3. XUÂN DẠ YẾN ĐÀO LÍ VIÊN TỰ LÍ BẠCH
Nhiều sách đã chép tiểu sử của Lí Bạch – kĩ nhất là cuốn Đường Thi trích dịch của hai ông Đỗ Bằng Đoàn và Bùi Khánh Đản – dưới đây chúng tôi chỉ xin tóm tắt lại mấy hàng.
Ông sinh năm 701 (năm cuối triều Võ Tắc Thiên) ở Xương Minh đất Thục (có sách chép là Chương Minh cũng đất Thục, lại có sách chép là Sơn Đông, Lũng Tây). Rất thông minh, 10 tuổi đã đọc sách của bách gia chư tử, nhiều người khen là kì tài. Mười lăm tuổi vừa học kiếm thuật, vừa học văn chương. Từ 20 đến 25 tuổi, đi chơi khắp Tứ Xuyên, có chí làm chính trị để giúp nước. Năm 31 tuổi thành gia thất. Vẫn đi du lịch khắp nơi, nổi danh về thơ.
Bốn mươi mốt tuổi, được vua Huyền Tôn vời vào triều, ông có hi vọng thực hiện được hoài bão, nhưng nhà vua chỉ trọng tài văn thơ của ông thôi, chứ không muốn dùng ông trong việc trị nước, kẻ thân cận của nhà vua ghen ghét ông mà tính ông lại khẳng khái, phóng dật, nên ông chỉ ở lại Trường An (kinh đô) có ba năm rồi dưng sớ xin được về nhà.
Rời Trường An ông lại lãng du, kết giao với Đỗ Phủ, Cao Thích.
Năm ông 53 tuổi, có loạn An Lộc Sơn, ông ẩn cư trong núi Lư Sơn. Vĩnh Vương Lân, con thứ mười sáu vua Huyền Tôn vời ông giúp việc nước, ông bất đắc dĩ phải nhận làm mạc phủ tân khách. Sau Lân khởi loạn muốn cướp ngôi vua, thất bại, ông bị bắt và ghép vào tội phản nghịch, may được Quách Tử Nghi xin cho được tha. Năm 762, đời vua Túc Tôn, ông đau rồi mất ở An Huy.
Như vậy, ta thấy sự nghiệp văn chương của ông đã đành là do thiên tài của ông rồi, nhưng cũng là do ông đọc sách rất rộng, du lịch rất nhiều, và do ông có hoài bảo giúp nước mà không được dùng, có tâm hồn khẳng khái, mà suốt đời bất đắc chí.
Ai cũng biết sự nghiệp về thơ của ông mà ít ai biết rằng ông có công với phong trào phục cổ ở đời Đường. Ông nói: “Từ Lương, Trần trở đi, văn diễm lệ mà phù bạc đến cùng cực; Thẩm Ước lại quá chuộng âm thanh. Công việc phục cổ ta không làm thì ai làm?”.
Theo chỗ chúng tôi biết, văn của ông còn truyền lại có hai bài: một bài có giọng biền ngẫu, du dương, có những vế đối nhau, tức bài Xuân dạ yến đào viện tự; một bài tản văn, tức bài Dữ Hàn Kinh Châu thư[1]. Cả hai đều đáng là thượng phẩm cả, chúng tôi xin dịch hết ra ở dưới đây.
NGUYÊN VĂN
春夜宴桃李園序
夫天地者,萬物之逆旅;光陰者,百代之過客;而浮生若夢,爲歡幾何?古人秉燭夜遊,良有以也。況陽春召我以煙景,大塊假我以文章。會桃李之芳園,序天倫之樂事。群季俊秀,皆爲惠連;吾人詠歌,獨慚康樂。幽賞未已,高談轉清。開瓊筵以坐華,飛羽觴而醉月。不有佳作,何伸雅懷?如詩不成,罰依金谷酒數。
PHIÊN ÂM
XUÂN DẠ YẾN ĐÀO LÍ VIÊN TỰ
Phù thiên địa giả, vạn vật chi nghịch lữ; quang âm giả, bách đại chi quá khách; nhi phù sinh nhược mộng, vi hoan kỉ hà? Cổ nhân bỉnh chúc dạ du, lương hữu dĩ dã. Huống dương xuân chiêu[2] ngã dĩ yên cảnh, đại khối giả ngã dĩ văn chương. Hội đào lí chi phương viên, tự thiên luân chi lạc sự. Quần quí tuấn tú, giai vi Huệ Liên; ngô nhân vịnh ca, độc tàm Khang Lạc. U thưởng vị dĩ, cao đàm chuyển thanh. Khai quỳnh diên dĩ toạ hoa, phi vũ thương nhi tuý nguyệt. Bất hữu giai tác, hà thân nhã hoài? Như thi bất thành, phạt y Kim Cốc tửu sổ.
DỊCH NGHĨA
BÀI TỰ “ĐÊM XUÂN UỐNG RƯỢU TRONG VƯỜN ĐÀO MẬN”
Trời đất là quán trọ của vạn vật; quang âm là khách qua đường của trăm đời; mà kiếp phù sinh như mộng, lúc vui được bao? Cổ nhân đốt đuốc đi chơi đêm[4]. Huống chi mùa xuân ấm áp đem mây khói mà mời đón, trời đất mênh mông đem cảnh đẹp mà giúp vui. Họp trong vườn thơm đào mận, bày tiệc vui giữa anh em. Các anh em tuần tự, đều giỏi như Huệ Liên[5]; bọn ta ca vịnh, riêng thẹn với Khang Lạc[6]. Ngắm cảnh chưa chán, xoay ra thanh đàm; mở tiệc dưới hoa, vung chén[7] say với nguyệt. Nếu chẳng có văn hay, sao tả được lòng nhã? Như thơ không thành, phạt theo số rượu ở Kim Cốc[8].
NHẬN ĐỊNH
Lí Bạch có tài vào đề một cách đột ngột, mạnh mẽ và man mác như bốn câu đầu bài Tương Tiến Tửu, và câu đầu bài này. Văn đi một hơi đến “lương hữu dĩ dã”, chỉ hơi ngừng một chút rồi tiếp luôn đến cuối bài một cách nhẹ nhàng như siêu thoát.
Đoạn đầu khí văn mạnh nên không cần đối, có đối chỉ là đối ý (thiên địa giả, vạn vật chi nghịch lữ; quang âm giả, bách đại chi quá khách) chứ không đối chữ.
Trong đoạn sau mới có những vế thật cân đối như: “dương xuân chiêu ngã dĩ yên cảnh” với “đại khối giả ngã dĩ văn chương”; “hội đào lí chi phương viên” với “tự thiên luân chi lạc sự”…
Tư tưởng thật khoáng đạt. Mở bằng một ý bi quan, chịu nhiều ảnh hưởng của Lão, Trang; kết bằng một giọng vui vẻ mà thân mật.
Những điển dùng rất đắc thể, nhất là điển bỉnh chúc dạ du, tiếp với ý trong hàng trên mà mở cái cảnh sẽ tả trong đoạn dưới.
Các vế đối không gò bó; ý liên lạc tự nhiên, ta có cảm tưởng rằng Lí Bạch cảm xúc tới đâu, hạ bút tới đấy, không cần phải suy nghĩ. Bài văn rất ngắn mà đủ ý, đủ tình, đủ cảnh, không thiếu, không dư. Thật là toàn bích. Nhà Nho thời xưa không ai không thuộc bài này.
Chú thích:
[1] Ở đây tôi không chép lại. (Goldfish).
[2] Chiêu: nguyên văn là 召, chữ này Thiều Chửu đọc là “triệu”. (Goldfish).
[3] Tự là một bài văn ngắn chép lại một việc gì, phô bày một điều gì.
[4] Cổ thi có câu: Trú đoản khổ dạ trường, hà bất bỉnh chúc du? [晝短苦夜長, 何不秉燭遊]: Ngày ngắn khổ đêm dài, sao chẳng đốt đuốc chơi? [Các chữ Hán trong dấu ngoặc đứng là do tôi ghi thêm. (Goldfish)].
[5] Tạ Huệ Liên là em Tạ Linh Vận đời Lục Triều, rất đa tài.
[6] Khang Lạc là Tạ Linh Vận, thi văn tung hoành tuấn dật, được tập tước làm Khang Lạc công (có sách chép là Khang Lạc hầu).
[7] Về chữ “vũ thương” này có nhiều thuyết lắm, ta chỉ nên biết là một đồ đựng rượu.
[8] Kim Cốc là tên một khu vườn của Thạch Sùng đời Tấn. Các văn nhân thi sĩ họp trong vườn để uống rượu, làm thơ phú, ai không làm được thì phải phạt uống ba đấu rượu.