngôi nhà nhỏ của chú chó trắng, tôi thấy lớp vỏ nilon màu cam của cây xúc xích cá còn sót lại gọn ghẽ ở đó, chú chó đã chui vào chuồng ngủ.

❀ ❀ ❀

Bên cạnh tách cà phê thứ hai là miếng bánh mì kẹp thịt xông khói.

Đã hơn một ngày không có gì nhét vào bụng, tôi liền ăn ngấu nghiến, chẳng thấy xấu hổ hay lo lắng người khác nghĩ gì về mình nữa.

“Anh có vẻ đói bụng nhỉ. Nếu không ngại, anh ăn cả phần của tôi nhé?” Nói rồi bà Etsuko đưa đĩa bánh của bà ra trước mặt tôi.

“À không, chuyện này…”

“Không sao đâu. Tôi đang làm thêm một phần nữa rồi.” Nói rồi bà vào bếp, khi bà xuất hiện trở lại, trên tay bà là hai đĩa bánh mì kẹp thịt. Hơn nữa, trên đĩa của tôi còn có thêm hai quả trứng luộc.

“Cảm… cảm ơn bà.”

Một lúc sau, sau khi ăn hết bánh và trứng, bụng được lấp đầy, tâm trạng tôi trở nên điềm tĩnh tới mức chính tôi cũng phải ngạc nhiên.

“Cảm ơn bà về bữa ăn.”

“Không có gì.”

“Thật ra… rất ngon bà ạ.”

“Vậy thì tốt rồi.”

Nhìn nụ cười mãn nguyên của bà Etsuko, tôi bắt đầu nghĩ không biết mình có thể cảm ơn bà bằng cái gì đó khác không. Vừa lúc đó, ánh mắt tôi đụng phải con dao pha luông đặt bên cạnh bàn.

“Bà ơi… Nếu được, hãy để tôi trả bà con dao này thay cho tiền…” Tôi hướng chuôi dao về phía bà Etsuko, đẩy nó trượt về phía bà.

“Không cần đâu.” Bà Etsuko vừa cười vừa lắc đầu.

“Không, ít nhất bà cũng phải để tôi cảm ơn…”

“Thực sự không cần mà.”

“Trước đây tôi là thợ mài dao. Con dao này là con dao sắc nhất trong những con dao tôi đã tạo ra. Khi nãy bà có nói con dao nhà bà bị cùn không cắt được…”

Nghe tới đó, như thể vừa nghĩ ra một chuyện hay, bà Etsuko vỗ bộp hai tay vào nhau.

“Nếu thế, nhờ anh mài giúp con dao nhà tôi được không? Một con dao cao cấp thế này, đưa vào tay tôi sẽ thành lãng phí mất, nên tôi muốn anh mài giúp con dao tôi có sẵn, đủ sắc để cắt được là được.”

“Nhưng mà…”

Tôi định nói nếu như vậy tôi sẽ áy náy lắm, nhưng bà Etsuko tự ý suy diễn sang ý khác:

“À phải rồi. Hôm nay muộn rồi nhỉ. Mài dao cũng mất nhiều thời gian lắm phải không anh?”

“Gì cơ ạ?”

“Giờ anh cứ đi ngủ đi, ngày mai hãy mài cho tôi được không?”

“Cũng được… Nhưng mà, ngày mai nghĩa là… tôi sẽ…”

“Đúng là anh không nên ngủ lại chỗ tôi… Anh có thể ngủ ở căn bên cạnh. Tôi không có bộ chăn nệm thừa nào, anh ráng ngủ với túi ngủ vậy nhé.”

Vừa nói bà Etsuko vừa đứng dậy, vẫy tay bảo tôi “Đi theo tôi nào” rồi đưa tôi ra bên ngoài tiệm, dẫn tôi vào bên trong căn nhà đang xây dở bên cạnh. Căn nhà hai tầng đó đã hoàn thành hơn một nửa, đã che chắn được mưa gió bên ngoài.

Chúng tôi mở cửa ra bước vào bên trong, ở tầng một có một quầy thu ngân rất đẹp. Cấu trúc bên trong giống như một quán bar nhỏ, nhưng nội thất chưa được trang bị gì.

Bà Etsuko dẫn tôi lên tầng hai. Phía cuối mặt sàn rộng trên tầng hai có một phòng nhỏ rộng chừng sáu chiếu, sàn trải qua loa một tấm thảm màu xanh navy. Trên thảm có kê một chiếc bàn chân thấp, trên bàn bày lộn xộn một chiếc bếp ga mini, ấm đun nước, cốc cà phê, những lon bia rỗng và gạt tàn. Có lẽ thỉnh thoảng có ai đó ngủ lại qua đêm ở đây.

“Túi ngủ của anh đây.” Bà đưa cho tôi một chiếc túi ngủ bông mềm mại màu xanh lá.

“Dùng túi ngủ này sẽ không bị lạnh đâu. Bên dưới có trải thảm nữa. Sáng mai lúc nào ngủ dậy thì qua tiệm của tôi nhé. Tôi sẽ mời anh bữa sáng.”

“Dạ…”

“Nếu anh ngủ quá giấc, có thể sẽ có một người đàn ông hơi đáng sợ một chút tới đây hỏi, khi đó anh chỉ cần nói tôi bảo anh ngủ ở đây là được.”

Một người đàn ông hơi đáng sợ ư? Tôi chợt nhớ ra vẻ mặt đầy đe dọa của nhóm đòi nợ.

“Không sao đâu, vẻ ngoài anh ta đáng sợ thế thôi, thực ra anh ta là một thằng bé tốt lắm.”

Là một người đàn ông đáng sợ, nhưng cũng là một thằng bé tốt bụng ư?

“Tôi về đây, anh ngủ ngon giấc nhé. Công tắc bóng đèn ở đây này.”

“Dạ, bà ơi…”

“Gì cơ?” Vừa dợm bước đi, bà Etsuko liền dừng lại, quay đầu lại hỏi.

Tôi muốn nói ba điều, hôm nay rất xin lỗi bà, tôi muốn cảm ơn bà và chúc bà ngủ ngon… Nhưng miệng tôi lại nói ra một câu hoàn toàn khác.

“Ngày mai tôi sẽ mài dao thật sắc.”

“Cảm ơn anh.” Bà Etsuko nheo mắt mỉm cười với vẻ thật sự vui sướng, bà nói “Thế nhé, anh ngủ đi”, rồi đưa tay lên cạnh má vẫy vẫy như một thiếu nữ, đoạn bà xuống cầu thang đi mất.

Ngay lập tức đèn ở tầng một vụt tắt, cửa được đóng lại “cạch” một tiếng. Trong căn nhà xây dở hết sức trống trải này, một bầu không gian tĩnh lặng tới mức nghe được cả tiếng ầm ì trong tai mình bao trùm lên tất cả.

Tôi tắt đèn trong căn phòng nhỏ, chui vào chiếc túi ngủ bông mềm. Từ ô cửa sổ lớn trổ ra phía biển, ánh trăng xanh leo lét rọi vào phòng.

Tôi ngẩng lên nhìn trần nhà, thở một hơi thật dài. Chuỗi sự việc xảy ra trong tối nay giống như một chuyện giả tưởng xảy ra trong mơ vậy. Vốn dĩ việc tôi ngủ lại một mình trong ngôi nhà của một người tôi không hề quen biết đã là một việc hết sức kỳ lạ rồi.

“Sống nghĩa là cầu nguyện rồi anh ạ.” Đột nhiên câu nói của bà Etsuko sống dậy trong đầu tôi.

Nhắc mới nhớ, tôi vẫn chưa được nghe bà kể về ước mơ bà mang bên mình khi sống một mình nơi mũi đá này. Lúc ấy hình như bà nói liên quan gì tới bức tranh vẽ cầu vồng thì phải…

Tôi lặng lẽ nhắm mắt lại. Vừa nhắm mắt, bức tranh cầu vồng đó liền hiện ra. Giờ nhớ lại tôi vẫn thấy bức tranh đó thật đẹp.

Tôi khẽ ngáp một cái. Bên trong chiếc túi ngủ ấm dần lên. Và rồi, bờ lưng như thể đang tan chảy, tôi chìm vào giấc ngủ trong tâm trạng bình yên nhất trong suốt mấy năm qua.

❀ ❀ ❀

Đúng lúc trở mình, tôi tỉnh dậy, mắt mở he hé.

Khoảnh khắc đó, không biết mình đang ở đâu, tôi quay đầu nhìn quanh. Trần nhà, tường, cửa sổ, tất cả đều thật xa lạ… Lúc nhận ra mình đang cuộn tròn trong chiếc túi ngủ màu xanh lá non, tôi chợt hiểu tình huống hiện tại.

“Trời sáng rồi sao…?”

Tôi lẩm bẩm với giọng khàn khàn, lồm cồm ngồi dậy khi cả người vẫn đang nằm trong chiếc túi ngủ.

Ánh nắng buổi sáng đã chiếu từ ngoài cửa sổ vào, căn phòng tràn ngập thứ ánh sáng mềm mại. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay, đã hơn bảy rưỡi. Tôi trườn người ra khỏi túi ngủ, cẩn thận gấp nó lại, đặt vào góc phòng. Đeo ba lô lên vai và đi giày vào chân xong, tôi bước xuống tầng một. Tôi đẩy cánh cửa dày cộp như thể được làm từ gỗ cây cổ thụ, và rồi đột nhiên cơ thể tôi được bao bọc bởi làn gió biển khoáng đạt.

Tôi bất giác hít vào thật sâu. Nhân thể, tôi vươn hai tay lên bầu trời phủ những áng mây nhạt, co duỗi cơ thể hết mức.

Tôi đi tới vách đá mọc um tùm cỏ dại, phóng tầm nhìn ra xa trên mặt biển xanh thẫm, xa xa có một chiếc tàu chở dầu đang lặng lẽ di chuyển, không gây nên tiếng động. Trên mặt biển trước mặt, vài chiếc thuyền đánh cá nổi lên chòng chành. Con phố nổi lên ở bờ biển bên kia hứng lấy ánh sáng mặt trời trong lành, từ đó tỏa ra ánh sáng trắng, tựa như khung cảnh trong mơ.

Nhìn những chú mòng biển bay lượn vòng trên trời cao, lần này tôi hít thật sâu để hít lấy không khí từ bầu trời xanh trong.

Rồi tôi đi về phía tiệm cà phê Mũi Đá.

Chú chó trắng, hôm nay cũng nằm trên hiên. Nhìn thấy tôi, nó lập tức nhỏm dậy, chiếc đuôi bồng bềnh đầy lông vẫy vẫy. Tối qua tôi không để ý thấy, hóa ra chú chó trắng bị mất nửa chân dưới bên phải phía trước. Khóe miệng chú kéo tít sang hai bên tai, như đang mỉm cười chào đón tôi.

“Miếng xúc xích cá ngon chứ?”

Sau khi vuốt ve đầu chú chó khi chú ta tiến lại gần, tôi đến đứng trước cửa tiệm. Tôi đặt tay lên tay nắm cửa có vẻ làm từ gỗ lũa, khẽ kéo cửa ra. Nhìn vào bên trong từ khe hở nhỏ vừa mở ra, tôi nghe thấy tiếng xào nấu bằng chảo và mùi thơm dầu mỡ rất kích thích dạ dày.

“Chào… chào bà…” Tôi vừa dè dặt nói vừa bước vào trong tiệm.

“Anh sang rồi đó à. Ngồi đợi tôi một lát nhé.” Từ gian bếp, tiếng bà Etsuko vọng ra.

Tôi thử ngồi xuống chiếc ghế khác với chiếc ghế mình ngồi tối qua. Tôi nhìn lại bên trong cửa hàng một lượt. Bậu cửa sổ bày biện lộn xộn, và bức tường treo hai bức tranh. Đĩa than và đĩa CD xếp cạnh nhau đầy chặt trên chiếc kệ được đóng một cách vụng về.

Bức tranh cầu vồng dưới ánh sáng tự nhiên đẹp một cách đặc biệt. Thậm chí tôi còn nghĩ thật tốt vì tối qua mình đã vào đây ăn trộm, bởi nhờ thế mà tôi mới được ngắm bức tranh như thế này. À, nhưng mà đi ăn trộm đúng là không tốt chút nào…

Chỗ tôi ngồi là chiếc ghế cạnh bức tường đối diện với bức tường treo hai bức tranh. Trên bức tường bên cạnh có treo bài báo cắt từ tạp chí kẹp cẩn thận dưới lớp bìa phim nhựa trong và được cố định lại bằng ghim.

Bài báo giới thiệu về cửa hàng này, được trình bày trên hai trang liền kề nhau. Bề ngoài và cảnh bên trong, cùng khung cảnh bát ngát nhìn từ mũi đá cũng được chụp ảnh đăng kèm. Tôi đọc qua nội dung bài báo, có vẻ người viết là một khách quen của tiệm. Cuối bài báo có đề tên tác giả: “Bài và ảnh: Imaizumi Ken”.

“Bài báo này là do khách hàng của tiệm tôi tới đầy lấy tin rồi viết đấy.”

Chợt nghe thấy tiếng bà Etsuko ở ngay phía sau, tôi giật nảy người, có lẽ phải nảy lên khỏi ghế tới năm xen-ti.

“Sao anh giật mình ghê vậy. Tôi có phải ma đâu.” Bà Etsuko nói đùa, đoạn bà đặt hai phần trứng ốp lết, thịt xông khói, bánh mì nướng và cà phê từ chiếc khay bạc lên bàn.

“Bài báo viết khá thật.”

“Tôi cũng thấy vậy. Cậu bé viết bài báo này tương lai sẽ trở thành nhà văn đấy.” Bà Etsuko ngồi xuống ghế đối diện.

“Giỏi quá… sau khi lên báo thế này, tiệm của bà chắc đông khách hơn nhiều hả?”

“Chẳng có mấy khách anh ạ. Dù có người muốn tới uống thử thì họ cũng sẽ bỏ lỡ góc rẽ trên đường cao tốc, cuối cùng không thể tìm tới nơi được.”

Quả thực lối rẽ vào mũi đá này quá khó tìm. Dù có đánh dấu trên bản đồ hay phần mềm chỉ đường trên xe ô tô thì họ cũng sẽ đi quá chỗ rẽ mất.

“Nào, chúng ta cùng ăn trước khi đồ ăn nguội đi anh.”

Tôi làm theo bà Etsuko, chắp hai tay lại nói “Mời bà dùng bữa.” Sau bữa ăn, tôi nhanh chóng đề nghị: “Để tôi mài dao cho bà.”

“May quá có anh giúp. Xin lỗi, tôi có thể nhờ anh mài hai con dao được không?”

“Bao nhiêu con cũng được.”

“Chà, tôi thật muốn nói nhờ anh mài giúp thật nhiều, nhưng nhà tôi chỉ có hai con dao thôi.” Bà Etsuko dẫn tôi vào khu bếp bé xíu. Bà lấy hai con dao và viên đá mài từ trên kệ xuống cho tôi. Tôi dùng đầu ngón tay vỗ nhẹ lên bề mặt tấm đá mài ấy. Bề mặt đá hơi mịn quá.

“Bà chỉ có một viên đá mài này thôi à?”

“Ủa, vậy là không đủ hả?”

“À không, nếu không có thì thôi. Có hòn này là đủ mài rồi.”

Thực ra, nếu có một viên đá mài với bề mặt thô ráp hơn, và một hòn để chuốt lại dao trước khi hoàn tất thì tuyệt, nhưng nếu chỉ có hòn này thì cũng không phải không mài được.

“Bà có cái khăn hay thứ gì có thể nhúng nước được không…?”

“Có chứ. Cái này được không anh?” Bà Etsuko đưa cho tôi một mảnh vải chuyên để lau khô bát đũa.

Tôi đón lấy, nhúng nó vào nước, gấp lại làm bốn rồi trải lên bệ. Sau đó, tôi đặt viên đá mài đã làm ướt lên trên mảnh vải ấy. Làm như thế này tôi sẽ cố định được vị trí của viên đá mài.

Dao bà Etsuko cần mài có hai con, một con là loại dao hai mặt lưỡi được dùng phổ biến trong các gia đình bình thường, con còn lại là một con dao pha luông nhỏ. Đầu tiên tôi cầm lấy con dao pha luông nhỏ, nhắm bên mắt phải lại. Tôi đặt con dao xuống trong tư thế lưỡi dao ở phía trên, rồi đưa tới thật gần mắt trái. Với tư thế của một người bắn súng nhìn vào ống ngắm, tôi chăm chú nhìn phần lưỡi dao.

“Đúng là thế này thì không cắt gì được thật… Để tôi mài cho bà.”

Tôi cầm con dao lên thật chắc chắn bằng cả hai tay, rồi đặt dao lên trên viên đá mài. Sau đó, tôi khẽ mài con dao lên xuống.

“Thợ chuyên có khác, trông anh làm thuần thục quá.” Bà Etsuko khoanh tay nhìn, nói với vẻ thán phục. Tôi cười nói “Cảm ơn bà”, rồi tập trung chú ý vào cảm giác trên đầu những ngón tay.

Xoẹt, xoẹt, xoẹt…

Tiếng thép mài vào đá, và lực kháng của dao trên tay tôi. Cảm giác thật thân thương. Lúc sản xuất dao, tôi dùng loại đá mài xoay tròn có gắn động cơ để mài dao, nhưng ở bước cuối cùng tôi dùng viên đá mài như thế này để mài thủ công. Thật sự là ở bước cuối cùng, phải dựa vào cảm giác của con người.

Xoẹt, xoẹt, xoẹt…

Càng mài, tôi càng thấy những cảm giác ngày xưa trở lại với mình.

“Vậy nhờ anh mài dao nhé, tôi đưa Kotarou đi dạo một chút.”

“Kotarou là con chó trắng ấy ạ?”

“Ừ. Tên nó là Kotarou. Giờ này khách chưa tới tiệm đâu, nhờ anh trông tiệm giúp tôi nhé.”

“À, vâng…”

Bà Etsuko quay người đi, nhanh chóng ra khỏi tiệm.

Nhưng mà… Bà lão đã thản nhiên nhờ một người đàn ông vừa tối hôm qua tới tiệm nhà bà ăn trộm trông tiệm giúp bà… Sao một người có thể mất cảnh giác tới mức ấy được? Bà ấy định tin tưởng người lạ tới mức nào đây?

Nghĩ tới việc bà Etsuko thực lòng lo lắng cho một tên trộm, tự nhiên tôi thấy buồn cười. Vừa cười cười, tôi vừa tiếp tục mài dao.

❀ ❀ ❀

Một lúc sau, tôi đặt hai con dao đã mài lên trên kệ bếp, từ chúng phát ra tiếng leng keng.

“Xong rồi…”

Tôi đã làm cho hai con dao này đủ sắc để cắt một tế bào ra làm đôi được. Ngay cả trong nhóm thợ lành nghề cũng không có mấy người có thể mài chúng tới độ hoàn hảo như thế.

Rất lâu rồi tôi mới được nhấm nháp cảm giác hài lòng sau khi hoàn tất công việc như thế này. Nếu có thể, tôi còn muốn mài thêm vài con dao nữa. Bởi tôi rất nhớ cảm giác tĩnh lặng, không phải lo nghĩ tới thứ gì khác ấy. Dường như thế giới của tôi khi ấy chỉ còn con dao, viên đá mài và tiếng ma sát xoẹt xoẹt, thật là một cảm giác tuyệt đỉnh.

Và cảm giác trọn vẹn khi kiểm tra lại con dao đã mài xong.

Một lần nữa, tôi thấm thía một điều. Tôi thích công việc thợ mài dao này. Và tôi có một niềm tự hào vững chắc về tay nghề của mình.

Chợt nhớ rồi tôi liền lấy con dao pha luông từ trong ba lô ra. Nếu bán ở cửa hàng chuyên bán dao, nó sẽ thuộc vào hàng nhất phẩm, giá không dưới mấy chục ngàn yên. Lưỡi dao đương nhiên đã được mài tới mức trên cả hoàn hảo. Hơn nữa, tôi còn rắc bột của viên đá mài làm ướt vào nhựa cây, cẩn thận cọ qua đầu lưỡi dao để làm giảm độ bóng của nó nữa. Đây là kỹ thuật đặc biệt được dùng trong việc mài kiếm Nhật Bản, gọi là uchigumo (nội vân). Đây là con dao tuyệt đỉnh mà ngoài độ sắc, tôi còn chú ý đặc biệt đến vẻ đẹp bề ngoài của nó. Có thể nói nó chính là niềm kiêu hãnh của tôi.

Tôi nâng con dao từ dưới lên, bằng hai tay, một cách nhẹ nhàng.

“Mong là chú mày sẽ được bà ấy trọng dụng.”

Tôi thầm thì với con dao rồi khẽ cất nó lên chiếc kệ trong bếp cùng với hai con dao của bà lão.

❀ ❀ ❀

Mấy phút sau, bà Etsuko về tới. Vừa nhìn vào bếp, bà liền nói đùa ngay.

“Ô kìa, anh vẫn ở đây à. Uổng công tôi tạo cơ hội cho anh bỏ đi.”

Lúc này tôi đang rửa chiếc đĩa dùng trong bữa sáng.

“Tôi định rửa xong chiếc đĩa của mình rồi mới đi trốn.” Tôi cũng nói đùa đáp lại.

Bà Etsuko vui vẻ cười.

“Thế mấy con dao thì sao?”

“Tôi đã mài cẩn thận và cất đi rồi. Cả hai con.”

“Cảm ơn anh. May nhờ có anh giúp.”

“Không có gì ạ…”

“À, phải rồi. Tôi có việc muốn nhờ anh hơn việc rửa chén bát này nhiều.” Vừa nhẹ nhàng nói, bà Etsuko vừa nhấn chiếc nút trên chiếc máy nghe đĩa cũ đặt cạnh bếp.

“À vâng, có gì bà cứ nói.”

“Anh đi mua giúp tôi món đồ nhé. Tiền thì ở trong này.”

Bà đưa một phong bì màu nâu ra trước mặt tôi.

“Bà yên tâm giao tiền cho một tên kẻ trộm sao?”

“Giờ anh chuyên sang nghề thợ mài dao đi.”

Hai chúng tôi cùng cười.

Giây phút tôi đưa hai tay nhận lấy chiếc phong bì màu nâu, một bản nhạc dường như tôi đã nghe đâu đó chợt vang lên. Đoạn nhạc dạo lặng lẽ, êm đềm.

Tôi bất giác “A” lên một tiếng.

Bà Etsuko khẽ gật đầu mỉm cười.

Đó là bản “Người cầu nguyện - The Prayer”.

“Chẳng mấy khi có dịp đón một thợ mài dao từ cửa sổ vào, nên tôi muốn nhờ anh tới tiệm bán đồ gia dụng, chọn giúp tôi mấy viên đá mài tốt nhất về đây.

Đó là thứ bà muốn nhờ tôi mua giúp ư?

“Nhưng tôi mài xong cho bà hai con dao kia rồi… Chúng sắc lắm rồi bà ạ.”

“Cứ mua giúp tôi. Tôi mu?