Chương 6 MÙA HẠ Bài ca của gió và sóng ở mũi đá
Đã quá bốn giờ chiều, nhưng hơi nóng từ đám cỏ mùa hè che phủ mũi đá vẫn bốc lên ngùn ngụt. Mặt trời mùa hè với ánh sáng chói chang như thể không bao giờ chịu dịu bớt. Tiếng sóng biển êm dịu rất xa phía bên dưới vách đá trườn lên, từ ngọn núi phía sau lưng, tiếng kêu của ngàn vạn con ve cũng đổ úp xuống.
Trán tôi nổi lên những giọt mồ hôi lớn. Tôi lấy khăn tay lau chúng đi, rồi thở phù trước cửa tiệm không có ai bên trong.
Từ khi còn trẻ tôi đã rất thích những ngày nắng chói, nhưng khi trời nắng nóng gay gắt nhiều ngày liền thế này, cơ thể già nua của tôi không thể chịu nổi.
Tôi chào chú chó Kotarou ngoài hiên “Bà về rồi đây”, rồi mở cánh cửa treo tấm biển để “Hôm nay cửa hàng đóng cửa”. Trong khoảnh khắc, hơi nóng hầm hập bên trong tiệm như đẩy lùi tôi về phía sau, nhưng tôi vẫn ráng bước vào trong tiệm, cởi giày rồi đi vào căn phòng sâu tít trong cùng.
Tôi khát khô họng, nhưng vì không còn sức để pha cà phê đá nữa nên đành uống chai trà lúa mạch trong tủ lạnh. Tôi mở cửa sổ ra, bấm nút “gió nhẹ” trên chiếc quạt điện. Đoạn tôi ngồi xuống sàn. Tôi lấy chiếc đệm ngói gập làm đôi làm gối, rồi nằm lăn ra trên chiếc chiếu cũ.
Lòng tôi thầm than vãn.
Mấy năm gần đây, tôi rất dễ bị mệt mỏi. Trước đây tiệm cà phê của tôi mở cửa quanh năm không cần nghỉ ngày nào, nhưng giờ đây một tuần phải nghỉ hai ngày. Tôi chọn thứ Ba và thứ Sáu làm ngày nghỉ cố định. Nếu không làm thế, cơ thể tôi sẽ không thể hồi phục sau những ngày làm việc mệt mỏi.
Gió thổi từ cửa sổ này xuyên qua cửa sổ kia, những tờ lịch in tranh phong cảnh treo trên tường bay lật phật. Cơn gió mang theo mùi của biển nồng đậm. Chiếc chuông gió treo ở cửa sổ phía bắc khẽ vang lên “rinh, rinh” mấy tiếng.
Chiếc chuông gió này là quà kỷ niệm do chồng tôi tặng trước khi cưới ít lâu. Hình thù của nó hơi khác biệt so với những chiếc chuông gió khác. Phần quả chuông lẽ ra phải tròn trịa nhưng ở chuông gió này lại có năm hòn núi mọc trên đó. Thế nên chiếc chuông nhìn khá dễ thương, giống như một bông hoa cát cánh, hoặc một bông hoa chuông bị treo chúc đầu xuống đất vậy.
Vừa lắng tai nghe tiếng chuông gió trong vắt, tôi vừa khẽ nhắm mắt lại. Nếu suôn sẻ, tôi sẽ ngủ tạm được một giấc ngắn.
Cơn gió nhẹ từ chiếc quạt điện mềm mại và dễ chịu như tơ lụa.
Khi hơi thở của tôi đều hơn, tôi có cảm giác cơn mệt nhọc của mình cũng sẽ chậm rãi tan ra và ngấm vào chiếc chiếu.
Hôm nay là ngày giỗ chồng tôi.
Thế nên tôi đi thăm mộ từ sáng. Tôi đi bộ, lên xe buýt và đổi qua ba chuyến tàu điện, riêng một chiều đã mất khoảng ba tiếng rưỡi đồng hồ, quả là một chuyến đi dài. Lúc tới được mộ, nhiệt độ ngoài trời đã hơn ba mươi độ, nhưng tôi vẫn cần mẫn lau dọn ngôi mộ. Tôi lấy gáo tưới nước lên bia mộ, từ ngôi mộ nóng ran, một làn hơi nước mỏng bốc lên.
Khi mộ đã sạch sẽ tinh tươm, tôi bắt đầu nhổ cỏ và quét dọn xung quanh, dọn xong tôi cắm hoa và thắp hương.
Giữa tiếng ve râm ran dễ khiến người ta hoa mắt chóng mặt, tôi quay về phía bia đá đã khô được một nửa, nhắm mắt lại. Hai tay tôi chắp lại, tôi bắt đầu trò chuyện trong lòng với người chồng không nhìn thấy của mình.
“Mình à, đến khi nào mình mới cho tôi thấy?” Đương nhiên chồng tôi không trả lời.
Chiếc chuông gió nơi cửa sổ đang vang lên những tiếng “rinh, rinh” như để thay cho câu trả lời ấy. Đầu óc tôi mê mê tỉnh tỉnh, bắt đầu tới lui giữa hiện thực và quá khứ xa xưa.
❀ ❀ ❀Chồng tôi là một họa sĩ không được nổi tiếng cho lắm.
Có lẽ vì sinh trưởng cạnh bờ biển của bán đảo Miura nên ông ấy thích việc vừa nghe sóng vỗ vừa vẽ tranh hơn bất kỳ việc gì trên đời. Hồi đó tôi là một nghệ sĩ piano, vì không dư dả nên tôi chẳng mấy khi đi du lịch vẽ cảnh cùng chồng, chắc nhiều lắm là năm lần. Tôi luôn dài cổ đợi chồng về sau mỗi chuyến đi, khi ông ấy về nhà, tôi rất thích vừa ngắm tranh ông ấy vẽ vừa tưởng tượng xem ông ấy đã đi tới những chỗ như thế nào. Và rồi, nếu có thêm lời giải thích chân thực của ông ấy cho những mường tượng của tôi, thì giống như tâm trạng tôi được mọc thêm cánh, giống như tôi có thể lập tức lên đường bay về phương xa vậy.
Chồng tôi vốn là người êm dịu hiền hòa, nhưng khi vẽ tranh ông ấy càng hiền hòa hơn. Ông ấy thường dịu dàng cười bảo, nếu ông ấy tô màu tranh khi nghe tiếng đàn piano của tôi, thì bức tranh thành quả sẽ mang tới cảm giác trong vắt rất kỳ diệu.
Thời điểm chúng tôi biết ông ấy có một khối u trong cột sống cổ là khi ông ấy vừa tròn ba mươi tuổi. Lúc phát hiện ra, khối u đã xâm lấn vào sâu tới mức không thể phẫu thuật được. Không lâu sau từ phần cổ tay tới các ngón tay trên bàn tay phải của chồng tôi dần không cử động được nữa.
Không vẽ tranh bằng tay thuận được, chồng tôi liền chuyển cọ vẽ sang tay bên trái để vẽ tiếp.
Ông ấy không thể vẽ được những tác phẩm với những nét vẽ tinh tế như trước đây, nhưng thay vào đó, ông ấy bắt đầu vẽ những bức tranh có phong vị đặc biệt, nơi mỗi một nét cọ đều chất chứa những cảm xúc nồng nhiệt của ông ấy.
Nhưng có vẻ ông ấy không thỏa mãn với những bức tranh đó. Ông ấy chưa từng gửi bức tranh vẽ bằng tay trái nào của mình đi triển lãm. Bức tranh chồng tôi muốn vẽ không phải một bức tranh khiến người xem choáng ngợp, mà là một tác phẩm thấm sâu vào lòng người, như một giọt nước rơi xuống và tan biến trên bãi cát khô.
Cuối cùng, chồng tôi ra đi ở tuổi ba mươi hai.
Tác phẩm cuối cùng ông vẽ với bàn tay phải còn khỏe mạnh đang được tôi trưng trong tiệm. Chính là bức tranh vẽ hình mặt biển nhuộm màu hoàng hôn với chiếc cầu vồng bắc ngang qua.
Một ngày trước ngày chồng tôi vĩnh viễn nhắm mắt, tôi nắm lấy bàn tay gầy trơ xương, không còn cử động được của ông ấy trên chiếc giường trong bệnh viện. Lúc đó, mắt vẫn nhìn trần nhà, chồng tôi bắt đầu kể cho tôi nghe với giọng khàn khàn.
“Lúc anh vẽ bức tranh cầu vồng đó… tiếng sóng biển rì rào hòa lẫn với tiếng gió từ biển thổi vào, giống như anh đang nghe một bản piano vậy. Tiếng những con mòng biển từ trên bẩu trời nhuộm màu cam rớt xuống, hài hòa như một giai điệu âm nhạc.”
“Vâng…”
“Bầu trời, mặt biển, và mọi thứ quanh anh đều nhuộm một màu sắc ấm áp trong suốt… Tựa như cảnh trong mơ. Và rồi một chiếc cầu vồng hiện ra trước mắt anh… Chiếc cầu vồng đó thực sự rất đẹp.”
Ánh mắt chồng tôi xa xăm, giống như ông ấy đang nhìn xuyên qua trần phòng bệnh trắng muốt. Một giọt nước mắt rơi khỏi khóe mắt ông ấy. Giọt nước mắt rơi thẳng xuống vành tai.
“Anh rất muốn cho em thấy chiếc cầu vồng đó… Mà không, lúc đó anh rất muốn được cùng em ngắm chiếc cầu vồng đó…”
“Vâng… Một ngày nào đó, chúng ta hãy cùng ngắm nó anh nhé…”
Tôi cười nói, nhưng trên má tôi dòng nước mắt cũng tuôn rơi. Tới giờ tôi vẫn không thể quên cảm giác và hơi ấm từ bàn tay phải gầy như que củi khô của chồng tôi, bàn tay mà tôi đã dùng cả hai tay mình để nắm lấy.
Sau khi chồng mat, tôi bán mảnh đất, ngôi nhà trong thành phố và cây piano đi để chuyển tới sống ở mũi đá này. Tôi may mắn bán được nhà trong thời kỳ giá nhà tăng cao, nên chỉ cần không tiêu xài hoang phí, tôi sẽ lo được chi phí sinh hoạt cho mình với doanh thu khiêm tốn của tiệm cà phê.
Tôi làm cửa sổ tiệm thật lớn để có thể ngắm được khung cảnh giống như khung cảnh chồng tôi vẽ trên tranh bất cứ lúc nào. Và rồi, mỗi hoàng hôn khi bầu trời nhuộm màu cam, tôi sẽ chỉ ngắm cảnh sắc ngoài cửa sổ mà không làm gì khác.
Sau vài tháng, tôi đã quen dần với nỗi bất an khi sống ở đỉnh đầu mũi đá cô liêu tịch mịch này. Tuy vậy nhưng thỉnh thoảng tôi cũng cô đơn vô cùng, tới mức chỉ muốn gục vào vai ai đó để khóc. Sống ở mũi đá này, tôi dần nhận ra con người chẳng phải sinh vật mạnh mẽ gì cho lắm.
Từ khi còn lại một mình, đáy lòng tôi luôn bị phủ kín bởi “bóng tối” không thể nắm bắt được. Bóng tối không dày không mỏng, cũng không có hơi ấm. Nó không phải một thứ vật chất thực, nên tôi không tìm được cách nào để tách nó ra khỏi mình. Tôi tự cổ vũ bản thân rằng mọi việc vui hay buồn đều do cách nghĩ của mỗi người, nhưng tự tôi hiểu rõ đó chỉ là một lời nói dối.
Và rồi, chú chó Kotarou đã trở thành một tia sáng rọi vào giữa bóng tối mênh mông trong trái tim tôi khi ấy.
Tôi gặp Kotarou lẩn đầu cách đây mười lăm năm.
Một buổi chiều muộn trời mưa, trên đường đi mua đồ về, tôi nhìn thấy một chú chó trắng nằm im không nhúc nhích bên vệ đường quốc lộ. Chú chó có vẻ bị xe cán qua, người đẫm nước mưa xuân ấm áp, cơ thể chú nhuộm đầy dòng máu đỏ sậm. Mắt chú chó nhắm hờ, hơi thở yếu ớt, nhưng tôi vẫn nhanh chóng lấy chăn lông cuốn chú lại, bế chú lên, chạy giữa trời mưa gió mang chú tới bệnh viện. Chú chó may mắn được cứu sống. Nhưng thay cho mạng sống của mình, chú bị cắt mất một nửa cẳng chân trước bên phải.
Người chồng tôi đã ra đi sau khi cánh tay phải không còn cử động được, và chú chó trắng vẫn giữ lại được mạng sống tuy đánh mất nửa cẳng chân trước. Tôi không cứu được chồng, nhưng đã cứu được chú chó này. Tôi biết sự so sánh đó chẳng có ý nghĩa gì, nhưng tôi vẫn quyết định sống cùng chú chó.
Tôi đặt tên chú chó là Kotarou. Tên này được đặt theo tên người chồng quá cố của tôi, Koutarou.
❀ ❀ ❀“Bà ơi, cháu dắt Kotarou đi dạo được không?”
“Được không bà?”
Nghe thấy tiếng trẻ con lanh lảnh, tôi choàng tỉnh dậy. Tiếng nói có vẻ phát ra từ phía cửa hàng.
Là hai con gái của Kouji.
Tôi vừa đáp “Được, được” vừa chầm chậm ngồi dậy. Đồng hồ chỉ năm giờ kém. Tôi vừa ngủ được khoảng ba mươi phút.
Cảm giác giống như tôi mới chỉ chợp mắt vài phút, mà cũng giống như tôi vừa ngủ một giấc thật sâu, thật kỳ lạ. Nhưng đầu óc tôi đã tỉnh táo hơn hẳn, cảm giác mệt mỏi lúc mới nằm xuống cũng giảm đi một nửa, nên có thể nói giấc ngủ trưa vừa rồi có chất lượng khá tốt.
Tôi bước ra gian tiệm, thấy Mari và Miho đang đứng trước cửa vào. Hai cô bé đều có làn da rám nắng như các cô bé ở miền biển vào kỳ nghỉ hè, mái tóc đuôi gà buộc chặt thật dễ thương. Những cánh tay, cẳng chân lộ ra khỏi áo thun và quần ngắn của lũ trẻ tràn đầy sức sống, chân chúng xỏ đôi xăng đan đi biển giống nhau do tôi mua tặng.
Vừa nhìn thấy tôi, Mari - là cô chị, hiện học lớp Ba - liền hỏi: “Bà ơi, bà vừa ngủ dậy à?”
“Ừ, bà ngủ trưa một chút.” Tôi đáp, vẫy vẫy hai chị em. “Kem chuối bà làm được rồi đấy, hai cháu có muốn ăn trước khi đi không?”
“Ôi, tuyệt quá!” Cô bé vừa reo lên sung sướng là Miho, mùa xuân năm nay cô bé vừa vào mẫu giáo.
Hai chị em nhỏ bé ngồi lọt thỏm trên hai chiếc ghế đối diện nhau trong cửa hàng, bắt đầu ăn kem chuối đựng trên chiếc đĩa thủy tinh.
“Ngon quá chị nhỉ?”
“Ừ. Kìa Miho, em phải để ý để không làm rớt kem ra ngoài khi ăn chứ.”
Mari lớn hơn em năm tuổi, cô bé là một bé gái chững chạc, luôn làm tròn vai trò một người mẹ nhỏ đối với em gái.
Từ ô cửa sổ lớn của cửa hàng, những tia nắng trắng ngay trước hoàng hôn rọi vào bên trong. Giữa ánh sáng vuông vức ấy có bóng của hai chị em gái đáng yêu.
Cảm nhận một ân huệ sâu sắc, tôi nhắm hờ mắt.
Tôi không có con cái, maỵ nhờ những đứa trẻ tựa như cháu ruột này nên năm tháng tuổi già của tôi trở nên nhiều màu sắc hơn hẳn. Tôi phải cảm ơn Kouji rồi - một lần nữa tôi thầm nghĩ thế.
Cửa hàng Kouji tự tay dựng lên sau bao năm ròng rã tiếc là không được đông khách, chưa đầy hai năm đã phải đóng cửa. Giờ Kouji cùng cô vợ xinh đẹp và hai con gái sống hạnh phúc cùng nhau trên tầng hai của cửa hàng. Gian hàng ở tầng một đôi khi được Kouji cho thuê làm hội trường trình diễn nhạc sống, thỉnh thoảng cậu cũng rủ bạn bè tới tiệc tùng ở đó. Kouji quay lại với công việc thợ sơn nhà trước đây, cuộc sống của cậu đã hoàn toàn ổn định.
“Bà ơi.” Tay cầm chiếc thìa bạc, Mari quay sang phía tôi. Phần tóc đuôi gà của cô bé khẽ đung đưa.
“Gì vậy cháu?”
“Tối qua cháu đã ngắm trăng bằng kính viễn vọng. Cháu định lấy nó làm đề tài nghiên cứu tự do trong kỳ nghỉ hè này. Thế rồi bố cháu bảo ‘Chỗ này là đất của bà Etsuko’ bà ạ.”
Tôi cười khúc khích.
“Ừ. Bà có đất trên mặt trăng đấy. Khi hai cháu lớn lên và có thể đi du hành vũ trụ, các cháu có thể tự do sử dụng mảnh đất ấy theo ý muốn của mình.”
“Ôi! Chị ơi, nếu lên được mặt trăng chị sẽ làm gì?”
“Để chị nghĩ xem nào… Ừm, hay là mình mở một cửa hàng giống của bà nhé?”
“Dạ! Mình làm cả món kem chuối nữa nha chị!”
“Ừ. Bà ơi, bà dạy chúng cháu cách làm kem được không ạ?”
“Đương nhiên rồi.”
“Bà giỏi quá. Bà có cả đất trên mặt trăng.”
Mari nhìn ra bên ngoài cửa sổ, ánh mắt xa xăm. Thấy vậy Miho cũng nhìn về hướng đó. Tôi bất giác mỉm cười trước cử chỉ dễ thương của hai bé, trong đầu tôi chợt vang lên ca khúc “Love me tender.” Đồng thời, lồng ngực tôi chợt nghẹn lại.
Tôi nhận được tin buồn về ông Tani vào mùa đông hai năm trước. Khi một khách quen của tiệm tới báo cho tôi thì đã quá bốn chín ngày từ lâu. Ông Tani đã lên phà đi về vùng Kansai, sau khi về hưu ông vẫn sống một mình ở đó, cuối cùng ông đã mất ở căn hộ chung cư của mình, không một người hay biết.
Tôi chưa từng nghĩ một người mạnh khỏe như ông ấy sẽ ra đi trước mình. Nghĩ tới chuyện ông lão vui tươi tốt bụng đó phải chết trong cô độc, lòng tôi liền nghẹn lại, tôi không thể kìm nổi nước mắt trước mặt người khách quen đến báo tin.
Giá mà tối hôm đó, buổi tối sinh nhật khi ông Tani tặng mảnh đất trên mặt trăng cho tôi, tôi đừng giả vờ không nhận ra tình cảm của ông Tani mà gửi gắm hết sự yếu đuối của mình nơi ông ấy, thì giờ mọi chuyện sẽ thế nào? Thực lòng, tôi đã nghĩ tới cảnh tượng không thể xảy ra trong thực tế ấy không chỉ một, hai lần. Thế nhưng lúc đó trong lòng tôi có một dự cảm vô cùng mạnh mẽ. Nếu tôi đáp lại tình cảm của ông Tani, chắc chắn cả đời này tôi sẽ không được thấy chiếc cầu vồng đó. Ý nghĩ ấy lan rộng mãi ra trong đầu tôi, khiến tôi không thể đáp lại tình cảm ấy được.
Tôi nhìn bức tranh treo trên tường.
“Bóng tối” trong trái tim tôi được ánh sáng từ cầu vồng chiếu sáng, tôi cảm thấy cõi lòng mình đã sáng lên một chút.
Bức tranh đó là xiềng xích, cũng là thứ cứu rỗi cho cuộc đời tôi.
“Cháu cảm ơn bà vì món kem ạ!” Giọng nói hồn nhiên của Miho đưa tôi về với hiện thực.
“Cháu cũng cảm ơn bà ạ. Giờ cháu dắt Kotarou đi dạo bà nhé.”
Hai chị em nhanh nhẹn tuột xuống khỏi chiếc ghế.
“Cảm ơn các cháu. Nhưng Kotarou cũng già rồi, các cháu đừng bắt nó chạy nhiều quá nhé.”
“Dạ vâng ạ.”
“Vâng.”
Hai cô bé đồng thanh đáp, lúc lắc chùm tóc đuôi gà của mình.
Ra khỏi cửa hàng, hai cô bé lập tức chạy về góc hiên nơi có ngôi nhà nhỏ của Kotarou. Mari cầm lấy sợi dây dắt màu đỏ bằng tay phải, tay trái nắm tay Miho. Rồi hai cô bé đi bộ trên bãi cỏ mênh mông, tiến về phía nam của mũi đá. Kotarou vẫy đuôi với vẻ sung sướng, đi theo hai chị em.
Ánh sáng hoàng hôn nhuộm trong màu cam nhạt bao bọc lấy bóng lưng hai cô bé và chú chó đang đi xa dần. Không gian bên ngoài không biết tự khi nào đã tràn ngập bài ca ai oán của những chú ve sầu.
Tôi đứng bên cửa sổ, nhìn hút theo bóng lưng giống như trong một cảnh phim điện ảnh của lũ trẻ. Đột nhiên hai cô bé ngoảnh lại phía tôi, giơ tay lên vẫy vẫy. Tôi cũng đưa tay lên cạnh má, khẽ vẫy vẫy đáp lại.
Hai chị em lại nắm tay nhau bước đi.
Bóng lưng bé nhỏ của hai đứa bé đang hăng hái tiến về phía trước khiến tôi liên tưởng tới tôi và em gái Shouko ngày bé. Tôi thở dài. Mỗi lần nghĩ tới Shouko, tôi đều thở dài như vậy.
Khoảng ba mươi phút nữa, bầu trời hoàng hôn mùa hạ sẽ nhuộm đầy sắc cam trong suốt. Nhưng hôm nay không có mây đen ở phía trời tây nên chắc sẽ không có mưa.
Sau khi bóng dáng của hai đứa bé và Kotarou khuất hẳn, tôi đem những chiếc đĩa thủy tinh hai bé vừa dùng vào bếp để rửa. Vừa rửa, tôi vừa nghĩ hay mình đem dao ra mài, nhưng rồi tôi bỏ cuộc. Bởi tôi không còn mấy sức nữa.
Tôi quay lại phòng mình, nằm ra sàn. Cảm thấy cơ thể già yếu, chỉ mang kem cho hai đứa bé thôi cũng thấy mệt của tôi thật đáng thương.
Khúc ca ai oán của lũ ve sầu tràn vào phòng qua ô cửa sổ mở rộng, gợi lên cảm giác cô liêu của một buổi hoàng hôn mùa hạ. Chiếc chuông gió cũng vang lên “rinh, rinh”.
Có lẽ đã tới lúc kết thúc rồi…
Tôi định cất tiếng thầm thì điều đó, nhưng rồi nín lại. Bởi tôi có cảm giác nếu nói ra thành lời, tôi sẽ thực sự phải dẹp bỏ tiệm cà phê này mất.
Thay vì thế, tôi chỉ lẩm nhẩm nói “Thật là…”, chiếc chuông gió lại “rinh” lên một tiếng.
❀ ❀ ❀Hai ngày sau, khu mũi đá bị bao bọc bởi một bầu trời đáng sợ.
Những đám mây đen dưới thấp di chuyển với tốc độ khủng khiếp trên đầu. Những con sóng hung dữ từ biển xa liên tiếp xô tới, gầm lên những tiếng nạt nộ như tiếng sấm sét, bám lấy vách đá của mũi đá không rời. Cơn gió quật vùi cây cỏ mang theo lượng hơi ẩm lớn, ấm nóng đến mức ghê người.
Bão đang từ biển phía nam tràn tới.
Buổi chiều, để phòng bị trước cơn bão, tôi đóng cửa hàng sớm, cất những chậu cây, những chiếc ghế gấp nhẹ ngoài hiên và dắt con Kotarou vào trong tiệm. Tôi cũng đóng kín cửa chớp của phòng ngủ và phòng sinh hoạt.
Mặt trời lặn, bóng tối ập xuống, mưa bắt đầu rơi và gió bắt đầu gào thét.
Ngọn núi có cánh rừng thông phía sau nhà khóc lóc sầu bi, phía cửa sổ kính không có cửa chớp kêu cành cạch như bị cánh tay mạnh mẽ của ai đó liên tiếp đập vào. Tiệm cà phê vừa vang lên những tiếng kẽo kẹt vừa rung rung, thỉnh thoảng từ mái nhà của tiệm phía gần biển cũng phát ra những tiếng động lớn.
Tôi ngồi xuống chiếc bàn trà thấp trong phòng sinh hoạt, lắng nghe kênh FM từ chiếc đài nhỏ đặt trên giá. Bởi tôi nghĩ giọng nói cười vui vẻ của đôi nam nữ trẻ dẫn chương trình sẽ giúp tôi quên đi phần nào nỗi bất an vào một đêm mưa bão như thế này.
Khi chương trình chuyển sang tiết mục quảng cáo, đột nhiên chiếc điện thoại màu đen trong tiệm reo vang. Tôi chầm chậm đứng dậy cầm lấy ống nghe, liền nghe thấy một giọng nam trầm ấm.
“Bác ơi, bác không sao chứ?”
Là Kouji. Nghĩ tới đứa cháu khỏe mạnh to lớn đang ở ngay nhà bên cạnh, tôi cảm thấy mỗi lúc một yên tâm hơn.
“Bác có phải trẻ con đâu, bác không sao cả.”
“Nhưng từ giờ bão sẽ càng mạnh hơn đấy, hay là bác sang nhà cháu nhé?”
“Ha ha ha, bác đã bảo không sao mà.”
“Thế ạ… Nhưng mà gió bão mạnh thật đấy.”
“Ừ. Đêm nay có vẻ bão đổ bộ trực tiếp rồi.”
Kotarou đi tới quấn vào chân tôi. Nơi này vẫn có một sinh vật ở bên tôi khi tôi bất an. Tôi vuốt ve quanh phẩn cổ đeo chiếc vòng màu đỏ của nó.
“Nếu có chuyện gì thì bác gọi cho cháu ngay nhé.”
“Cảm ơn cháu. Kouji thực là một cậu bé dịu dàng…”
“Này này, cháu đã là một ông chú trung niên rồi đấy nhé.” Kouji cười cười, có vẻ ngượng.
Cảm thấy hoài niệm trước câu nói phát ra từ chính miệng mình, tôi chợt cảm thấy buồn. Bởi tôi nhớ ra hồi Kouji còn là một thanh niên ngổ ngáo, tôi rất hay nói ra miệng câu đó.
“Dù cháu có trở thành một người đàn ông trung niên thì với bác cháu vẫn là một đứa bé thôi.”
“Xin lỗi bác vì cháu không thể là đứa bé dễ thương như Mari và Miho được.”
“Đúng là bố mẹ nào cũng thấy con mình lanh lợi dễ thương nhỉ? Thôi không sao. Kiếp sau nhớ đầu thai thành một đứa trẻ đáng yêu đấy.”
“Cháu sẽ cố gắng hết sức.” Kouji cười lớn, tôi cố gắng nói với giọng thật tươi tỉnh “Cảm ơn cháu đã gọi cho bác nhé” rồi đặt ống nghe xuống.
Chiếc điện thoại bàn đen bóng kêu “ting” một tiếng. Đúng lúc ấy, cơn gió mạnh quật tới, cánh cửa sổ kính lại vang lên những tiếng lạch cạch lớn.
“Đúng là đáng sợ thật…”
Tôi thì thầm, ôm lấy cổ con Kotarou.
❀ ❀ ❀Càng về đêm, gió càng thốc tới hung dữ hơn.
Trần nhà và các bức tường phát ra tiếng kẽo kẹt, ngay cả chiếc tủ chè trong phòng sinh hoạt cũng rung lắc. Mái nhà phía gần biển như thể sắp rời ra, nó đã cất tiếng “rắc, rắc” đầy nghi ngại.
Tôi bật ti vi trong phòng sinh hoạt, để mặc các bản tin liên quan tới bão trôi qua, mắt tôi chốc chốc lại nhìn về phía chiếc điện thoại. Nhưng tôi không gọi điện. Không phải tôi đang cố tỏ ra mạnh mẽ hay gì, tôi đơn giản là ngại. Tôi không thấy thoải mái khi khiến gia đình Kouji lo lắng hay làm phiền gia đình họ, chỉ vậy thôi.
Ngày xưa, mỗi khi có bão tôi đều điềm nhiên như không. Nóc nhà bị gió cuốn bay thì cũng có sao, tôi lấy đó làm chuyện cười mua vui cho khách quen tới tiệm là được, thậm chí khi nhà dột, tôi cũng có thể tự nhủ mình “Có ai chết vì bị dột nước mưa vào người đâu.” Khi còn trẻ, nếu gặp một chuyện ở mức độ vừa phải, chỉ cần tôi gồng mình lên một chút thì đâu sẽ vào đó cả. Nhưng giờ thì khác. Những việc tôi không làm được đã tăng lên quá nhiều. Việc sửa lại tiệm vốn nặng nhọc thì thôi không nói tới, nhưng ngay cả việc quét dọn tiệm cũng khiến tôi muốn sụm cả lưng. Gần đây tôi cảm thấy bản thân mình vừa vô dụng vừa thật đáng thương.
Căn nhà lại vang lên tiếng kẽo kẹt vì cơn gió mạnh, chiếc tủ chè cũng rung lắc cành cạch. Rung như khi có động đất. Ngay cả bóng đèn trên trần nhà cũng rung.
Tôi chợt nghĩ ra việc để làm, bèn đứng dậy.
Tôi định đi pha cà phê.
Tôi đứng hướng về phía căn bếp quen thuộc, hít vào một hơi thật sâu. Sau đó tôi đổ khoảng hai cốc nước vào chiếc ấm nhỏ, bật ga lên đun. Trong một số loại hạt cà phê đang có, tôi chọn ra loại cà phê đặc biệt được rang kỹ rồi cho vào máy xay cà phê. Đoạn tôi cẩn thận nắm lấy tay xay, xoay tròn.
Hãy trở nên thật ngon, hãy trở nên thật ngon.
Dưới câu bùa chú của tôi, những hạt cà phê dần được xay nhỏ ra. Âm thanh đều đều, cảm giác khi chạm vào thật dễ chịu. Mùi cà phê thơm ngào ngạt. Để pha được cà phê phải dùng đến cả năm giác quan.
Khi làm công việc đã quen làm hàng chục năm nay, tôi nhận ra tâm trạng mình đang dần điểm tĩnh lại.
Nhưng đúng lúc vừa xay cà phê xong…
“Ôi…”
Đột nhiên cơ thể tôi bị bóng tối bao trùm.
Điện đã bị cắt.
“Gâuuu”, Kotarou cất tiếng sủa buồn rầu.
“Không sao đâu, không sao…” Tôi nói, hướng về bóng đêm nơi phát ra tiếng sủa của Kotarou. Nhưng câu nói ấy nghe cũng giống như một lời trấn an dành cho chính bản thân tôi vậy.
Rầm, rầm, rầm! Khối không khí lại quật vào tường, khiến kính cửa sổ rung lên bần bật. Mái nhà lại phát ra tiếng rắc rắc đáng sợ. Ngay cả ngọn lửa xanh của bếp ga, nguồn sáng duy nhất lúc này, cũng đang rung rinh vì cơn chấn động vừa rồi.
Tôi về phòng sinh hoạt, dùng tay lần tìm chiếc đèn pin. Rồi tôi tạm thời cắm cây nến trên bàn thờ vào chân nến, châm lửa mang vào bếp.
Không có điện vẫn có thể pha cà phê được. Một lúc sau, nước sôi. Nhờ vào ánh sáng từ cây nến, tôi cẩn thận pha cà phê phin.
Hãy trở nên thật ngon, hãy trở nên thật ngon.
Tiếng gầm từ biển như vang vọng tới cả dạ dày. Tiếng kêu khóc của gió từ phía núi. Những ván gỗ trên trần nhà bị gió mạnh làm bật ra. Hãy trở nên thật ngon. Ngọn gió quật vào cửa kính. Chiếc tủ chè rung lên cành cạch. Ngọn lửa trên cây nến lung lay như sắp phụt tắt. Hãy trở nên thật ngon. Tiếng thở có vẻ bất an của Kotarou. Cơn mưa mang theo đất cát đang dội xuống mái nhà…
Câu bùa chú của tôi đã bị vùi dập tan tành.
Nhưng cuối cùng việc pha phin cũng xong, tôi rót cà phê vào chiếc cốc yêu thích có tay cầm bảy sắc cầu vồng rồi ngồi xuống ghế dành cho khách trong tiệm. Tôi đặt nến giữa bàn, đường gắn các mảnh vỡ của cốc phát ra tia lấp lánh, trông thật đẹp.
“Này, Kotarou có nghĩ uống cà phê dưới ánh sáng của một ngọn nến nhỏ trong đêm mưa bão thế này thật là sang chảnh không?” Tôi nói chuyện với Kotarou. Nhưng Kotarou vẫn nằm phủ phục dưới chân tôi, không đáp lại lời nào.
Tôi ngửi hương cà phê mình vừa pha, rồi đặt miệng lên thành cốc. Đúng lúc đó, ánh sáng đèn từ trong bếp rọi ra.
Đã có điện trở lại.
Nhưng tôi đã tắt đèn trong gian tiệm nên không gian quanh chỗ tôi ngồi vẫn tối như cũ. Tôi uống một ngụm cà phê rồi khẽ đặt chiếc cốc yêu thích lên bàn.
“Kotarou à, câu bùa chú không có tác dụng với cốc cà phê này rồi…”
Cánh cửa sổ kính lớn bên cạnh lập tức rung lên cành cạch. Giống như có ai đó đang ở bên ngoài đấm thình thình vào cửa, suy nghĩ ấy làm tôi rùng mình.
Bức tường tiệm rung lên kẽo kẹt, rồi một tiếng “rắc” vang lên, bức tranh cầu vồng hơi dạt xuống dưới về phía bên phải. Có vẻ chiếc đinh ghim cũ của bức tranh vừa bị tuột ra.
Trong bóng tối mờ mờ, tôi lơ đãng ngắm bức tranh đã lệch sang một bên. Tôi có cảm giác bên trong mình cũng vang lên tiếng “rắc” tương tự. Tiếng “rắc” nhỏ bé ấy bình thường không thể nghe thấy, nhưng thực ra, đó là tiếng một trong những sợi thép rất quan trọng cố định trái tim tôi vừa bị bung ra.
Tôi không muốn phải cô đơn nữa…
Từ bên trong tôi, gương mặt yếu đuối, mỏng manh như thiếu nữ của tôi ló đầu nhìn ra.
“Kotarou à.” Tôi nhấp thêm một ngụm cà phê không được ngon lắm ấy. “Cửa hàng này…”
Tôi chậm rãi hít sâu một hơi, vừa nhìn bên trong lòng chiếc cốc đang rung lắc, vừa lẩm nhẩm với giọng rất, rất nhỏ: “Bà có thể đóng cửa hàng này được rồi, phải không?”
Tôi run run nói ra điều đó, nhưng Kotarou vẫn không đáp lại gì cả.
Và rồi, cơn gió tàn bạo lại tới quật liên hồi vào cửa hàng của tôi, khiến ngọn nến lung lay.
Tôi khóc, dù chẳng có ai làm gì mình cả.
❀ ❀ ❀Kotarou hiếm hoi cất tiếng sủa vang. Hơn nữa còn là hai lần liên tiếp.
Tỉnh dậy bởi tiếng sủa ấy, tôi ngẩng mặt khỏi chiếc bàn mà mình gục đầu xuống trước đó, khẽ lẩm nhẩm một mình “Thật là…”
Hôm qua, tôi đã thiếp đi khi đang ngồi ở ghế dành cho khách trong tiệm. Vì lẽ đó mà cổ và vai tôi đều cứng đờ lại. Nhưng dường như cơn bão đã đi qua, buổi sáng êm ả đến mức kỳ lạ.
“Gâu gâu.” Kotarou đứng trước cửa tiệm, cất tiếng gọi tôi.
“Bà đây, bà đây…” Chắc nó muốn đi vệ sinh. Nghĩ vậy, tôi mở cửa tiệm cho nó.
Kotarou đi bằng ba chân khập khiễng, chậm rãi tiến về phía hiên tiệm, ra tới nơi liền dừng lại, ngoảnh đầu lại nhìn tôi. Sau đó nó lại sủa tiếp. Cách gọi này giống hệt cách gọi hàng ngày khi nó hướng dẫn khách đến tiệm cà phê.
“Ủa, chú mày sao thế?” Tôi ra khỏi cửa, đi bộ về phía hiên.
Chú chó cưng đã già của tôi thè lưỡi ra nhìn tôi chăm chú.
Bầu không khí buổi sáng sau khi bão vừa đi qua thoáng đãng tới mức không gì so sánh được.
“Rồi rồi.” Tôi vừa vươn vai thật sảng khoái vừa đi bộ về phía Kotarou.
Kotarou rẽ phải ở góc tiệm rồi bắt đầu leo lên cầu thang nối với hiên. Sau đó, tại vị trí mà tôi không thấy được, nó lại kêu lên ăng ẳng để gọi tôi.
“Rồi, rồi. Bà đang tới đây.”
Vừa nói tôi vừa leo lên cầu thang nối với hiên, đúng lúc đó, tôi nhận ra sự thay đổi cảnh sắc ở phía tây. À không, không chỉ phía tây. Tất cả mọi thứ thuộc về thế giới hiện tại tôi đang sống đều đang chìm trong một màu cam trong suốt.
Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một buổi bình minh thần thánh đến thế.
Kotarou ngồi xuống đoạn giữa hiên tiệm, rồi chăm chú nhìn về phía mặt biển phía tây. Tôi cũng chậm rãi ngồi xuống nền nhà cạnh đó. Với tư thế ngồi thò hai chân ra khỏi sân hiên, tôi ngắm mặt biển lặng sóng như một miếng thạch quýt.
Đẹp quá…
Miệng tôi thầm thì trước cảnh sắc tuyệt mỹ khiến tôi quên cả thở.
Mặt trời mùa hạ mọc lên phía sau mũi đá, tức bầu trời phía đông - ánh mặt trời ấm áp và trong vắt ấy chiếu xuống mặt biển, hơn thế nữa, từ bầu trời màu cam bao trọn lấy mặt biển ấy, đúng vậy, một cơn mưa rào đang rơi xuống.
Mối tương quan vị trí giữa mặt trời,
cơn mưa rào,
và tôi.
Sao tôi lại ngốc nghếch đến vậy. Thứ mà hàng ngày tôi nên tìm kiếm trong suốt mấy chục năm qua không phải là hoàng hôn, mà là bình minh.
“Kotarou ơi, lại đây nào…” Chú chó cưng bên cạnh bèn dụi bên má già cỗi của mình vào lồng ngực tôi.
Tôi khẽ ôm phần cổ đeo vòng đỏ của nó nâng lên. Con chó để yên cho tôi nựng nịu. Tôi áp tai con Kotarou vào sát trái tim mình.
“Nghe này, đây là tiếng đập thình thịch hạnh phúc đấy.”
Kotarou nhắm mắt lại như thể rất dễ chịu.
Tiếng sóng biển xa xa. Tiếng gió thì thầm từ biển thổi lên vách đá. Những tiếng kêu lanh lảnh của bầy mòng biển đen bay trên trời cao vọng xuống.
Lúc này, khoảnh khắc này, tôi không cần tới âm nhạc nữa. Phần nhạc nền đã được mũi đá này, nơi chồng tôi vô cùng yêu quý, cất lên rồi.
Từ đôi mắt sụp mí vì tuổi tác của tôi, dòng nước mắt lã chã rơi xuống thật dễ chịu. Giọt nước mắt hôm nay ấm áp hơn nhiều lần giọt nước mắt rơi giữa gió bão đêm qua. Đứng trước cảnh sắc tựa như trong mơ, khóe miệng tôi cong lên.
“Giờ thì đi chuẩn bị mở tiệm thôi nào.” Tôi khẽ buông cổ Kotarou ra, chậm rãi đứng dậy.
Dang rộng hai tay, tôi hít thật sâu, thật sâu bầu không khí buổi sáng lấp lánh. Một luồng sinh lực kỳ lạ dâng lên đầy khắp cơ thể tôi.
Tôi thở ra một hơi đầy sảng khoái. “Kotarou ạ. Bà có cảm giác mình vẫn dùng được phép thuật. Bà sẽ thử xem sao. Kotarou cứ ngồi đây ngắm thêm chút nữa đi nhé.”
Tôi cột dây cổ của Kotarou vào căn nhà nhỏ của nó.
Và rồi, không nhìn cảnh chiếc cầu vồng dần tan biến, tôi bước vào tiệm cà phê thân thương của mình. Tôi đứng trong căn bếp hơi cũ nhưng quen thuộc với mình bao năm qua.
Tôi bắt đầu xay loại cà phê giống với tối hôm qua, để pha một cốc cà phê cho chính mình - người hôm nay vừa được tái sinh.
Hãy trở nên thật ngon, hãy trở nên thật ngon.
Vừa xay, tôi vừa thầm thì câu bùa chú với nụ cười chứa đầy nước mắt hạnh phúc.