4. TỐNG MẠNH ĐÔNG DÃ TỰ HÀN DŨ-
Ông được người đời sau khen là tản văn thánh thủ, sanh năm 768 ở Nam Dương (có sách chép là Hà Dương). Cha là Trọng Khanh làm huyện lệnh, có tiếng về văn chương. Ông mồ côi cha hồi ba tuổi, ở với anh là Hàn Hội. Hội có công vận động phục cổ, cũng mất sớm. Ông ở với chị dâu, tự học, có cái chí: “Không phải là sách đời Tam Đại và đời Lưỡng Hán thì không dám đọc, không phải là cái chí của thánh nhân thì không dám giữ”.
Mười chín tuổi lên kinh thi, rớt, mặc dầu đã nổi danh về cổ văn. Năm 24 tuổi mới đậu tiến sĩ, rồi 29 tuổi mới làm quan. Ông thanh liêm mà cương trực, nên cuộc đời thăng trầm mà túng bẩn: “Mùa đông tuy ấm áp mà con kêu lạnh, năm tuy được mùa mà vợ la đói”.
Một lần ông can vua Đức Tôn về những việc xa hoa trong cung mà bị biếm làm lệnh doãn Dương Sơn (lúc đó ông đương làm giám sát ngự sử); lần khác can vua Hiến Tôn đừng rước cốt Phật vào cung, suýt bị tử tội, nhờ đình thần xin cho mới được giáng làm thứ sử Triều Châu. Năm sau, vua nguôi giận, bổ ông làm Viên Châu thứ sử. Tới đâu, ông cũng được dân kính mến: ở Dương Sơn, nhiều nhà lấy họ Hàn đặt tên cho con; ở Viên Châu, ông bãi bỏ cái tục hễ đợ con mà quá hạn không chuộc thì con thành nô lệ suốt đời, nên được dân thờ phụng.
Ông làm quan đến chức Binh bộ thị lang, mất năm 824. Đời Tống truy tặng là Xương Lê Bá (Xương Lê là tổ quán của ông), nên đời sau thường gọi ông là Hàn Xương Lê. Ông có công đầu trong phong trào phục cổ ở đời Đường, lưu lại bộ Hàn Xương Lê tập, hiện còn 48 cuốn trong đó có 10 cuốn về thơ, còn bao nhiêu là tản văn, đa số bàn về đạo lí. Ông sở trường nhất về tạp văn (như tiểu luận, tuỳ bút), giọng hùng tráng, thiết tha, linh hoạt, rõ ràng, giản dị, vừa khéo dùng thành ngữ, vừa khéo tạo tân ngữ và nhiều tân ngữ sau biến ra thành ngữ, như: “đại thanh tật hô”, “thuỳ đầu táng khí”, “dao vĩ khất lân”. Ông phục cổ mà không nô lệ cổ nhân, chủ trương “văn để chở đạo”, muốn phục hưng học thuyết Khổng, Mạnh đã suy từ đời Lục Triều. Có điều này lạ là văn ông rất bình dị, tự nhiên mà thơ ông nhiều bài cầu kì, dùng chữ thật hiểm, thâm, như bài “Nam Sơn thi” dùng một hơn năm chục chữ “hoặc” để tả vẻ quái dị của núi.
NGUYÊN VĂN
送孟東野序
大凡物不得其平則鳴。草木之無聲,風撓之鳴。水之無聲,風蕩之鳴;其躍野,或激之;其趨也,或梗之;其沸也,或炙之。金石之無聲,或擊之鳴。人之於言也亦然,有不得已者而後言︰其哥也有思,其哭也有懷。凡出乎口而為聲者,其皆有弗平者乎?樂也者,鬱於中而泄於外也;擇其善鳴者,而假之鳴。金,石,絲,竹,匏,土,革,木八者,物之善鳴者也。維天之於時也亦然,擇其善鳴者而假之鳴;是故以鳥鳴春,以雷鳴夏,以蟲鳴秋,以風鳴冬;四時之相推敓,其必有不得其平者乎?其於人也亦然。人聲之精者為言;文辭之於言,又其精也,尤擇其善鳴者而假之鳴。
其在唐虞,咎陶、禹其善鳴者也,而假以鳴。夔弗能以文辭鳴,又自假於韶以鳴。夏之時,五子以其歌鳴。伊尹鳴殷,周公鳴周。凡載於詩書六藝,皆鳴之善者也。周之衰,孔子之徒鳴之,其聲大而遠。傳曰:“天將以夫子為木鐸。”其弗信矣以乎?其末也,莊周以其荒唐之辭鳴。楚,大國也,其亡也,以屈原鳴。臧孫辰,孟軻,荀卿,以道鳴者也。楊朱,墨翟,管夷吾,晏嬰,老聃,申不害,韓非,慎到,田駢,鄒衍,屍佼,孫武,張儀,蘇秦之屬,皆以其術鳴。
秦之興,李斯鳴之。漢之時,司馬遷,相如,揚雄,最其善鳴者也。其下魏,晉氏,鳴者不及於古,然亦未嘗絕也。就其善者,其聲清以浮,其節數以急,其辭淫以哀,其志弛以肆,其為言也,亂雜而無章。將天醜其德,莫之顧耶?何為乎不明其善鳴者也?
唐之有天下,陳子昂,蘇源明,元結,李白,杜甫,李觀,皆以其所能鳴。其存而在下者,孟郊東野始以其詩鳴。其高出魏晉,不懈而及於古,其他浸淫乎漢氏矣。從吾遊者,李翱,張籍其尤也。三子者之鳴信善矣,抑不知天將和其聲,而使鳴國家之盛耶?抑將窮餓其身,思愁其心腸,而使自鳴其不幸耶?三子者之命,則懸乎天矣。其在上也,奚以喜?其在下也,奚以悲?
東野之役於江南野,有若不釋然者,故吾道其命於天者以解之。
PHIÊN ÂM
TỐNG MẠNH ĐÔNG DÃ TỰ
Đại phàm vật bất đắc kì bình tắc minh. Thảo mộc chi vô thanh, phong nạo chi minh. Thuỷ chi vô thanh, phong đãng chi minh; kì dược dã, hoặc kích chi, kì xu dã, hoặc ngạnh chi; kì phí dã, hoặc chích chi. Kim thạch chi vô thanh, hoặc kích chi minh. Nhân chi ư ngôn dã diệc nhiên, hữu bất đắc dĩ giả nhi hậu ngôn: kì ca dã hữu tư, kì khốc dã hữu hoài. Phàm xuất hồ khẩu nhi vi thanh giả, kì giai hữu phất bình giả hồ? Nhạc dã giả, uất ư trung nhi tiết ư ngoại giả dã; trạch kì thiện minh giả, nhi giả chi minh. Kim, thạch, ti, trúc, bào, thổ, cách, mộc bát giả, vật chi thiện minh giả dã. Duy thiên chi ư thời dã diệc nhiên, trạch kì thiện minh giả nhi giả chi minh; thị cố dĩ điểu minh xuân, dĩ lôi minh hạ, dĩ trùng minh thu, dĩ phong minh đông; tứ thời chi tương thôi đoạt[1], kì tất hữu bất đắc kì bình giả hồ? Kì ư nhân dã diệc nhiên. Nhân thanh chi tinh giả vi ngôn, văn từ chi ư ngôn, hựu kì tinh dã, vưu trạch kì thiện minh giả nhi giả chi minh.
Kì tại Đường, Ngu, Cao Dao, Vũ kì thiện minh giả dã, nhi giả dĩ minh. Quì phất năng dĩ văn từ minh, hựu tự giả ư thiều dĩ minh. Hạ chi thời, ngũ tử dĩ kì ca minh. Y Doãn minh Ân, Chu Công minh Chu. Phàm tái ư Thi, Thư lục nghệ, giai minh chi thiện giả dã. Chu chi suy, Khổng tử chi đồ minh chi, kì thanh đại nhi viễn. Truyện viết: “Thiên tương di phu tử vi mộc đạc”, kì phất tín hĩ hồ? Kì mạt dã, Trang Chu dĩ kì hoang đường chi từ minh. Sở, đại quốc dã, kì vong dã, dĩ Khuất Nguyên minh. Tang Tôn Thần, Mạnh Kha, Tuân Khanh dĩ đạo minh giả dã. Dương Chu, Mặc Địch, Quản Di Ngô, Án Anh, Lão Đam, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Thận Đáo, Điền Biền, Trâu Diễn, Thi Giảo, Tôn Vũ, Trương Nghi, Tô Tần chi thuộc, giai dĩ kì thuật minh.
Tần chi hưng, Lí Tư minh chi. Hán chi thời, Tư Mã Thiên, Tương Như, Dương Hùng tối kì thiện minh giả dã. Kì hạ Nguỵ, Tấn nhị[2] thị, minh giả bất cập ư cổ, nhiên diệc vị thường tuyệt dã. Tựu kì thiện giả, kì thanh thanh dĩ phù, kì tiết xúc dĩ cấp, kì từ dâm dĩ ai, kì chí thỉ dĩ tứ, kì vi ngôn dã, loạn tạp nhi vô chương. Tương thiên xú kì đức, mạc chi cố da? Hà vi hồ bất minh kì thiện minh giả dã?
Đường chi hữu thiên hạ, Trần Tử Ngang, Tô Nguyên Minh, Nguyên Kết, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Lí Quán, giai dĩ kì sở năng minh. Kì tồn nhi tại hạ giả, Mạnh Giao Đông Dã thuỷ kì thị minh. Kì cao xuất Nguỵ, Tấn, bất giải nhi cập ư cổ, kì tha tẩm dâm hồ Hán thị hĩ. Tòng ngô du giả, Lí Cao, Trương Tịch kì vưu dã. Tam giả chi minh tín thiện hĩ. Ức bất tri thiên tương hoà kì thanh, nhi sử minh quốc gia chi thịnh da? Ức tương cùng ngạ kì thân, tư sầu kì tâm trường, nhi sử tự minh kì bất hạnh da? Tam tử giả chi mệnh, tắc huyền hồ thiên hĩ. Kì tại thượng dã, hề dĩ hĩ? Kì tại hạ dã, hề dĩ bi?
Đông Dã chi dịch ư Giang Nam dã, hữu nhược bất thích nhiên giả, cố ngô đạo kì mệnh ư thiên giả dĩ giải chi.
DỊCH NGHĨA
BÀI TỰA “TIỂN MẠNH ĐÔNG DÔ
Mọi vật hễ không được cái thế quân bình thì kêu lên. Cây cỏ không có tiếng, gió xao động thì nó phát ra tiếng. Nước không có tiếng, gió chấn động thì nó phát ra tiếng; đập nó thì nó bắn vọt lên; ngăn nó thì nó chảy dồn lại, nấu nó thì nó sôi sùng sục. Kim, thạch không có tiếng, gõ nó thì nó phát ra tiếng. Người xét về lời nói thì cũng vậy; có điều bất đắc dĩ rồi sau mới nói: ca là có điều nhớ nhung, khóc là có điều buồn thảm. Phàm ở miệng phát ra thành tiếng đều là do có điều bất bình[3] cả chăng? Âm nhạc là u uất ở trong mà phát tiết ra ngoài; chọn những vật khéo kêu[4] mà mượn nó kêu thay mình. Kim, thạch, tơ, trúc, bầu, đất, da gỗ, tám cái đó[5] là những vật khéo kêu. Trời, về phương diện thời tiết thì cũng vậy, chọn những vật khéo kêu mà mượn nó kêu cho mình, cho nên dùng chim để kêu xuân, dùng sấm để kêu hè, dùng trùng để kêu thu, dùng gió để kêu đông; bốn mùa xô đẩy nhau, tất có chỗ không quân bình chăng?[6] Ở người ta thì cũng vậy. Tinh hoa của thanh âm loài người là lời nói, mà văn từ so với lời nói còn là tinh hoa hơn nữa, càng nên chọn người khéo kêu để mượn họ kêu cho.
Đời Đường, đời Ngu, ông Cao Dao và ông Vũ[7] là những người khéo kêu, nên mượn hai ông ấy để kêu. Ông Quì[8] không biết dùng văn từ để kêu thì tự mượn nhạc Thiều để kêu. Đời Hạ, năm ông hiền[9] dùng lời hát để kêu. Ông Y Doãn kêu cho đời Ân, ông Chu Công kêu cho đời Chu[10]. Những lời chép trong Kinh Thi, Kinh Thư, trong lục kinh[11] đều là những lời khéo kêu cả. Nhà Chu suy, Khổng tử và môn đệ kêu cho, tiếng lớn mà xa. Sách Truyện chép: “Trời muốn dùng phu tử làm mõ gõ”[12], há chẳng đáng tin ư? Cuối đời Chu, Trang Chu dùng những lời hoang đường mà kêu[13]. Sở là một nước lớn, khi mất, dùng Khuất Nguyên để kêu[14]. Tang Tôn Thần, Mạnh Kha, Tuân Khanh[15] đem đạo của mình ra để kêu. Bọn Dương Chu, Mặc Địch, Quản Di Ngô, Án Anh, Lão Đam, Thân Bất Hại, Hàn Phi, Thận Đáo, Điền Biền, Trâu Diễn, Thi Giảo, Tôn Vũ, Trương Nghi, Tô Tần đều dùng cái thuật của mình để kêu[16].
Nước Tần dấy lên, Lí Tư kêu cho[17]. Đời Hán, Tư Mã Thiên, Tương Như, Dương Hùng đều là những người rất khéo kêu[18]. Về sau, hai đời Nguỵ, Tấn, người kêu không khéo bằng thời cổ, nhưng cũng chưa hề dứt tiếng bao giờ. Những người khéo kêu trong hai đời đó, tiếng thì trong mà khinh phù, âm tiết thì tế toái mà gấp rút, văn từ thì dâm loạn mà ai oán, chí thì buông thả mà phóng túng, lời thì tạp loạn mà không sáng sủa. Trời ghét đức hạnh của họ mà không đoái thương họ chăng? Sao mà không khiến họ kêu những lời kêu hay của họ?[19]
Nhà Đường lấy được thiên hạ, Trần Tử Ngang, Tô Nguyên Minh, Nguyên Kết, Lí Bạch, Đỗ Phủ, Lí Quán đều dùng sở trường của mình để kêu[20], còn lại những người ở dưới như Mạnh Giao Đông Dã[21] bắt đầu dùng thơ để kêu, lời cao hơn đời Nguỵ, Tấn, không trễ nải[22] mà kịp được cổ nhân, thấm nhuần lần lần thì có thể như đời Hán được. Trong số bạn theo chơi với tôi, có Lí Cao, Trương Tịch là hơn cả[23]. Lời kêu của ba ông đó thật là ai khéo. Nhưng không biết rồi đây, Trời sẽ làm cho thanh âm của họ bắt thân họ phải khốn cùng, đói rét, hưng thịnh của quốc gia chăng? Hay là được hài hoà để khiến họ kêu sự lòng họ phải tư lự âu sầu, khiến cho họ tự kêu cái bất hạnh của họ chăng?[24] Vận mệnh của ba ông ấy là do Trời; vậy thì ở ngôi cao, có gì vui? Ở ngôi thấp có chi buồn?
Ông Đông Dã ra nhậm chức ở Giang Nam[25], có ý như không vui, cho nên tôi bàn đến lẽ số mạng ở Trời để khuyên giải ông.
NHẬN ĐỊNH
Bài này rất nổi danh, nhà Nho thời xưa ai cũng phải đọc qua, vì hứng thú văn chương thì ít mà vì lập trường của tác giả thì nhiều. Nó không hẳn là một trang phê bình văn học, cũng không hẳn là một bản tuyên ngôn của một văn phái, chỉ là một thiên tuỳ bút trong đó ta thấy rõ quan niệm của tác giả về văn chương.
Câu đầu: “Đại phàm vật bất đắc kì bình tắc minh” diễn được một chân lí, bao quát được vạn vật, mà áp dụng vào văn nhân thi sĩ lại càng hợp; bốn chữ “bất bình tắc minh” trong câu đó đã thành một ngạn ngữ.
Từ vũ trụ vạn vật, tác giả thu dần về giới văn nhân (văn nhân hiểu theo nghĩa rộng) để chứng minh luật bất bình tắc minh đó. Tác giả lược kể tất cả các văn nhân từ đời Xuân Thu tới đời Đường, và ta thấy rằng ông trọng Nho học hơn những đạo khác, trọng văn đời Hán hơn những đời sau (coi chủ trương phục cổ của ông trong bài tiểu sử).
Những ý chính của ông có thể tóm tắt như sau:
- người ta bất đắc dĩ mới viết văn, làm thơ.
- trong sự bất đắc dĩ đó, cũng có phân biệt “thiện” và “bất thiên”; theo ông “thiện” là phục vụ đạo Nho, có thể vui hoặc buồn, nhưng không uỷ mị, ai oán.
- nhưng dù thiện hay không thiện, thì cũng do Trời cả: Trời bắt suy thì có giọng văn của Nguỵ, Tấn; Trời cho thịnh thì có giọng văn của Hán; người chỉ là một khí cụ của Trời dùng để “minh” lên thôi. Ta tự hỏi: nếu vậy thì văn nhân thi sĩ có chịu trách nhiệm về tư tưởng của mình không?
- tới cuối bài ông mới kéo ta về Mạnh Đông Dã. Mạnh có tài nhưng không gặp thời nên chán đời (thuở trẻ ở ẩn), gần già mới được làm một chức quan rất nhỏ ở xa kinh đô. Ông tặng bài tự này để an ủi (đã do mệnh cả thì ở chức cao có gì mà vui, ở chức thấp có gì mà buồn?) và khuyên bạn nên dùng âm thanh vui vẻ mà “minh” sự thịnh vượng của quốc gia.
Ta thấy, ông không tích cực như Tuân Tử (triết gia chủ trương rằng việc người với việc trời không quan hệ gì với nhau, mà người có thể thắng được trời), nhưng cũng không hoàn toàn tiêu cực, vẫn cố tận lực hành đạo, rồi thành hay bại là do mệnh trời, không quan tâm tới. Về điểm đó ông theo đúng chủ trương của Khổng, Mạnh, cho nên người đời sau đặt ông đứng sau Mạnh Tử, mà bài này được coi như kim chỉ nam của người cầm bút. Giá trị của nó phần lớn ở đó.
Chú thích:
[1] Đoạt: bản nguồn chép chữ Hán là: 敓 (đoạt). Trên mạng có nhiều trang cũng chép như vậy, có trang chép là: 敚 và chú giải là giống như chữ 夺 (đoạt), có trang lại chép là: 奪 (đoạt). (Goldfish).
[2] Nhị, nghĩa là hai. Nguyên văn chữ Hán trong bản nguồn và các bản trên mạng không có chữ đều không có chữ 二. (Goldfish).
[3] Bất bình ở đây không có nghĩa là giận dữ như ngày nay, mà chỉ có nghĩa là không được quân bình, không được bình thường.
[4] Tức những nhạc khí.
[5] Kim, thạch tức như chuông (đồng), khánh (đá); tơ, trúc như đàn (tơ), ống tiêu (trúc); bầu như cái sênh; đất như cái huân, một thứ âm nhạc nặn bằng đất, đục lỗ, thổi vào thì kêu; da như cái trống; gỗ như cái mõ.
[6] Ý nói: Khi đã mất sự quân bình thì có sự thay đổi về thời tiết mà sinh ra bốn mùa.
[7] Đời Đường đây là đời vua Nghiêu (2357-2256); đời Ngu là đời vua Thuấn (2255-2206), ở đời Thượng cổ.
Cao Dao là bề tôi vua Thuấn, lập ra hình, luật.
Ông Vũ cũng là bề tôi của vua Thuấn, sau thay vua Thuấn mà trị nước (2205-2196), sáng lập nhà Hạ.
[8] Quì là một ông quan coi về điển nhạc đời vua Thuấn. Thiều là nhạc của vua Thuấn, được Khổng tử khen là tận thiện tận mĩ.
[9] Ngũ tử ở đây trỏ năm người em vua Thái Khang (vua thứ ba nhà Hạ). Thái Khang dong chơi không chừng mực, đi săn ở sông Lạc, mười tuần chẳng về. Năm người em của ông làm năm bài ca, kể lại lời răn của vua Vũ để cảnh tỉnh anh (coi trong Thượng Thư).
[10] Y Doãn là một vị khái quốc công thần nhà Thương, cũng gọi là nhà Ân. – Chu Công là chú vua Thành Vương, giữ chức nhiếp chính khi Thành Vương còn nhỏ.
[11] Nguyên văn: lục nghệ tức lục kinh: Thi, Thư, Dịch, Xuân Thu, Nhạc.
[12] Ta quen dịch chữ đạc là mõ, nhưng thực ra nó giống cái chuông; nó làm bằng đồng, nhưng cái lưỡi của nó có thể làm bằng đồng hay gỗ, nếu bằng đồng thì gọi là kim đạc, bằng gỗ thì gọi là mộc đạc. Người ta lắc cho nó kêu, chứ không gõ như mõ. Ngày xưa người ta dùng nó để ra mệnh lệnh hoặc tuyên lời giáo hoá dân.
[13] Trang Chu tức Trang Tử. Hoang đường là không đáng tin. Hàn Dũ chỉ trọng đạo Nho mà chê các đạo khác.
[14] Khuất Nguyên – coi tiểu sử ở phần trên
[15] Tang Môn Thần tức Tang Văn Trọng, một đại phu nước Lỗ. - Mạnh Kha tức Mạnh Tử. - Tuân Khanh tức Tuân Tử.
[16] Dương Chu tức Dương Tử, Mặc Địch tức Mặc Tử. Quản Di Ngô tức Quản Trọng, Án Anh tức Án Tử (coi bài Quản Án liệt truyện ở phần trên), Lão Đam tức Lão Tử. Những triết gia hoặc những chính trị gia đó, tên đã quen với độc giả nên chúng tôi không chú thích.
Thân Bất Bại, Thận Đáo, Hàn Phi là ba triết gia và chính trị gia trong phái Pháp gia ở đời Chiến Quốc.
Điền Biền là một triết gia thời Chiến Quốc, tác phẩm thất truyền, không rõ tư tưởng của ông ra sao.
Trâu Diễn ở trong phái Âm dương gia gần cuối đời Chiến Quốc.
Thi Giảo, người Lỗ, cũng ở đời Chiến Quốc, không rõ làm gì và tư tưởng ra sao.
Tôn Vũ là một danh tướng Xuân Thu, viết một bộ binh pháp mười ba thiên.
Trương Nghi, Tô Tần đều là những người giỏi biện thuyết đời Chiến Quốc. Coi bài Tô Tần dĩ liên hoành thuế Tần, phần I – Chiến Quốc sách.
[17] Lí Tư là một chính trị gia cuối đời Chiến Quốc, bạn học của Hàn Phi, cùng trong phái Pháp gia, làm Tể tướng cho Tần Thuỷ Hoàng, giúp Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Quốc. Coi tiểu sử ở phần I.
[18] Tư Mã Thiên. Coi tiểu sử ở phần II. – Đời Hán.
Tương Như tức Tư Mã Tương Như, một văn sĩ nổi tiếng về thể phú ở đầu đời Hán. Coi tiểu sử ở phần II.
Dương Hùng, một triết gia đời Hán, tác giả cuốn Thái Huyền và cuốn Pháp ngôn.
[19] Tác giả có ý chê văn đời Nguỵ, Tấn là suy. Ông chủ trương phục cổ, phải dùng văn để phát huy đạo của cổ nhân (tức đạo Khổng) mà đời Nguỵ, Tần chịu ảnh hưởng nhiều của Lão, Trang, nên ông nặng lời chỉ trích.
[20] Mấy nhà đó đều giỏi về thơ. Tô Nguyên Minh, Lí Quán không có tên trong văn học sử. [Tô Nguyên Minh, tự là Nhược Phu, đậu Tiến sĩ, thơ văn còn lưu lại ít bài trong Toàn Đường thi và Toàn Đường văn. Lí Quán, tự là Nguyên Tân, năm 792 cùng đậu tiến sĩ với Hàn Dũ, còn lưu lại bộ Nguyên Tân văn tập. (Goldfish)].
[21] Mạnh Giao, tự Đông Dã (751-814) là bạn thân với tác giả, hồi trẻ ở ẩn, năm mươi tuổi mới đậu tiến sĩ, làm quan mà không được đắc dụng, nhà nghèo, làm thơ hay, có giọng buồn, oán; người đương thời cho rằng thơ như Mạnh Giao, văn như Hàn Dũ là tuyệt. Lưu lại bộ Mạnh Đông Dã tập 10 quyển.
[22] Ý nói: Không uỷ mị mà hăng hái về đạo đức.
[23] Tức Mạnh Giao, Lí Cao và Trương Tịch.
[24] Hai câu trên có lẽ bị chép lầm. Xin tạm sửa lại như sau: “Nhưng không biết rồi đây, Trời sẽ làm cho thanh âm của họ được hài hoà để khiến cho họ kêu sự hưng thịnh của quốc gia chăng? Hay là bắt thân họ phải khốn cùng, đói rét, lòng họ phải tư lự âu sầu, khiến cho họ tự kêu cái bất hạnh của họ chăng? (Goldfish).
[25] Giang Nam, trỏ miền phía nam sông Trường Giang. Lúc đó Đông Dã mới đậu tiến sĩ, sắp ra làm chức uý (một chức rất nhỏ) ở huyện Lật Dương, nay thuộc tỉnh Giang Tô.