Chương 4 MÙA ĐÔNG Xin yêu anh dịu dàng - Love me tender
“Từ tối nay cho tới ngày kia, áp suất khí quyển thấp ở phía đông và cao dần về phía tây, Nhật Bản sẽ bước vào khí hậu mùa đông điển hình.”
Đúng như bản tin dự báo thời tiết hồi chiều, đêm đó trời trở lạnh, bầu trời đêm nhìn lên từ mũi đá trong suốt một màu xanh lam sâu thẳm.
“Mọi thứ chuẩn bị xong rồi. Trời lạnh đấy, bà mặc cho ấm vào nhé.” Từ ngoài cửa tiệm cà phê Mũi Đá, tôi thò mặt vào, nói với bà Etsuko.
“Vâng.”
Có tiếng nói phát ra từ bên trong, khoảng mười lăm giây sau bà Etsuko hiện ra, trên người bà là chiếc áo len dày cộp, phủ bên ngoài là một tấm áo khoác lông vũ trắng. Chiếc mũ lông được bà đội sụp xuống tận tai, cổ bà quấn một chiếc khăn đỏ thành nhiều vòng. Trông bà giống hệt người tuyết.
“Mặc thế này đủ ấm chưa ông?”
“Ha ha ha. Mặc như thế thì lên Bắc Cực cũng được ấy chứ.”
“Ủa, sao ông Tani mặc đổ mỏng thế? Tối còn một cái khăn choàng nữa đấy, ông dùng không?”
“Không cần đâu.” Tôi lắc đẩu trước lời đề nghị tốt bụng của bà. “Tôi hay đi chơi ngoài trời, như lúc đi câu cá hay đi ngắm sao qua kính thiên văn chẳng hạn, nên quen rồi.”
Tôi lại lỡ miệng nói dối mất rồi. Nhiều tuổi rồi mà chẳng thật lòng gì cả, tôi nghĩ. Lẽ ra tôi cứ tỏ lòng biết ơn mà mượn bà ấy chiếc khăn mới phải.
“Quen ư… Chẳng lẽ vấn đề là quen hay không quen ư?”
“Ừ. Vấn đề chính là thế đấy.” Không phải vậy. Lạnh là lạnh, quen cách nào cũng không bớt được.
“Ông Tani tưởng mình trẻ nhưng cũng cùng thế hệ với tôi đấy, phải đối xử tử tế với cơ thể của mình đi chứ.”
Cố không tỏ ra lạnh đến phát run lên, tôi lấy giọng đùa đùa đáp “Rồi rồi.” Hai chúng tôi cùng bước ra ngoài.
“Ôi, lạnh quá! Nhưng mà đẹp thật đấy.” Bà Etsuko ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm, từ miệng bà tỏa ra làn hơi trắng muốt.
Vầng trăng tròn lặng lẽ nổi lên giữa bầu trời rộng lớn màu xanh đen, nó tỏa ra ánh sáng trắng lạnh lẽo như một chiếc kem vani. Mũi đá tắm trong ánh sáng trong suốt ấy mơ hồ nổi lên với màu xanh dương huyền ảo.
Thỉnh thoảng từ vách đá thổi lên một làn gió biển lạnh thấu xương, làn gió lướt qua chầm chích gò má của hai chúng tôi.
Để yên tâm, tôi cẩn thận dùng chiếc đèn cài trên đầu soi sáng con đường dưới chân, rồi đi về đầu bên kia mũi đá ở phía nam. Tôi nghe thấy tiếng bước chân nho nhỏ của bà Etsuko ngay sau lưng mình. Chú chó Kotarou nằm cuộn tròn bên trong căn nhà nhỏ của mình trên hiên tiệm, không hề ló mặt ra ngoài.
Chúng tôi giẫm lên những búi cỏ khô đã đông cứng lại, khi tới một chỗ mà ánh đèn từ cửa sổ tiệm cà phê không còn rọi tới được nữa, chúng tôi nhìn thấy một cái ống nhỏ dài màu trắng nổi lên giữa bóng tối xanh lam.
Là kính viễn vọng.
Đây là bộ kính dành cho những người mới làm quen với việc ngắm tinh thể, tôi đã đặc biệt mua chúng cho ngày hôm nay. Tuy chỉ là một kính viễn vọng khúc xạ đơn giản dễ dùng, nhưng dùng nó vẫn có thể nhìn thấy rõ vành đai sao thổ, những nét kẻ sọc của sao mộc và một số tinh vân nữa.
“Chúng ta sẽ nhìn bằng cái kính này ư?” Đứng trước kính viễn vọng, bà Etsuko khẽ cười. Bà đặt hai tay lên ngực, thể hiện niềm vui sướng bằng cử chỉ như một thiếu nữ.
“Ừ. Nhìn bên ngoài kính này hơi nhỏ, nhưng nó vẫn là một cái kính tuyệt vời đấy.”
“Thế à. Tôi thì thấy nó to đấy chứ.” Bà Etsuko vừa mỉm cười vừa nói “Nhìn từ chỗ này phải không ông?”, đoạn bà ghé mắt phải vào thị kính [21] .
“Ơ, chưa được, chưa nhìn được.”
“Gì cơ?”
“Trước đó phải làm một việc đã.”
“Làm một việc?”
“Ừ.” Tôi hạ ba lô xuống, lấy ra một chiếc phong bì trắng cỡ B3 không có gì đặc biệt.
“Cái này là của bà.” Tôi đưa chiếc phong bì đó ra trước mặt bà Etsuko với vẻ hơi hờ hững.
“Cái này là…?”
“Chúc mừng sinh nhật bà.”
“Hả, không thể nào…” Bà Etsuko kinh ngạc đưa hai tay lên che miệng, nhưng rồi gương mặt kinh ngạc ấy dần biến thành một nụ cười trong sáng. Tôi luôn muốn được nhìn thấy nụ cười ấy, luôn luôn.
“Hóa ra ông Tani còn nhớ ư?”
“Ừ.”
“Cảm ơn ông! Tôi vui lắm.”
“Ừ. Kìa, bà nhận lấy đi.”
Bà Etsuko đưa hai tay nhận lấy chiếc phong bì, trân trọng như thể nhận được một bằng khen gì đó, rồi bà ngước nhìn tôi.
“Tôi xem bên trong được không?”
“Đương nhiên rồi.”
“...Không biết là thứ gì nhỉ?” Vừa lẩm nhẩm nói, bà Etsuko vừa khẽ rút từ phong bì ra ba tờ giấy. Đôi tay nhỏ bé đeo găng màu nâu của bà lật qua lật lại hai tờ giấy chứng nhận dầy đặc những con chữ bằng tiếng Anh, và bản đồ chi tiết của mặt trăng.
“Những giấy tờ này là…?”
Nhìn bà Etsuko nghiêng đầu thắc mắc, tôi hỏi ngược lại bà.
“Bà nghĩ chúng là gì?”
“Ừm, là gì nhỉ? Trên này có ghi chữ tiếng Anh Công ty Lunar Embassy [22] này.”
“Ừ, đúng rồi”
“…”
“Đây là giấy chứng nhận quyền sở hữu đất trên mặt trăng đó.”
“Gì cơ?” Bà Etsuko càng tỏ ra khó hiểu hơn.
“Một mảnh đất rộng một mẫu Anh trên mặt trăng đã trở thành đất của bà rồi đó. Một mẫu Anh nghĩa là khoảng bốn ngàn mét vuông. Bà nhìn xem, chỗ đất ấy ở khoảng kia kìa.”
Tôi chỉ lên bầu trời đêm, bà Etsuko ngẩng đầu nhìn mặt trăng tròn theo hướng tôi chỉ.
“Tuyệt quá! Tôi thích những chuyện mộng mơ kiểu này lắm!” Bà Etsuko nói nhỏ như thầm thì, quay sang nhìn tôi. Nụ cười của bà tạo nên những nếp nhăn yêu kiều nơi đuôi mắt. Đó là nụ cười của bà khi bà thực sự vui sướng. Cũng như mọi khi, tôi vội vã lảng ánh nhìn sang hướng khác.
“… Ừm, trong số tài liệu đó có cả bản đồ mặt trăng đấy.”
“Cái này ư?”
“Ừ, đúng rồi. Nhìn kỹ bà sẽ thấy chỗ này có một chấm đỏ phải không?”
“Ồ, đúng thế thật.”
“Vậy có nghĩa chỗ đó là…?”
“Là… đất của tôi sao?”
“Chính xác. Đó là đất của bà trên mặt trăng. Đây là giấy chứng nhận quyền sở hữu chính thức, đã được trình lên Liên Hợp Quốc xin xác nhận rồi nhé.”
Nghe xong, bà Etsuko nín thở một hơi, đôi mắt bà mở tròn xoe.
“Hả? Chính thức nghĩa là sao?”
“Sao là sao?”
“Đây là giấy chứng nhận sở hữu thật ư?”
“Đương nhiên rồi, là thật đấy.”
“Trời đất… Thật không thể tin được.”
Nhìn bà Etsuko chậm rãi lắc lắc đầu với vẻ mặt kinh ngạc, tôi bật cười.
“Bà có nhận ra chấm đỏ ấy nằm giữa một cái hố va chạm [23] lớn không?”
“Có.” Bà Etsuko gật đầu, nhưng gương mặt bà vẫn có vẻ chưa tin những chuyện này là thật.
“Chỗ đó là một vùng đất trũng sâu khoảng ba ki-lô-mét, được gọi là Biển ẩm đấy.”
“Vùng đất trũng ư?”
“Ừ. Trên mặt trăng hầu như không có không khí. Các thiên thạch rơi rất thường xuyên, những tảng đá văng ra từ sự va chạm ấy bay đi rất xa với vận tốc điên cuồng, bởi lực hút trên mặt trăng rất yếu. Nếu nghĩ tới chuyện ấy, có thể nói một vùng đất trũng bao quanh bốn bề bởi những bức tường cao là một nơi khá an toàn trên mặt trăng đấy.”
Tôi nói một tràng dù bà Etsuko không hề hỏi tới.
“Ông Tani chuyện gì cũng biết nhỉ.”
“Tôi biết nhiều về thiên văn và câu cá… Sở thích của tôi mà. Ngoài hai lĩnh vực đó ra thì hiểu biết của tôi chỉ dưới mức trung bình thôi.” Tôi không định khoe, nhưng miệng tôi cứ tự ý nói ra những lời có vẻ khoe khoang như vậy.
“Ô kìa, ông biết cả cách làm tôi vui đấy thôi.” Bà Etsuko lấp lánh ánh mắt lém lỉnh nhìn tôi.
“Cảm ơn bà.”
Bà ấy vừa nói một câu khiến trái tim tôi tê dại vì sung sướng, nhưng tôi chỉ khẽ so vai lại, giả vờ điềm nhiên.
“Thế nên tôi tặng kèm bà cả bộ kính viễn vọng này nữa. Tối nay chúng ta sẽ thong thả ngắm khu đất trên mặt trăng của bà nhé.”
“Trời, tuyệt thật đấy. Lần đầu tiên tôi trải qua một sinh nhật lãng mạn như vậy.”
Từ kẽ hở giữa đôi môi tô son đỏ của bà Etsuko, một làn hơi dày, trắng muốt trào ra. Bà ấy vừa thở dài. Mỗi khi có chuyện gì thực sự vui sướng, bà Etsuko luôn thở một hơi rất sâu như thế. Nhìn bà, tôi cũng khẽ thở một hơi dài. Bởi tôi thấy nhẹ nhõm vì bà thích món quà ấy.
“Ừm… Cái tên Biển ẩm nghe hơi tầm thường, nhưng mảnh đất ở chỗ dễ nhớ đấy. Bà thử nhìn lên mặt trăng bằng mắt thường một chút đi.”
Tôi đứng cạnh bà Etsuko, ngẩng đầu nhìn vầng trăng rằm sáng tới mức chói mắt. Vai áo khoác của chúng tôi chạm vào nhau, tạo thành tiếng soàn soạt khô khốc.
“Hôm nay trăng tròn, thấy cả hình chú thỏ trên mặt trăng [24] kìa.”
“Vâng, nhìn thấy rõ thật.”
“Cái chỗ đuôi tròn tròn của con thỏ ngọc đó chính là ‘biển ẩm’ đấy.”
“Đuôi chú thỏ ư…”
“Dễ nhớ đúng không?”
Bà Etsuko gật đầu hai cái liền, miệng nói “Vâng”, mắt ngước nhìn tôi. Gương mặt của một người phụ nữ, mà nếu làm tròn lên thì sẽ thành bảy mươi tuổi, đang ở sát cạnh tôi. Dưới ánh sáng trăng, đôi môi đỏ của bà cử động thật xinh đẹp.
“Ông Tani ơi, tôi muốn sớm được xem cái đuôi con thỏ trên kính viễn vọng quá.”
“Được. Bà chờ xíu.”
Tôi rời khỏi vị trí bên cạnh bà, nhìn vào thị kính của kính viễn vọng. Khi nãy tôi đã điều chỉnh rồi, nhưng mặt trăng đã lặng lẽ dịch chuyển về phía tây một chút, thấu kính của kính viễn vọng chỉ thu được hình ảnh góc bên phải của mặt trăng mà thôi.
Vừa chậm rãi xoay cây cần gạt gắn vào giá đỡ, tôi vừa dịch chuyển ống kính viễn vọng sang phải một chút sao cho ngắm được ‘biển ẩm’. Sau đó tôi lấy nét, những vết lồi lõm trên bề mặt mặt trăng với hai màu xám trắng nổi lên rõ rệt.
“Được rồi, bà nhìn thử đi. Tôi nhắc trước là hình ảnh nhìn được là ảnh ngược trên dưới nhé.”
“Vâng.”
Bà Etsuko hơi cúi xuống, ghé mắt phải vào thị kính.
“Ôi…” Đúng như tôi dự đoán, bà lặng người đi. Và rồi bà thốt lên.
“Tuyệt quá! Không ngờ dùng kính có thể nhìn rõ thế này!”
Sự phấn khích thể hiện rõ trong tông giọng. Lần đầu nhìn mặt trăng qua kính viễn vọng, ai cũng thán phục như vậy cả. Họ cũng không thể rời mắt khỏi ống kính một lúc lâu.
Bà Etsuko cũng không phải ngoại lệ, mắt vẫn nhìn vào ông kính viễn vọng, bà bắt đầu nói.
“Hình ảnh bị ngược so với thực tế, nghĩa là phần phía trên bên phải này chính là mảnh đất của tôi nhỉ. Mảnh đất này có vẻ dễ sống đấy. A, bên cạnh nó có một tảng đá to kìa. Không biết thực tế tảng đá ấy to chừng nào nhỉ? Nếu tôi đứng trên chỗ đất ấy để ngắm bầu trời, chắc sẽ thấy rất nhiều ngôi sao, và Trái Đất nhìn từ đó có lẽ cũng rất xinh đẹp. Thật giống một giấc mơ…”
Mặt trăng ở gần tới nỗi tưởng như chỉ cần đưa tay ra là chạm tới… Bị mê hoặc bởi khung cảnh đó, bà Etsuko lại thở ra một hơi thật dài. Tôi nói phía sau lưng bà khi bà vẫn mải mê nhìn kính viễn vọng.
“Mặt trăng luôn quay một mặt cố định của nó về phía Trái Đất, nên bà sẽ có nhiều cơ hội để nhìn cái đuôi con thỏ đấy.”
Bà Etsuko rời mắt khỏi ống kính, nhìn thẳng vào mắt tôi. Bà chăm chú nhìn tôi một lúc lâu. Mắt tôi như thủng hẳn một lỗ.
“Ông Tani này.”
“Gì cơ?”
“Từ hôm nay cho tới ngày tôi rời bỏ cõi đời…”
“Ừ.”
“Tôi đã được đảm bảo rằng chỉ cần ngẩng đầu ngắm trăng tôi sẽ trở nên hạnh phúc rồi.”
“…”
“Chẳng mấy người được may mắn như vậy. Cảm ơn ông nhé, ông Tani.”
Bà Etsuko đứng đó giữa ánh sáng xanh mềm mại từ vầng trăng rót xuống. Nụ cười trên môi bà trong sáng như của một thiếu nữ. Nhưng không hiểu sao tôi lại cảm thấy bóng dáng ấy thật mong manh. Dáng đứng yếu ớt của bà khiến tôi có thứ cảm giác lạ lùng rằng chỉ cẩn mình ngoảnh nhìn nơi khác, trong khoảnh khắc bóng dáng ấy sẽ biến mất.
Dù thực ra, tôi mới là người sắp biến mất khỏi nơi đây.
“À, ừm…”
Đúng lúc tôi định nói gì đó để thay đổi bầu không khí, chợt có tràng sủa dài vô tình của Kotarou từ hàng hiên của tiệm vọng tới. “Gâu gâu gâuuu!” Tiếng sủa dài bị bầu trời đêm xanh thẫm nối liền với vũ trụ xa xôi hút trọn vào lòng, không còn vết tích.
Sự cô liêu tịch mịch của đêm trăng càng phủ xuống sâu hơn.
❀ ❀ ❀Về tới tiệm, bà Etsuko pha cho tôi tách cà phê nóng.
Chúng tôi ngồi đối diện nhau, chậm rãi nhấm nháp ly cà phê đen đậm đà. Cảm giác như cơ thể đông cứng của tôi đang chậm rãi tan dần ra từ bên trong.
“Ngon quá…”
Xưa nay, chỉ khi uống cà phê bà Etsuko pha, tôi mới có thể thành thực nói ra tâm trạng mình như vậy.
“Cảm ơn ông.” Bà Etsuko luôn trả lời một câu ba từ như vậy kể từ khi chúng tôi gặp nhau lần đầu mười mấy năm trước.
Trong tiệm có tiếng “tách, tách” nhỏ vui tai giống như tiếng người ta đang bẻ những cành cây nhỏ. Lò sưởi củi đang hoạt động. Từ chiếc loa hiệu BOSE, một bản nhạc cổ điển ngọt ngào tuôn ra.
Đó là bài “Love me tender” của Elvis Presley. Dịch trực nghĩa là “Xin yêu anh dịu dàng”.
Tôi không nhớ rõ khi nào… Có lẽ khoảng mười năm trước… Trong lòng bức bối vì không thể bày tỏ tình cảm của mình, tôi đã hạ quyết tâm yêu cầu bà Etsuko bật bài hát này.
Hãy yêu tôi thật dịu dàng.
Từ ngày đó, hôm nào tới tôi cũng yêu cầu bà bật bài hát này, như một bức thư tình. Vì thế từ khi nào đã thành thói quen, vừa nhìn thấy tôi bà Etsuko liền bật bài hát này mà không cần hỏi câu nào.
Nghĩa là bà Etsuko đã hiểu lầm rằng tôi thích bài hát “Love me tender” này, thay vì hiểu rằng lời bài hát là những lời tôi muốn gửi tới cho bà.
Lần đầu tiên tôi yêu cầu bài hát này là vào hoàng hôn một ngày chính đông giống như ngày hôm nay, khi đó tiếng củi cháy lách tách trong lò sưởi cũng vang lên nho nhỏ như bây giờ.
“Gần đây không thấy ông tới câu cá nữa, công việc của ông bận lắm à?” Bà Etsuko nghiêng đầu hỏi, hai tay bà bao quanh tách cà phê cho ấm.
“À, ừ… Ở công ty có nhiều việc tôi phải xử lý.”
“Ông làm quản lý ở công ty xây dựng mà, sao nhàn hạ được.” Bà Etsuko nói, nở nụ cười lém lỉnh mọi khi.
“Ừ.” Tôi không thể mỉm cười lại, cũng không thể đáp lại với một câu đùa. Thế nên tôi liền đổi hướng câu chuyện. “Công việc bận rộn một phần, nhưng cũng vì giữa đông, cá ở bãi đá này cũng ít đi nữa bà ạ.”
“Ủa thế à ông?”
“Ừ.”
“Nhưng không phải vừa trưa nay ông câu được cá mang tới sao?” Bà Etsuko quay lại nhìn khu bếp phía sâu bên trong tiệm, nói. Trưa nay tại bãi biển ở mũi đá này, tôi đã câu được một con cá khá to, giờ đang để trong tủ lạnh của tiệm.
“Đó là cá bánh lái. Tên thường gọi là cá xám. Mùa đông cá bánh lái thường ăn rong biển nên không bị tanh, ăn rất ngon. Thợ câu chuyên thường gọi là ‘cá bánh lái mùa lạnh’, ủa, tôi chưa kể bà nghe chuyện này à?”
“Chưa. Hình như đây là lần đầu tôi được nghe.”
“Thế à.”
“Ừ, có lẽ thế.”
“Ra vậy. Có lẽ tôi chưa kể cho bà nghe bao giờ thật…”
“Ông Tani này…”
“Ơi?”
“Đến cái tuổi hay quên như chúng ta, từ ‘có lẽ’ tiện lợi thật đấy.”
“Đúng thế thật.”
Giữa hơi ấm từ lò sưởi củi, hai chúng tôi cùng cười khúc khích. Và rồi, vừa cười tôi vừa thầm nghĩ. Nếu có thể ở cùng bà Etsuko, có lẽ việc già đi sẽ không còn đáng sợ chút nào nữa…
Bản “Love me tender” của Elvis Presley đã dừng lại. Tiếng nhạc vừa dứt, sự tồn tại của lò sưởi củi với những tiếng cháy lách tách lập tức trở nên nổi bật hơn. Lúc bà Etsuko định cho thêm củi, tôi bất giác vỗ tay.
“A, phải rồi. Tôi quên béng đi mất.”
“Gì vậy ông?”
Tôi còn có một món quà nữa dành cho bà Etsuko.
“Cái đó, cái đó ấy.” Tôi nói.
“Cái đó, chẳng lẽ lại là…”
“Đúng rồi, chính là cái đó đấy.”
“Mấy từ như ‘cái đó’, ‘cái kia’ cũng giống như từ ‘có lẽ’, thật tiện cho chúng ta ông nhỉ?”
Vừa cười trước câu nói đùa của bà Etsuko, tôi vừa mở khóa chiếc ba lô đặt bên cạnh, lôi một chiếc hộp bìa các-tông nhỏ ra. Tôi khẽ trượt nó trên bàn, đưa về phía bà Etsuko.
“Của bà đây. Chiếc cốc mà bà đã nhờ tôi.”
“Nó được gắn lại thật rồi ư?”
“Bà mở ra xem đi.”
Bà Etsuko cẩn thận bóc lớp băng dính, mở chiếc hộp bìa các-tông ra. Sau đó, bà dỡ từng lớp từng lớp giấy báo bọc tròn quanh, rồi khẽ lấy chiếc cốc cà phê bên trong ra đặt lên hai tay mình.
Cái này…
“Tôi nhờ thợ gắn lại bằng bột vàng [25] .”
Bà Etsuko lại kinh ngạc, lần thứ hai trong ngày.
“Gắn bằng bột vàng không phải rất tốn kém sao?”
“Trong công ty tôi có một cậu em làm công việc này vì sở thích, tôi đã nhờ cậu ta làm giúp. Cậu ấy bảo không cần trả tiền nên tôi mời cậu ấy nhậu một bữa ngoài quán rượu rồi.”
Tôi nhớ tới gương mặt của người đàn em thân thiết đó. Cậu ta làm việc rất khá, nhưng trên hết con người cậu ta rất tốt. Cậu ta còn là chiến hữu đã cùng tôi vượt qua bao dự án khó khăn ở công ty. Vậy là tôi cũng sắp phải rời xa người đàn em đó.
“Ồ, thế thì ít nhất tôi cũng phải trả tiền bữa nhậu ấy.”
“Không cần đâu. Đó cũng là một phần quà tặng sinh nhật cho bà mà.”
“Nhưng mà…”
“Lần tới tôi sẽ dẫn cậu ta tới đây, bà pha cho cậu ta một cốc cà phê thật ngon là được. Pha bằng chính chiếc cốc ấy nhé.”
Tôi cố gạt đi khi bà Etsuko muốn trả tiền. Tới tuổi này tôi vẫn làm quản lý cấp cao ở một công ty xây dựng, sống một cuộc sống độc thân dư giả, tôi sao có thể nhận tiền từ một bà lão sống dựa vào một tiệm cà phê hầu như chẳng đem lại lời lãi gì như thế này được.
“Cảm ơn ông… Nhưng mà tôi không ngờ ông mang nó đi gắn bằng bột vàng đấy.”
Bà Etsuko cầm chiếc cốc đã được gắn lại bằng cả hai tay, nhìn những vết gắn với ánh mắt như đang hồi tưởng lại quá khứ thân thương ngày nào.
“Nghe nói sau khi gắn lại bằng bột vàng, giá trị của đồ vật sẽ còn cao hơn trước khi nó bị vỡ nữa đấy.” Tôi nói lại lời người đàn em cùng công ty kể.
“Thế à ông?”
“Ừ. Hình như vậy.”
Theo lời người đàn em của tôi, vốn dĩ gắn lại bằng bột vàng là kỹ thuật dùng sơn mài gắn lại những mảnh gốm vỡ rồi rắc bột vàng lên trên vết gắn. Nó là phương pháp sửa chữa truyền thống của Nhật Bản, được truyền lại từ thời Muromachi [26] - thời mà trà trở thành món đồ uống thịnh hành. Họ gọi vết gắn bột vàng đó là “cảnh sắc” và tán thưởng vẻ đẹp không hoàn hảo và vô thường sinh ra từ vết gắn ấy, có thể nói, nó là cách hàn gắn đồ gốm mà chỉ trái tim thuần khiết của người Nhật Bản mới nghĩ tới.
“Giá trị của nó tăng lên hẳn, nên có khi nó bị vỡ thế lại hay bà ạ.”
Tôi nói đùa. Bà Etsuko hơi mỉm cười, nhưng miệng bà nói một câu ngược lại.
“Tôi sẽ không để nó vỡ nữa đâu. Tôi sẽ giữ gìn nó cẩn thận.” Vừa nói bà vừa khẽ đặt chiếc cốc lên bàn.
“Chiếc cốc quan trọng với bà đến thế ư?”
“Quan trọng lắm.” Bà Etsuko chậm rãi gật đầu. “Nhiều năm trước có một vị khách là nghệ nhân gốm sứ tới đầy uống cà phê, anh ấy đã lấy bức tranh cầu vồng này và bờ biển ở mũi đá làm họa tiết cho chiếc cốc. Thế nên ông thấy đấy, phần tay cầm được sơn bảy sắc cầu vồng, còn thân cốc có màu xanh đậm của biển.”
“Ồ…”
“Đẹp quá phải không ông?” Bà Etsuko nói, ánh mắt ngước lên ngắm nhìn bức tranh cầu vồng.
“Ừ. Rất đẹp.”
Vừa rồi là lời nói dối nho nhỏ. Tôi không muốn chiếc cốc ấy là một thứ quá tuyệt vời đối với bà Etsuko.
Biểu cảm của bà Etsuko khi ngắm bức tranh cầu vồng luôn rất đặc biệt. Khóe miệng bà hơi nhỉnh lên, nhìn bà đầy vẻ từ ái dịu dàng, nhưng ánh mắt bà thật cô đơn, ưu sầu. Biểu cảm ấy là thứ mị hoặc nhất, nhưng đồng thời cũng là thứ tôi không muốn nhìn thấy nhất.
Tôi ghen. Dù đã từng này tuổi đầu, tôi vẫn ghen.
Tôi không muốn thừa nhận rằng cuộc đời bà Etsuko sẽ luôn gắn liền với bức tranh và với người vẽ nên nó. Tôi luôn cầu khấn trong lòng rằng bà sẽ dồn nó vào một góc trong ký ức mình, như một ký ức đã quá xa xôi, đã phai hết màu sắc. Và mỗi lần như thế, tôi lại cảm thấy bực bội bởi sự hẹp hòi, kém cỏi của chính mình. Vì thế, giây phút này, vừa cảm nhận một ngọn lửa đen trong bụng, tôi vừa hỏi một câu châm chọc:
“Một chiếc cốc quan trọng như vậy, sao trước đây bà lại làm vỡ thế?”
Nhưng bà Etsuko lại cười rất vui vẻ:
“Chuyện là hồi mùa thu có một tên trộm lẻn vào trong tiệm. Tôi giật mình nên lỡ tay làm vỡ mất.”
Hả, kẻ trộm ư? Trong khoảnh khắc, tôi lặng người đi.
“Kẻ trộm… là kẻ trộm thật á?”
“Vâng. Một tên trộm đúng nghĩa đấy. Anh ta mang theo một con dao rất sắc rồi khẽ khàng lẻn vào qua khung cửa sổ đằng kia kìa.” Trái với câu chuyện đầy kịch tính đang kể, đôi mắt bà Etsuko lại có vẻ rất hoài niệm.
“Sao lại thế? Chuyện thật đấy ư?”
“Vâng, chuyện thật đấy.”
“Tôi chưa nghe bà kể chuyện đó bao giờ.”
“Vì tôi không bị trộm món gì, cũng không bị thương tích gì cả. Tôi không kể cho ai nghe hết.”
“Cảnh sát thì sao?”
Bà Etsuko chậm rãi lắc đầu. “Anh kẻ trộm ấy là người tốt.”
“Trời. Một tên kẻ trộm lẻn vào qua cửa sổ với một con dao trên tay mà có thể là người tốt hay sao?”
“Vâng. Vì tôi tưởng anh ta sẽ khẽ khàng tiến vào bên trong, nhưng rồi đột nhiên anh ta bị bức tranh cầu vồng thu hút, không rời mắt ra được. Chỉ với chi tiết đó tôi đã cảm thấy anh ta là người tốt rồi. Cuối cùng tôi còn ăn một bữa cơm với anh ta đấy.”
“Ăn cơm cùng kẻ trộm sao?”
“Vâng.”
“Sao cuối cùng lại thế được…?”
Chẳng hiểu nổi lý do, tôi dựa cả người vào lưng ghế tựa, khoanh tay lại. Tôi không thể phân biệt được trong câu chuyện của bà Etsuko đoạn nào là thật, đoạn nào là nói đùa nữa.
Nhưng rồi bà Etsuko khẽ cười nói “Thế gian này có nhiều chuyện lắm”, đoạn bà đứng dậy khỏi ghế. Sau đó, vừa nói như ngâm nga “Nhắc tới cơm làm tôi tự nhiên thấy đói bụng”, bà vừa dọn dẹp cốc cà phê đã được uống cạn trên bàn.
Kẻ trộm… ư? Tôi chẳng hiểu gì… nhưng thôi vậy. Tôi cũng đứng lên.
“Vậy để tôi làm cá ăn thôi. Mới vài tiếng trôi qua, nhưng vì chúng ta để nó trong tủ lạnh nên có lẽ nó ngon hơn rồi đấy.”
Xưa nay, với những con cá câu được ở mũi đá này, tôi luôn tự mình mổ xẻ để đãi bà Etsuko và khách quen của tiệm, điều đó đã trở thành một quy định bất thành văn.
“Ô kìa, ông Tani lại nói ‘có lẽ’ nữa rồi.”
“Ồ, đúng thật. Tôi lỡ miệng… Đúng là có tuổi rồi có khác.”
“Ông vẫn nhớ bản thân vừa nói gì, như vậy là đáng khen lắm rồi.”
“Ồ, cảm ơn bà. May là càng nhiều tuổi người ta càng dễ được khen vì những chuyện nhỏ nhặt hơn.”
Chúng tôi cùng cười, Kotarou ngoài hiên lại cất lên tràng sủa dài. Tiếng sủa khỏe khoắn và dễ chịu. Có lẽ nó thực sự thích vầng trăng tròn tối nay.
Bà Etsuko đặt một chiếc đĩa CD vào đài nghe đĩa. Một bản nhạc phúc âm đẹp đẽ vang lên. Bản nhạc này hình như là bản “Người cầu nguyện - The Prayer”.
Những nốt nhạc trong vắt bắt đầu nhảy múa bồng bềnh giữa không trung.
Khi tiếng nhạc dâng lên tràn đầy, sự lặng lẽ của đêm đông ngược lại càng thấm đẫm không gian hơn.
Buổi tối kỷ niệm - mà có lẽ là cuối cùng - giữa tôi và bà Etsuko đang từng chút một đi tới hồi kết.
❀ ❀ ❀Tôi đứng bên kệ bếp, đặt con cá bánh lái lên chiếc thớt gỗ cầy liễu. Con cá này khá đẹp, thân mình nó phải dài tới bốn mươi xen-ti. Tôi nhanh chóng lấy dụng cụ lọc vảy cá, cẩn thận lọc hết vảy, rồi mở cánh cửa bên dưới bồn rửa để lấy con dao pha luông mọi khi, nhưng chợt bà Etsuko đứng bên cạnh tôi nói:
“Chẳng mấy khi có dịp, hôm nay tôi sẽ cho ông Tani mượn chiếc dao pha luông đặc biệt do anh trộm làm ra. Một con dao mới tinh, tôi cũng chưa dùng tới bao giờ.” Bà Etsuko mở một ngăn thường ngày ít dùng tới trên kệ, lấy ra một con dao pha luông.
“Đây, là con này. Ông dùng thử đi.” Bà khẽ đặt con dao trần xuống phía bên phải chiếc thớt.
Đây chính là con dao tên trộm đó mang tới ư… Tôi nhìn gương mặt nhìn nghiêng của bà Etsuko. Gương mặt bà bình thản. Có vẻ bà không nói dối.
“Trông nó có vẻ sắc đấy.”
“Tôi bảo ông rồi mà.”
“Vậy tôi sẽ dùng dao này.”
Con dao pha luông mới cứng hắt lên ánh sáng sắc lạnh như để khoe khả năng của mình. Là người mê câu cá nên trước giờ tôi đã có dịp dùng tới rất nhiều con dao pha luông khác nhau, và từ cảm giác đằm tay cùng cảm giác cân bằng khi cầm chuôi con dao này, tôi thấy nó khác hẳn với những con dao khác. Giây phút khía lưỡi dao vào mình con cá, tôi bất giác thốt lên:
“Ồ, con dao này…”
… thật là một con dao tốt - nhưng tôi thán phục tới nỗi không thể nói hết được phần tiếp theo của câu nói ấy.
Con dao dày cộp di chuyển qua rãnh xương rắn chắc và lớp thịt trắng của con cá bánh lái nhẹ nhàng như trượt đi giữa không trung.
“Nó tuyệt quá…”
“Tôi biết mà.” Mắt bà Etsuko lim dim như thể chính mình đang được khen.
Nắm trong tay con dao xuất chúng ấy, tôi xẻ thịt cá với tâm trạng thoải mái trước nay chưa từng có, xẻ thành món ikezukuri [27] giữ nguyên đầu và đuôi cá rồi bày lên đĩa.
Bà Etsuko đặt sốt kem, thịt nguội và trứng cá hồi lên trên miếng bánh quy để làm món nhắm nhẹ. Ngoài ra bà còn bưng món đồ muối có mùi quất cùng món oden [28] bà đã nấu và để ngấm vị từ ban trưa ra nữa.
Rượu uống tối nay là loại rượu vang Koshu, loại rượu mà gần đây tôi rất thích. Đó là loại rượu vang trắng lên men từ loại nho tên Koshu, đặc sản của tỉnh Yamanashi, nhưng rượu này hợp với món ăn Nhật một cách kỳ lạ, vị rượu thanh ngọt rất dễ uống. Ngay cả một người không uống được rượu như bà Etsuko cũng sẽ thích loại rượu này cho mà xem.
Tôi đi ô tô tới nên sau khi uống rượu sẽ không thể về nhà được, vì thế tối nay tôi sẽ mượn căn phòng trên tầng hai trong quán của Kouji bên cạnh để ngủ nhờ. Mấy hôm trước tôi đã gọi cho Kouji, cậu ta đã đồng ý cho tôi mượn phòng: “Được ạ. Bố cứ dùng thoải mái nhé.”
“Khi nào cửa hàng của Kouji hoàn tất hả bà?” Vừa đổ nước nóng lên thớt để sát khuẩn, tôi vừa hỏi bà Etsuko.
“Tôi không biết nữa. Chắc khoảng năm sau. Hoặc năm sau nữa… Dù sao thằng bé cũng có vẻ thong thả, chẳng vội vàng gì.”
“Nhìn thì có vẻ gần như hoàn thiện rồi đó.”
“Kouji xưa nay thường để tâm tới từng chi tiết, nên có lẽ dù mất nhiều thời gian nó cũng muốn xây nên một cửa tiệm thật vừa ý.”
“Thế à. Tiếc thật đấy…”
“Tiếc ư?”
“À, không. Ý tôi là tôi muốn sớm được ngắm ngôi nhà hoàn thiện thôi.”
Tôi không thể đợi ngày cửa hàng của Kouji mở cửa được nữa. Đó chính là điều khiến tôi hối tiếc.
Ngẫm lại, thằng bé Kouji mà tôi yêu quý từ thuở khắp cơ thể cậu ta tỏa ra thứ mùi ngỗ ngược, chẳng biết từ khi nào đã trở thành một người đàn ông trưởng thành chững chạc. Tính cách và vẻ ngoài cậu ta đều thô ráp, nhưng cậu ta cũng khá khéo léo vì có thể lập tức nhớ được cách câu cá và cách dùng kính viễn vọng. Cậu còn là một trong số rất ít người trẻ yêu quý tôi và thẫn mật gọi tôi là “Bố”. Thực lòng, đã bao lần tôi ước giá mà tôi có được một cậu con trai như Kouji.
“Cậu ta không kết hôn sao?” Vừa nói tôi vừa nạo một ít wasabi.
“Chà, tôi không biết nữa. Nhưng chắc Kouji không muốn nghe một người độc thân như ông Tani thắc mắc về chuyện đó đâu.”
“Ừ nhỉ, ngại quá.”
Gương mặt rám nắng luôn mỉm cười với vẻ ngượng ngùng của Kouji hiện lên trong đầu tôi, lòng tôi chợt thấy đau nhói.
❀ ❀ ❀Đồ ăn đã được bưng ra hết, chúng tôi bày đĩa và rượu vang lên bàn rồi chạm ly. Không có những chiếc ly thủy tinh đẹp, cũng không có bánh kem, chúng tôi vừa vui vẻ từ tận đáy lòng chúc mừng ngày bà Etsuko được sinh ra trên thế giới này, vừa chia sẻ rượu vang và những món đồ ăn tự làm ngon tuyệt.
Buổi tối tràn ngập sự tĩnh lặng chỉ có người lớn với nhau này là những giờ khắc yên bình và lấp lánh, như mặt biển mùa xuân lặng sóng.
Hầu như mỗi âm thanh bà Etsuko phát ra đều khiến tôi mê đắm. Nhưng khi bà nói tới bức tranh cầu vồng kia, và khi nói tới tương lai của tôi, lòng tôi lại cuộn sóng. Và rồi, từ giây phút chủ đề câu chuyện chuyển sang quá khứ của tôi, buổi tối nay mới thực sự bắt đầu.
“Ông Tani này, sao ông sống cuộc sống độc thân mãi vậy?” Uống tới ly rượu vang Koshu thứ hai, hai má bà Etsuko đã ửng hồng màu hoa anh đào, bà nghiêng đầu hỏi.
“Lẽ nào bà đang nghĩ tôi là người đồng tính?” Tôi định nói đùa, nhưng có vẻ không được suôn sẻ lắm.
“Đâu có. Trông ông không giống như vậy chút nào.” Bà Etsuko mỉm cười nhưng vẫn chăm chú nhìn vào mắt tôi, chờ đợi một câu trả lời.
“Gì vậy? Bà muốn nghe một câu trả lời nghiêm túc đấy à?”
“Vì tôi thực sự muốn biết mà.”
Nếu chúng tôi là một đôi nam nữ trẻ, câu nói vừa rồi của bà Etsuko có lẽ sẽ trở thành một tín hiệu về việc chúng tôi sắp lọt thỏm vào mê cung tình yêu. Nhưng khi đã tới cái tuổi phải lặp đi lặp lại mấy từ “có lẽ”, “cái ấy”, “cái kia” thì tôi chẳng còn nuôi dưỡng được thứ hi vọng mong manh kiểu ấy nữa. Nếu không khéo tôi sẽ tự ăn dưa bở, cuối cùng sẽ trở thành trò cười mất. Vì thế tôi cẩn thận kiểm soát cảm xúc của mình, bày ra vẻ mặt hoàn toàn điềm nhiên. Rồi tôi thẳng thắn thú nhận.
“Thực ra chẳng có lý do gì đáng kể cả.”
Đó là sự thật. Đương nhiên trong quá khứ tôi từng hẹn hò một số người, trong số đó có cả người tôi định kết hôn. Nhưng bánh răng công việc, sở thích và tình yêu của tôi không ăn khớp với nhau vào đúng thời điểm chút nào. Tôi nghĩ chính vì thế mà tôi độc thân đến tận tuổi này.
“Ông Tani có vẻ rất được phụ nữ để ý đấy chứ.”
“Thế ư?”
“Vâng. Bề ngoài thì phong độ, nói chuyện cũng rất hay nữa.”
“Dù gần đây tôi toàn nói ‘có lẽ’, ‘cái kia’ với ‘cái ấy’ nhỉ?”
Bà Etsuko vừa cười vừa nói “Ông khéo nói đùa kiểu ấy lắm” rồi đặt ly rượu lên bàn.
Cơn gió biển dường như đã mạnh hơn, cửa sổ kính của tiệm rung lên lạch cạch. Hai chúng tôi bỗng nhiên cùng nhìn về phía cửa sổ. Trên cửa kính cửa sổ có in bóng hai ông bà lão ngồi quanh chiếc bàn nhỏ. Nếu lúc này, bên ngoài cửa sổ có kẻ trộm nhìn vào, không phải chúng tôi nhìn rất giống một cặp “vợ chồng” thân thiết hay sao. Chứ không lẽ tuổi này rồi mà trông như “người yêu” được sao…
Tôi thở dài khe khẽ để bà Etsuko không nghe thấy, quay người trở lại phía trước. Rồi tôi rót rượu Koshu vào ly của mình, ăn một miếng sashimi cá bánh lái. Cá bánh lái mùa lạnh thật ngon với những tia mỡ rất mảnh trên thân.
Ngẫm lại thì hôm nay sẽ là lần cuối cùng tôi tới câu cá ở mũi đá, cũng là lần cuối cùng tôi thưởng thức món cá câu được như thế này. Tôi sẽ không được gặp lại bà Etsuko, Kouji và những người khách quen từng cùng tôi nhiều lần cải tổ lại tiệm cà phê này nữa.
Nghĩ tới đó, những kỷ niệm ở mũi đá chợt từ đáy sâu ký ức tôi cuộn trào lên, tâm trạng tôi đột nhiên trở nên u ám, tôi buột miệng nói một câu mà chính mình cũng không ngờ tới.
“Bà Etsuko này…”
“Gì cơ?” Đang lơ đãng ngắm cảnh ngoài cửa sổ, bà Etsuko quay lại phía tôi. Trên khóe miệng đỏ thắm của bà nở nụ cười như biển rộng bình yên.
“Ừm…”
“Gì thế ông?”
Tôi nâng ly rượu Koshu lên uống, sau đó hít vào một hơi thật sâu.
“Bà không nghĩ tới chuyện tái hôn sao?”
Chính tôi là người hỏi, nhưng rồi tôi lại xấu hổ rời ánh mắt khỏi bà Etsuko. Sau đó, khi thì tôi bồn chồn lấy đũa chọc chọc thức ăn, lúc thì tôi nhấm nháp ly rượu. Bà Etsuko trả lời bằng giọng điềm nhiên như mọi khi.
“Một bà lão không có tiền cũng chẳng có gì như tôi thì làm gì có ai muốn kết hôn cùng chứ.”
Nếu có người như vậy, bà có kết hôn với người đó không?
Bụng nghĩ thế, nhưng miệng tôi lại nói ra một lời khác hẳn.
“Tôi nghĩ không phải vậy đâu.”
“Chà, ông nói câu mát lòng mát dạ ghê.”
“Nếu chịu khó quan sát, bà sẽ thấy trên đời có nhiều người có tiêu chuẩn chọn bạn đời khác lắm.”
Ví dụ như tôi chẳng hạn…
“Thế ư?”
“Ừ.”
Cảm thấy cổ họng khô khốc, tôi uống cạn ly rượu vang. Bà Etsuko cũng kề miệng vào ly. Gọi là ly nhưng không phải loại ly chuyên để uống rượu vang mà là loại cốc thủy tinh thường ngày dùng để rót nước lạnh, tuy vậy với cử chỉ thanh tao của bà Etsuko, chiếc ly ánh lên vẻ đẹp thật tinh tế.
“Rượu vang này ngon thật.” Bà Etsuko đưa chiếc ly lên ngang tầm mắt, ngắm nhìn chỗ rượu bên trong. “Đúng là khi uống cùng ai đó, rượu sẽ ngon hơn hẳn khi uống một mình ông nhỉ?”
“Uống cùng ai đó” là rất quan trọng, nhưng việc người uống cùng là ai cũng rất quan trọng đấy - tôi thầm thì trong lòng. Nhưng như mọi khi, tôi lại nói ra miệng một điều khác hẳn.
“Đúng là như thế thật.”
“Uống một mình nhạt nhẽo lắm. Ngay cả đồ ăn cũng chẳng thấy vị gì.”
Bà Etsuko chợt thở dài nho nhỏ và khẽ cười. Lúc này không hiểu sao trông bà nhỏ bé hơn hẳn mọi khi.
Nói ngạo mạn một chút thì, trông bà nhỏ bé đến mức người xung quanh thật muốn chở che.
“Bà này…”
“Gì cơ?”
“Sống một mình ở mũi đá này bao nhiêu năm, bà không thấy cô đơn ư? Bà không muốn ở cùng một ai đó sao?” Tôi đặt ly rượu và đôi đũa xuống, nhìn bà Etsuko đang ngồi trước mắt.
Bà Etsuko cũng nhìn tôi.
Cánh cửa sổ kính lại rung lên lách cách. Lắng tai nghe, tôi nghe thấy cả tiếng sóng xa xa tràn vào bên trong cửa hàng.
“Câu nói này…” đôi môi bà Etsuko cử động.
“…”
“Tôi không muốn nghe từ ông Tani - một người cả đời cô độc - chút nào cả.” Nói rồi bà Etsuko nở nụ cười lém lỉnh mọi khi và nhìn tôi.
Nhưng tôi không rời ánh mắt khỏi bà Etsuko.
“Bà đã từng nghĩ, thay vì sống ở mũi đá cô liêu này, bà nên chuyển tới một nơi nào đó khác để sống chưa?”
“Gì cơ?”
Chắc vì hiếm thấy tôi hỏi sâu vào vấn đề như vậy nên bà Etsuko có vẻ ngạc nhiên, người bà cứng đờ trong vài giây. Nhưng rồi, người đầu hàng sự im lặng ngột ngạt trước lại là tôi, người gây ra sự im lặng ấy.
“À, ý tôi là… đương nhiên tôi cũng rất thích mũi đá này. Nhưng mà, bà thấy đó, trước đây từng có trộm ghé thăm nơi này rồi.”
“Chưa từng.”
“Gì cơ?” Trước câu trả lời hai chữ thẳng thừng của bà Etsuko, đến lượt tôi cứng đờ người.
“Tôi chưa từng nghĩ tới việc chuyển đi nơi nào khác để sống cả. Chưa một lần nào.”
“…”
Ánh mắt bà Etsuko hướng về tôi nhanh chóng chuyển sang hướng chếch phía trên bên phải sau lưng tôi. Không cần ngoảnh lại tôi cũng biết ánh mắt ấy đang dừng lại ở thứ gì.
Là bức tranh cầu vồng.
“Nếu nói không cô đơn thì là nói dối, nhưng không tới mức muốn chuyển đi. Hàng ngày đều có khách tới uống cà phê mà. Trong số đó có những khách quen mà tôi vô cùng yêu quý nữa, như ông Tani chẳng hạn.”
Những vị khách quen mà tôi yêu quý, như ông Tani chẳng hạn…
Tôi choáng váng trước câu nói ấy.
Quả nhiên tôi cũng chỉ như những vị khách quen khác. Trong lòng tôi có lẽ vẫn nghĩ như vậy, nhưng khi phải nghe câu nói chứng thực suy nghĩ đó, tôi vẫn thấy sâu trong lồng ngực mình đau nhói, dù tôi đã ở độ tuổi này rồi.
“Thế ư… ừm, bà nói phải. Vả lại nếu bà không ở đây nữa thì tôi sẽ buồn lắm.” Tôi lại nói một lời trái hẳn với điều mình nghĩ rồi. Bởi chừng nào bà Etsuko còn ở đây, tôi sẽ không thể được gặp bà.
Bà Etsuko vẫn đang ngắm bức tranh cầu vồng đó. Với nét mặt kiều diễm nhất trên đời, đồng thời là nét mặt tôi không muốn nhìn thấy nhất.
Thật khó chịu, nhưng khi bà Etsuko ngắm tranh, tôi gần như không còn tồn tại nữa, dù tôi có ngồi ngay trước mặt bà như thế này. Để bà Etsuko không nhận ra, tôi thở dài một hơi thật sâu và thật chậm rãi. Tôi vớ lấy chai rượu vang, rót đầy vào ly của hai người rồi nâng ly của mình lên hướng về phía bà.
“Ủa, lần này chúng ta cụng ly vì cái gì?” Cuối cùng ánh mắt bà Etsuko cũng quay trở lại với tôi.
“Để cầu chúc cho cửa tiệm này sẽ tồn tại mãi mãi.”
“Gì cơ?”
“Chúc cho bà Etsuko luôn luôn khỏe mạnh và pha được những cốc cà phê thật thơm ngon.”
Bà Etsuko cười khúc khích.
“Ông Tani à…”
“Gì cơ?”
“Cảm ơn ông.”
Câu nói ba âm tiết mà tôi đã nghe tới cả ngàn lần… Vừa hưởng thụ dư âm của câu nói ấy, tôi vừa nói.
“Cụng ly nào.”
“Cạn nhé.”
Bà Etsuko chạm ly vào ly của tôi “cạch” một tiếng.
Ly rượu vang Koshu ở lần cạn ly thứ hai này thật êm dịu, dễ uống. Nhưng tôi cảm thấy so với lần cạn ly thứ nhất, ly rượu này có vị chua ngọt đâu đó, hương vị của nó u ám hơn hẳn.
Hương vị này phải chăng là vị của thất tình mà người ta hay nhắc tới?
Có lẽ là như vậy rồi.
Đã mấy mươi năm kể từ lần cuối tôi cảm nhận nỗi đau này? Vừa thầm thì trong lồng ngực như vậy, tôi vừa chuẩn bị để nói ra hai chữ “Tạm biệt.”
Ngay cả tràng sủa dài của Kotarou ngoài hiên cũng lặng lẽ ngấm vào và vang vọng mãi trong lồng ngực tôi.
❀ ❀ ❀Vịnh Tokyo một ngày đông nắng đẹp.
Bến phà của tàu Kuroshio vô cùng lặng lẽ, có lẽ vì hôm nay là ngày thường. Một giờ chiều, đúng giờ tàu xuất phát, tiếng còi hơi vang vọng giữa không gian rộng lớn. Thứ tiếng nặng và trầm có thể làm dạ dày một người run rẩy. Tiếng động cơ “xạch, xạch, xạch” như tiếng một chiếc máy giặt bị hỏng của con phà mỗi lúc một xa dần.
Con phà đi Tokushima chở tôi và chiếc xe yêu thích của tôi chậm rãi rời khỏi bến cảng của vịnh Tokyo.
Như để dựng lên một cảnh ly biệt đầy khoa trương, những chú chim trắng bay lượn qua lại trên đầu tôi. Đó là đàn mòng biển đầu đen, giống chim thường hay tới thăm Nhật Bản vào mùa đông. Nhìn lên bầu trời cao tít phía trên đàn chim ấy, tôi thấy một vệt mây máy bay xé rách bầu trời xanh theo chiều dọc.
Phà chậm rãi nâng vận tốc, Tokyo thân thuộc của tôi dần lùi xa. Nhưng lòng tôi bình thản hơn tôi tưởng. Đương nhiên là thế. Bởi dù tuổi đã cao, tôi vẫn là một thứ “cỏ dại mất gốc” mà. Gia đình tôi không ở đó, tôi cũng không có bất động sản gì ở đó để phải bám víu lấy. Nếu tôi có thứ gì thì đó chỉ là căn hộ nơi tôi sống một mình, vài quán rượu quen thuộc, vài người bạn, và tòa nhà công ty nơi hơn bốn mươi năm qua tôi cần mẫn lui tới và vắt kiệt sức lao động của mình ở đó mà thôi.
Và mệnh lệnh mà tôi nhận được từ công ty nơi tôi đã cống hiến hơn nửa cuộc đời mình ấy chính là lần chuyển công tác - à không, nói đúng hơn là chuyển việc - này. Ngẫm lại tuổi mình, chuyện này không quá bất ngờ đối với tôi, trái lại tôi đã chuẩn bị tinh thần từ trước rồi. Thế nên tôi bị thuyên chuyển về công ty con một cách rất tự nhiên, và tôi đã chấp nhận được điều đó. Tuy nhiên, vì tôi đã làm việc ở công ty mẹ nhiều năm, nên khi bị đuổi việc như vậy tôi cũng rất tổn thương, tôi từng một mình uống rượu và ngoảnh nhìn lại cuộc đời mình.
❀ ❀ ❀Tôi …
Giữa làn sóng phát triển kinh tế thần kỳ từ năm 1965, ngay khi tốt nghiệp đại học, tôi vào được một công ty xây dựng cỡ trung. Vào được đó, tôi được một đàn anh trước học cùng trường nâng đỡ, nhờ thế công việc của tôi suôn sẻ, thăng tiến đều đều cho tới khi đến tuổi nghỉ hưu. Sau khi nghỉ hưu, ông giám đốc đời trước tiến cử tôi ở lại công ty với chức danh cán bộ quản lý, nhờ thế tôi đã được ngồi trên ghế phó giám đốc phụ trách nghiệp vụ.
Nhưng sau khi bị nuốt chửng bởi làn sóng suy thoái kinh tế nghiêm trọng gần đây, nền tảng hoạt động của công ty tôi bắt đầu mất ổn định, công ty phải tái cơ cấu. Nhiều nhân viên bị cho nghỉ việc, đồng thời số cán bộ quản lý cũng phải giảm xuống một nửa. Từ lúc đó trong tôi đã nảy sinh dự cảm “sắp tới lúc rồi”, không lâu sau đó tôi bắt đầu nghe phong thanh được tin đồn ấy. Những tin tức về nhân sự bằng cách nào đó luôn lọt ra ngoài và truyền đến tai mọi người.
Và rồi, chiều muộn một ngày thứ Sáu khi Giáng sinh sắp gần kề, vị giám đốc mới trẻ hơn tôi đến năm mươi tuổi đã gọi tôi vào phòng giám đốc rồi nói thế này:
“Bác Tani à, có lẽ bác cũng đã nghe về chuyện này rồi…”
Tôi gật đẩu nói “Vâng.” Bụng nghĩ “cuối cùng cũng tới lúc rồi”, nhưng trước sự ngạc nhiên của tôi, đầu gối tôi bắt đầu run lên. Có điều, tôi đã đủ kinh nghiệm cuộc đời để không thể hiện điều đó trên nét mặt. Giám đốc nói tiếp.
“Bác đã vất vả vì công ty nhiều năm rồi. Thật tiếc là công việc của bác ở trụ sở chính đã kết thúc, nhưng cháu đã chuẩn bị sẵn một vị trí cho bác dưới Osaka. Cháu mong bác xuống đó dẫn dắt công ty giúp cháu.”
“Công ty dưới Osaka” mà giám đốc nhắc đến là một công ty nhỏ kinh doanh bãi đậu xe tự phục vụ dưới Osaka. Túm lại, ý anh ta là đã chuẩn bị sẵn cho tôi chức giám đốc một công ty nhỏ nằm trong chuỗi công ty chi nhánh, tôi có thể sống nốt phần đời còn lại của mình ở đó.
Ở tuổi của tôi, làm việc trong một lĩnh vực không có chút kinh nghiệm gì thật vất vả, hơn nữa việc phải chuyển xuống Osaka là một gánh nặng tâm lý với tôi. Giám đốc biết rõ những điều đó, nhưng vẫn quyết định đối xử với tôi như vậy. Nghĩa là, ý anh ta là nếu bác muốn nghỉ việc thì cứ nghỉ, mà không, ý anh ta còn tiêu cực hơn nữa: bác tới tuổi rồi, về vườn đi cho tôi nhờ. Hẳn là như thế.
Giây phút vị giám đốc trẻ với gương mặt hòa hảo vỗ vỗ vai tôi, tôi đã đọc được hết suy nghĩ thật của anh ta. Thế nên tôi thậm chí đã nghĩ, vậy là giai đoạn ẩn cư tự do tự tại của tôi đã đến.
Nhưng khi thời gian trôi qua, suy nghĩ đó đã dần thay đổi.
Nếu tôi sống ẩn cư, tôi sẽ chỉ có một mình cô độc…
Từ giây phút nhận ra điều đó, tôi bắt đầu cảm thấy một mối lo rất thực tế về tương lai của chính mình.
Trước mắt, chỉ cần tôi tới công ty như trước nay, tôi sẽ chào hỏi ai đó, nói chuyện với họ, đôi khi sẽ nói đùa và cùng họ phá lên cười, thỉnh thoảng sẽ được ai đó cần đến. Nhưng nếu đánh mất đi một chỗ dung thân mang tên “công ty” khỏi cuộc đời mình, chẳng mấy chốc tôi sẽ trở thành một người già cô độc và buồn chán.
Dù tôi muốn tới tiệm cà phê Mũi Đá mỗi lúc rảnh thì khoảng cách từ nhà tôi tới tiệm cũng không gần tới mức có thể lui tới đó hàng ngày. Vả lại những khách hàng quen của tiệm Mũi Đá, những người bạn cùng hội ngắm thiên văn và bạn đi câu của tôi đều còn làm việc chăm chỉ mỗi ngày, nên ngày thường họ chẳng thể tiếp tôi được. Dịp cuối tuần có thể tôi sẽ túm được ai đó, nhưng chưa chắc tuần nào họ cũng chơi với tôi. Trên hết, cơ thể tôi đang lão hóa từng giây từng phút một. Ngày tôi không thể theo kịp những người bạn cùng sở thích với mình không còn xa nữa. Vài năm sau có lẽ tôi sẽ trở thành “món đồ vướng víu” với họ mất thôi - tôi sẽ nghĩ theo hướng tiêu cực đó mất.
Một ông lão mặc bộ đồ ngủ, cả ngày ngồi trong phòng khách lơ đãng xem ti vi. Bộ râu trắng lởm chởm không cạo, gỉ mắt không lau, không còn nghiêm túc nghĩ ngợi về chuyện gì nữa, và lưng nhanh chóng còng xuống.
Có những đêm tôi lạnh toát sống lưng, không ngủ được khi nghĩ tới tương lai đó.
Tôi rất cần một chốn dung thân gọi là “công ty”.
Nếu không được ở Tokyo thì xuống Osaka cũng được. Xuống đó rồi kết bạn với những người bạn mới là được. Tôi tự nhủ như vậy sẽ khiến tôi hứng khởi hơn, giúp chậm lại quá trình lão hóa hơn.
Vì thế, dù bị đám quản lý cấp cao xung quanh coi thường nghĩ “đúng là một ông già lẩm cẩm không hiểu được ý người khác”, tôi vẫn quyết định xuống Osaka.
Khoảng thời gian từ lúc đó cho tới khi tôi thực hiện lệnh chuyển việc chỉ có chưa đầy một tháng. Trong một tháng đó tôi cập rập xử lý nốt chỗ công việc còn lại, chuẩn bị chuyển nhà và bàn giao công việc chi tiết. Tôi xin nghỉ phép vào ngày sinh nhật bà Etsuko và ngày hôm sau đó, tới mũi đá để mừng sinh nhật bà Etsuko, tặng cho bà mảnh đất trên mặt trăng, mà không, thực ra là tới để nói lời từ biệt.
Quang cảnh vịnh Tokyo nhỏ dần đi, bóng dáng những chú mòng biển đầu đen bay lượn trên đầu cũng không còn. Vận tốc của phà càng nhanh hơn, cơn gió lạnh thổi lướt qua mặt boong rộng màu xanh lá. Cơn gió biển mùa đông khô căng, gió không mang theo mùi của biển.
Con phà này là một con phà đường dài đi thẳng tới Tokushima, giữa đường không rẽ vào vịnh nào nghỉ tạm. Ngày mai, sau khi xuống phà ở Tokushima, tôi định sẽ tự lái chiếc xe yêu của mình, đi theo đường cao tốc Kobe-Awaji-Naruto để về căn hộ mới của tôi ở Osaka. Thực ra nếu chạy xe một mạch từ Tokyo xuống Osaka thì chi phí rẻ hơn, thời gian tới nơi cũng sớm hơn nhiều. Nhưng tôi đã chọn đi trên con phà này để rời khỏi Tokyo.
❀ ❀ ❀Boong phà màu xanh lá rộng rãi được phần thành ba tầng. Tôi leo bậc thang và thang gỗ để lên tới sàn trên cùng. Vừa tựa nửa thân trên vào tay vịn phía bên trái, tôi vừa lơ đãng nhìn cảnh vật chậm rãi trôi qua trước mắt.
Trời nắng ráo, nhưng cơn gió biển sắc lạnh giữa đông thổi tới như muốn cắt lìa hai bên vành tai tôi. Tôi quấn lại chiếc khăn lông cừu, dùng hai tay bịt vào tai để làm tai ấm lên.
Không lâu sau, tôi nhìn thấy bãi câu quen thuộc của mình phía xa xa.
Ra tới quãng này, mùi hương của biển đã hòa trộn rất đượm trong gió.
Tôi liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Khung giờ hiện tại hoàn toàn khớp với dự định của tôi. Tôi lấy điện thoại di động trong túi chiếc áo khoác ngắn, gõ chữ “E” trong hộp tìm kiếm trong danh bạ điện thoại.
Tôi hít vào một hơi thật sâu. Sau đó, tôi nhấn nút gọi đi với tâm trạng gần như cầu khấn.
“A lô, ông Tani đó à?” Giọng nói rất đỗi thân thương ấy vang lên từ đầu bên kia ngay trong lẩn gọi đầu tiên.
Tôi bất giác nuốt nước bọt.
“Chào bà. Tôi sắp đi qua trước mũi đá rồi này.”
“Ừ. Tôi nhìn thấy con phà của ông rồi.”
Tôi lướt ánh mắt lên phần phía trên của bãi câu quen thuộc của mình.
Vách đá nơi có một mỏm đá trồi ra… Trên đó hiện lên một ngôi nhà nhỏ trơ trọi sơn màu xanh da trời. Có bóng hai người - mà nhìn từ chỗ tôi thấy bé như hai hạt gạo - đang đứng cạnh nhau ngoài hiên ngôi nhà ấy. Một người nhỏ bé, một người cao lớn.
Là bà Etsuko và Kouji. Hai người đang vẫy tay với tôi. Tôi cũng đưa tay lên vẫy lại.
“Kouji…”
Tôi nghe thấy tiếng bà Etsuko nói nho nhỏ như thì thầm, ngay sau đó bóng người to lớn biến mất.
“Ủa, Kouji đi đâu thế bà?”
“Tôi vừa nhờ Kouji một việc quan trọng. Ông chờ chút nhé.”
“Một việc… quan trọng ư?” Tôi nhắc lại lời bà, vừa dứt lời thì một bản ballad ngọt ngào chợt truyền tới tai tôi.
“Ông nghe thấy không?”
“Có…” Tôi ép chặt chiếc điện thoại vào tai. “Tôi có nghe thấy.”
Đó là bài “Love me tender” do Elvis Presley hát. Ngoài hiên tiệm cà phê Mũi Đá có gắn loa. Kouji vừa vào trong tiệm bật máy nghe đĩa để đưa tiếng nhạc ra ngoài hiên.
“May quá! Hôm nay gió mạnh, tôi hồi hộp lắm, cứ lo ông không nghe được tiếng nhạc.”
“… Ừ.”
Từng này tuổi rồi mà tôi vẫn bị nghẹn giọng bởi cơn xúc động trào lên bên trong mình.
“À phải rồi. Khi nãy Kouji đã mang bộ kính viễn vọng ông tặng tôi bữa trước ra dựng ngoài hiên tiệm, giờ tôi đang dùng nó để ngắm phà này. Nhìn rõ lắm, thấy rõ cả khuôn mặt của ông nữa. Nhưng phà đi nhanh quá, chỉnh lại ống ngắm liên tục thật là mệt. Cứ hơi yên tâm một chút là ông lại ra khỏi tầm mắt.”
Kouji nhanh trí thật. Đúng là nếu hạ độ phóng đại của thị kính thì khoảng cách từ con phà tới mũi đá sẽ là vừa đẹp để quan sát bằng bộ kính viễn vọng ấy.
“Kouji đâu rồi bà?”
“Nó bảo không muốn làm kỳ đà cản mũi nên sẽ ở trong tiệm.”
“Ơ, sao lại vậy?”
“Nó bảo muốn để hai chúng ta nói chuyện tạm biệt nhau. Thằng bé bày đặt thật đấy.” Ánh mắt lém lỉnh của bà Etsuko như hiện ra trước mắt tôi.
“Mà này, sao mặt ông nhăn nhó vậy, trên biển lạnh lắm à ông?”
“Ừ… Lạnh lắm.” Câu nói vừa rồi có một nửa là nói dối. Trời rất lạnh, nhưng lý do khiến tôi chau mặt là vì tôi đang cố kìm nén nước mắt.
“Ôi, thật là…”
“Sao thế bà?”
“Phà đi xa quá rồi. Thế này thì chẳng đủ thời gian để mà lưu luyến nữa.”
“Để tôi đi ra lệnh cho thuyền trưởng dừng phà lại nhé.”
“Ông sẽ làm thế thật chứ?” Bà Etsuko cười khúc khích. Sau đó bà rời mắt khỏi kính viễn vọng, đứng thẳng lên vẫy tay về phía tôi.
Lúc này bà chỉ bé như một hạt gạo to to một chút. Tôi cũng vẫy tay đáp lại bà.
Trong lời bài hát “Love me tender” có một đoạn chất chứa tâm tình của tôi trong suốt mười lăm năm qua.
Love me tender, love me long, take me to your heart. For it’s there that I belong, and we’ll never part.
Xin yêu anh dịu dàng, xin yêu anh thật lâu, dẫn lối cho anh bước vào trái tim em.
Bởi đó là nơi anh thuộc về, và ta sẽ không bao giờ xa nhau.
Thật tình cờ, đoạn nhạc ấy lại vang lên đúng lúc này. Tôi áp chiếc điện thoại vào tai chặt tới mức vành tai lạnh buốt trở nên đau đớn để nghe bài hát ấ