← Quay lại trang sách

8. HỈ VŨ ĐÌNH KÍ TÔ THỨC

Gọi là Tô Thức thì còn có người lạ tai, chứ gọi là Tô Đông Pha thì ai cũng biết ông, nhờ bài Tiền Xích Bích phú. Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia (vì văn thơ đều hay cả mà rất phong phú), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phức tạp nhất.

Ông sanh năm 1037 (có sách chép là 1036), mất năm 1101, tên tự là Tử Chiêm. Hồi 10 tuổi, cha là Tô Tuân đi du học bốn phương; mẹ, họ Trình, dạy ông học. Khi nghe giảng về truyện Phàm Bàng, ông khái nhiên hỏi mẹ: “Con sau này được như Phạm Bàng, mẹ có chịu không?”. Bà mẹ đáp: “Con mà được như Bàng thì mẹ sao lại không làm được như mẹ Bàng?”[1].

Mới mười lăm mười sáu tuổi ông đã thông kinh sử, rất thích đọc sách của Giả Nghị và Lục Chí (về Giả Nghị coi tiểu sử ở phần II và bài Giả Nghị luận ở sau – Lục Chí là Tể tướng đời Đường, có đức cao, giỏi về văn tấu nghị). Như vậy ta thấy ông rất trọng đạo Nho và có chí giúp nước. Nhưng khi đọc sách Trang Tử, ông lại bảo: “Trước kia tôi có ý kiến, nhưng chưa diễn ra được; nay đọc sách này, hợp ý tôi quá”. Tính tình ông phức tạp, mâu thuẫn ở điểm đó; suốt đời ông chịu ảnh hưởng cả của Nho, lẫn Lão và Phật nữa, nhờ vậy mà tâm hồn ông khoáng đạt, tuy trong hoạn đồ chìm nổi nhiều phen mà không có giọng ai oán như Giả Nghị, Liễu Tôn Nguyên, vẫn mỉa mai ngạo đời được. Cũng nhờ vậy mà văn ông siêu thoát, có nhiều vẻ hơn các nhà khác.

Năm 21 tuổi ông đậu Tiến sĩ, nhờ bài Hình thưởng trung hậu chi chí luận (sẽ trích ở sau) mà Âu Dương Tu rất thưởng thức, ngờ rằng của Tăng Củng làm (về Tăng Củng, coi cuối phần này) nên không lấy ông khôi nguyên mà hạ xuống á nguyên.

Hết tang mẹ[2], ông lãnh chức Chủ bạ Phúc Xương rồi làm quan luôn ba chục năm, nhưng chìm nổi bất thường, một phần vì ông có giọng mỉa mai, hay làm thơ châm biếm về chính trị[3], nên ít người ưa; một phần vì ông đứng vào phe cựu đảng của Tư Mã Quang, nên khi tân đảng của Vương An Thạch lên cầm quyền (về Vương An Thạch coi ở sau) thì ông bị biếm ra những châu quận ở ngoài.

Ông làm Thông phán ở Hàng Châu, rồi chuyển qua Mật Châu, Từ Châu, Hồ Châu; có hồi vì chê bai tân pháp mà bị giam vào ngục, rồi biếm đi Hoàng Châu[4], làm chức Đoàn luyện phó sứ. Ở Hoàng Châu, ông cùng các ông lão nhà quê ngao du sơn thuỷ, cất nhà ở một sườn núi phía đông (đông pha), rồi lấy hiệu là Đông Pha cư sĩ (do đó người đời sau gọi ông là Tô Đông Pha).

Năm 1085, vua Triết Tôn lên ngôi, Thái Hoàng Thái hậu đương chính, bỏ chính sách của Vương An Thạch, dùng cựu đảng, ông được gọi về kinh, nhận chức Trung thư xá nhân, rồi chức Hàn lâm học sĩ kiêm Thị độc học sĩ, nhưng không được lâu, rồi lại bị đổi ra Hàng Châu, Dĩnh Châu, Định Châu cũng vì tánh hay châm biếm.

Năm 1093, vua Triết Tôn mới thực cầm quyền, lại dùng tân đảng, và hoạn đồ của ông càng trắc trở, bị biếm hai ba lần, có lần tới Quỳnh Châu (nay là đảo Hải Nam ở ngoài khơi Bắc Việt). Sống tịch mịch, già cả mà vất vả, phải cất lấy nhà mà ở, thuốc thang không có, đành viết sách để tiêu khiến. Năm 1100, vua Huy Tôn lên ngôi, ông được đại xá, về lục địa, năm sau mất ở Thường Châu.

Ông ở trong phái thủ cựu, không ưa những cải cách mạnh bạo của Vương An Thạch, khi luận về chính trị thường giữ đạo trung hoà, không cầu gấp thành công, cứ bình tĩnh đợi sự tình biến đổi mà đối phó. Ông viết những bài Tần Thuỷ Hoàng luận, Thương Ưởng luận, mượn cổ mà chê kim, có ý so sánh chính sách của Vương An Thạch với chính sách của Tần Thuỷ Hoàng, của Thương Ưởng, bảo chính sách đó dùng ít thì hại ít, càng dùng nhiều càng hại nhiều.

Tuy nhiên ông không phải là cổ hủ, rất lo đến kinh tế, võ bị, lập một kế hoạch di dân, đề nghị nuôi binh ở trong dân (thời bình thì là nông dân, nhưng luyện tập quân sự để thời loạn thì thành lính), ông lại thực hiện được công việc khơi sông ở Từ Châu, công việc đắp đê ở Hàng Châu, làm lợi cho nông dân rất nhiều. Đê đó mang tên ông (Tô đê), trồng đào liễu ở hai bên, rất ngoạn mục.

Ông sáng tác được 4.000 bài thơ, 300 bài từ, tản văn rất nhiều bài hay. Tác phẩm ông lưu lại có bộ Đông Pha văn tập 60 quyển, bộ Đông Pha thi tập 25 quyển, bộ Đông Pha từ 1 quyển, bộ Cửu Trì bút kí 2 quyển, bộ Đông Pha chí lâm 5 quyển. Ngoài ra, vâng lời dặn dò của cha lúc lâm chung, ông viết tiếp cuốn Dịch truyện mà cha bỏ dở, rồi viết thêm những cuốn: Luận ngữ thuyết, Thư truyện để truyền bá đạo Khổng. Văn nhân đương thời rất trọng ông, và coi ông là người nối gót Âu Dương Tu trên văn đàn.

Ở đây chúng tôi không xét công việc giả phóng thể từ đời Tống, bỏ niêm luật, mở rộng phạm vi của nó, dắt nó từ cảnh mơ mộng hương phấn qua khu vực khoáng đạt, hào hùng của tình cảm; chúng tôi chỉ giới thiệu tản văn của ông thôi.

Về chính trị, ông hoàn toàn theo Khổng, mà về nghệ thuật ông có cả hai khuynh hướng Khổng và Lão. Những bài luận về chính trị, về nhân vật lịch sử như bài Giả Nghị luận ông có giọng của Âu Dương Tu nhưng hùng hồn hơn; mà những bài kí của ông như: Siêu nhiên đình kí, Phóng hạc đình kí và nhất là bài Tiền Xích Bích phú thì có giọng của phái Lão, Trang.

Ông cũng theo phong trào phục cổ của Âu Dương Tu, cũng muốn dùng văn để cứu đời, có lúc đã viết: “Vĩnh quí thử bang nhân, mang thích phu cơ, bình sinh ngũ thiên quyển, nhất tự bất cứu cơ!”: Thẹn hoà cho người nước nay, gai đâm trong da thịt; bình sinh (đọc) năm ngàn quyển sách, mà không một chữ nào cứu đói cho dân được; nhưng có hồi ông lại ca tụng thú tiêu dao, bảo: “Ý kì siêu dật tuyệt trần, độc lập vạn vật chi biểu, ngự phong kị khí, dĩ dữ tạo vật giả du”: Ý phóng dật siêu việt tuyệt trần, độc lập ở ngoài vạn vật, cưỡi gió khí để cùng ngao du với tạo vật.

Chính vì chịu ảnh hưởng Lão, Trang như vậy, nên văn ông như hành vân lưu thuỷ, hùng vĩ mà khoáng đạt, không chịu một sự trói buột nào cả. Chúng ta nên biết thêm rằng ông chẳng những giỏi về thơ, văn, từ, phú mà vẽ cũng khéo, viết chữ cũng tài, ông lại thông cả âm nhạc nữa. Thực là một thiên tài trác việt.

Lâm Ngữ Đường, một học giả Trung Hoa hiện nay, rất trọng ông, cho rằng văn ông càng về già càng bình dị, sâu sắc, viết một cuốn kể đời ông, tức cuốn The gay genius - Life and times of Su Tungpo.

NGUYÊN VĂN

喜雨亭記

亭以雨名,志喜也。古者有喜,則以名物,示不忘也。周公得禾,以名其書;漢武得鼎,以名其年;叔孫勝狄,以名其子。其喜大小不齊,示其不忘一也。

予至扶風之明年,始治官舍。為亭於堂之北,而鑿池其南,引流種樹,以為休息之所。是歲之春,雨麥於岐山之陽,其占為有年。既而彌月不雨,民方以為憂。越三月,乙卯乃雨,甲子又雨,民以為未足;丁卯大雨,三日乃止。官吏相與慶於庭,商賈相與歌於市,農夫相與忭於野,憂者以喜,病者以愈,而吾亭適成。

於是舉酒於亭上,以屬客而告之,曰:“五日不雨可乎?曰:“五日不雨則無麥。”十日不雨可乎?曰:“十日不雨則無禾。”無麥無禾,歲且薦飢。獄訟繁興而盜賊滋熾;則吾與二三子,雖欲優游以樂於此亭,其可得耶?今天不遺斯民,始旱而賜之以雨,使吾與二三子得相與優游以樂於此亭者,皆與之賜也。其又可忘耶?”

既以名亭,又从而歌之,曰:“使天而雨珠,寒者不得以為襦;使天而雨玉,飢者不得以為粟。一雨三日,伊誰之力?民曰太守,太守不有;歸之天子,天子曰不然;歸之造物,造物不自以為功;歸之太空,太空冥冥,不可得而名,吾以名吾亭。”

PHIÊN ÂM

HỈ VŨ ĐÌNH KÍ

Đình dĩ Vũ danh, chí hỉ dã. Cổ giả hữu hỉ, tắc dĩ danh vật, thị bất vong dã. Chu Công đắc hòa, dĩ danh kì thư; Hán Vũ đắc đỉnh, dĩ danh kì niên; Thúc Tôn thẳng địch, dĩ danh kì tử. Kì hỉ chi đại tiểu bất tề, kì thị bất vong nhất dã.

Dư chí Phù Phong chi minh niên, thủy trị quan xá, vi đình ư đường chi bắc, nhi tạc trì kì nam, dẫn lưu chủng thụ, dĩ vi hưu tức chi sở. Thị tuế chi xuân, vũ mạch ư Kì Sơn chi dương, kì chiêm vi hữu niên. Kí nhi di nguyệt bất vũ, dân phương dĩ vi ưu. Việt tam nguyệt, ất mão nãi vũ, giáp tí hựu vũ, dân dĩ vi vị túc; đinh mão đại vũ, tam nhật nãi chỉ. Quan lại tương dữ khánh ư đình, thương cổ tương dữ ca ư thị, nông phu tương dữ biện ư dã; ưu giả dĩ hỉ, bệnh giả dĩ dũ, nhi ngô đình thích thành.

Ư thị cử tửu ư đình thượng, dĩ chúc khách nhi cáo chi, viết: “Ngũ nhật bất vũ khả hồ?” Viết: “Ngũ nhật bất vũ tắc vô mạch”. – “Thập nhật bất vũ khả hồ?” Viết: “Thập nhật bất vũ tắc vô hòa” – “Vô mạch vô hòa, tuế thả tấn cơ. Ngục tụng phồn hưng, nhi đạo tặc tư xí; tắc ngô dữ nhị tam tử, tuy dục ưu du dĩ lạc ư thử đình, kì khả đắc da? Kim thiên bất di tư dân, thủy hạn nhi tứ chi dĩ vũ, sử ngô dữ nhị tam tử, đắc tương dữ ưu du nhi lạc ư thử đình giả, giai vũ chi tứ dã, kì hưu khả vong da?”.

Kí dĩ danh đình, hựu tòng nhi ca chi, viết: “Sử thiên nhi vũ chu, hàn giả bất đắc dĩ vi nhu; sử thiên nhi vũ ngọc, cơ giả bất đắc dĩ vi túc. Nhất vũ tam nhật, y thùy chi lực? Dân viết Thái thú, Thái thú bất hữu; qui chi Thiên tử, Thiên tử viết bất nhiên; qui chi tạo vật, tạo vật bất tự dĩ vi công; qui chi thái không, thái không minh minh, bất khả đắc nhi danh, ngô dĩ danh ngô đình”.

DỊCH NGHĨA

BÀI KÍ: ĐÌNH MỪNG MƯA

Đình[5] đặt tên là Mưa, để ghi một việc mừng. Người xưa có việc mừng thì lấy mà đặt tên cho vật để tỏ ý không quên. Ông Chu Công được lúa, lấy lúa đặt tên cho sách[6], vua Hán Vũ được đĩnh, lấy đĩnh đặt niên hiệu[7]; Thúc Tôn thắng quân địch, lấy tên địch đặt tên con[8]. Việc mừng lớn nhỏ có khác nhau nhưng cái ý tỏ rằng không quên thì là một.

Tôi đến Phù Phong[9] năm trước thì năm sau[10] mới sửa lại quan nha, cất cái đình ở phía bắc công đường, đào ao ở phía nam, dẫn nước trồng cây, làm nơi yên nghỉ. Mùa xuân năm ấy, mưa lúa mì ở phía nam núi Kì Sơn[11], người ta đoán là điềm được mùa. Về sau trọn một tháng không mưa, dân bắt đầu lo. Tới tháng ba, ngày Ất mão mới mưa, ngày Giáp tí lại mưa[12], dân cho rằng chưa đủ; ngày Đinh mão[13] mưa lớn, ba ngày mới tạnh. Quan lại cùng nhau ăn mừng ở đình[14], thương gia cùng nhau ca hát ở chợ, nông phu cùng nhau vui vẻ ở đồng. Người lo nhờ đó mà mừng, người đau nhờ đó mà bớt và đình của tôi may cũng vừa cất xong.

Lúc ấy tôi bày tiệc rượu ở đình, họp khách mà nói rằng:

- Năm ngày không mưa có sao không?

Khách đáp:

- Năm ngày không mưa thì không có lúa mì.

- Mười ngày không mưa có sao không?

- Mười ngày không mưa thì không có lúa nếp.

- Không có lúa mì, không có lúa nếp, một năm liên tiếp đói, việc tụng ngục thêm nhiều mà đạo tặc thêm nhộn, thì tôi với mấy ông muốn an nhàn vui vẻ ở đình này được chăng? Nay Trời không bỏ dân miền này, mới nắng hạn đã giáng cho mưa, để cho tôi và mấy ông được an nhàn vui vẻ ở đình này, đó là nhờ mưa thưởng cho cả, thế thì làm sao mà có thể quên được?

Đã đặt tên cho đình rồi lại tiếp theo ca rằng:

“Trời mà mưa châu,

Kẻ lạnh làm áo được đâu!

Trời mà mưa ngọc,

Kẻ đói làm sao có thóc?

Một trận ba ngày,

Là nhờ sức ai?

Dân bảo: “Là nhờ Thái thú”.

Thái thú lắc đầu.

Qui về Thiên tử,

Thiên tử bảo: “Có đâu!”

Qui về tạo vật,

Tạo vật không tự nhận công.

Qui về thái không,

Thái không mù mịt bao la,

Biết gọi tên gì?

Thôi thì đặt tên đình ta”.

NHẬN ĐỊNH

Vào đề chỉ có bảy chữ, tóm tắt được hết ý trong bài, rồi từ đoạn chính tới đoạn kết, không câu nào không diễn cái ý mừng và ý mưa. Lời văn xoắn lấy hai ý đó mà tiến, lui, có lúc như nhảy nhót, reo hò (nhất là trong bài ca), và ta có cảm tưởng cũng được dự cái vui của tác giả. Câu cuối: “thái không minh minh, bất khả đắc nhi danh, ngô dĩ danh ngô đình”, ý thật đột ngột, kì dị, có chút Lão, Trang mà lại tương ứng với câu đầu: “Đình dĩ vũ danh, chí hỉ dã”, thực là tròn trặn.

Xin độc giả so sánh bài này với bài Tuý Ông đình kí của Âu Dương Tu, không thể định nào hơn, bài nào kém.

Chú thích:

[1] Một danh tướng đời Đông Hán, có công dẹp rợ Khương. Khi ở Kí Châu giặc nổi lên, ông hiên ngang lên xe tới dẹp; giăc nghe ông tới, giải tán ngay. Chắc còn một sự tích gì về bà mẹ Phạm Bàng mà chúng tôi chưa tra ra được. [Trong cuốn Tô Đông Pha, cụ Nguyễn Hiến Lê viết như sau: “Một hôm bà giảng tiểu sử Phạm Bàng trong bộ Hậu Hán thư cho con nghe. Hậu Hán, cũng gọi là Đông Hán, là thời vua chúa dâm đãng, nhu nhược, quyền hành vào tay bọn hoạn quan hết. Một bọn sĩ ở triều đình can đảm chống lại, trong số đó có Phạm Bàng (tự là Mạnh Bác) cương nghị, tiết tháo hơn cả, nên bị bọn hoạn quan vu oan là lập đảng, có ý mưu phản, hạ lệnh bắt ông để xử tội. Viên phán quan được thi hành lệnh đó, vốn kính trọng Phạm Bàng, ngầm cho ông hay trước, khuyên ông trốn đi. Ông không chịu, đáp rằng nếu trốn thì mẹ già sẽ bị liên lụy. Ông bèn dặn dò em trai ở lại phụng dưỡng mẹ, rồi mới từ biệt mẹ, an ủi mẹ, biết rằng thế nào mình cũng chết, nhưng xin mẹ đừng buồn rầu quá. Bà mẹ khẳng khái đáp: “Mẹ cũng mong cho con vừa có danh tiếng, vừa được thọ, nhưng đã không thể được cả hai thì giữ cái danh là hơn”. Người chung quanh nghe câu đó đều sa lệ”. (Goldfish)].

[2] Vào cuối năm 1059. (Goldfish).

[3] Chẳng hạn chê thuế muối nặng, đến nỗi dân không có muối ăn, ông viết: Khởi thị văn Thiều vong nhục vị, Nhĩ lai tam nguyệt thực vô diêm: Há phải (như Khổng tử) nghe nhạc Thiều mà mê đến nổi quên mùi thịt chỉ tại ba tháng nay ăn không có muối.

Chê chính sách triều đình cho quan lại mượn lương, ông viết: Trượng lê phù phạn khứ thông thông, Quá nhân thanh tiền chuyển thủ không. Mãi đắc nhị đồng tiểu âm hảo, Nhất niên cường bán tại thành trung: Chống gậy, mang cơm, lật đật đi lĩnh tiền mượn của vua, nhưng tiền mượn chỉ qua mắt rồi lại tay không. Lúc mượn cũng mua vui với trẻ được một lúc, rồi một năm thì nửa năm phải vất vả ở trong thành để trả nợ. [Sáu câu dẫn trên trích trong bài 山村五絕 (Sơn thôn ngũ tuyệt), từ câu 11 đến câu 16. Hai câu 11 và 12, trong ebook Tô Đông Pha chép như sau: 豈是聞韶忘肉味,邇來三月食無鹽 (Khởi thị văn Thiều vong nhục vị, Nhĩ lai tam nguyệt thực vô diêm - Há phải nghe Thiều quên vị thịt, Đến nay ăn nhạt đã ba trăng); câu 11, trên mạng có trang chép là: 豈是聞韶解忘味 (Khởi thị văn Thiều giải vong vị), có trang lại chép là: 豈是聞韻解忘味 (Khởi thị văn vận giải vong vị). Hai câu 13 và 14, ebook Tô Đông Pha không có, các trang trên mạng chép là: 杖藜裹飯去匆匆,過眼青錢轉手空 (Trượng lê khỏa phạn khứ thông thông, Quá nhãn thanh tiễn chuyển thủ không). Hai câu 15 và 16, trong ebook Tô Đông Pha cũng chép là: 買得兒童笑音好一,年彊半在城中 (Mãi đắc nhi đồng tiếu âm hảo, Nhất niên cường bán tại thành trung); câu 15, có trang chép là: 贏得兒童語音好 (Doanh đắc nhi đồng ngữ âm hảo). (Goldfish)].

[4] Hoàng Châu 黃州: nay thuộc thành phố Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc (đừng lầm với Hàng Châu 杭州 thuộc tỉnh Chiết Giang). (Goldfish).

[5] Đình là một ngôi nhà nhỏ để nghỉ ngơi, hóng mát, họp bạn.

[6] Đường Thúc được một thứ lúa lạ, dâng lên vua Thành Vương nhà Chu; Thành Vương sai Đường đem lại tặng Chu Công, nhân đó Chu Công viết thiên Gia Thử.

[7] Hán Vũ Đế được một cái đỉnh ở bờ sông Phần (tỉnh Sơn Tây ngày nay), đổi niên hiệu là Nguyên Đỉnh (năm 116 trước T.L).

[8] Lỗ Văn Công năm thứ 11, Thúc Tôn thắng rợ Địch, bắt được ba tên Địch, một người tên là Kiều Như, bèn lấy tên Kiều Như đặt tên cho con.

[9] Phù Phong là tên quận, nay ở Thiểm Tây.

[10] Trong cuốn Tô Đông Pha, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo: “…năm 1060, Đông Pha chỉ được nhận một chức quan nhỏ: chủ bạ huyện Phúc Xương tỉnh Hà Nam, năm sau làm chức Thiêm phán phủ Phượng Tường tỉnh Thiểm Tây (…) Đông Pha tới đó năm trước thì năm sau có nạn hạn hán, dân bắt đầu lo. Chàng đảo vũ, ít ngày sau mưa nhỏ, rồi nội trong mười ngày, hai trận mưa lớn nữa đổ xuống, quan lại, dân chúng cùng nhau ăn mừng. Chàng viết bài Hỉ vũ đình kí để ghi lại nỗi vui đó”. (Goldfish).

[11] Kì Sơn ở phía đông bắc huyện Kì Sơn tại Thiểm Tây. Có hạt lúa trên trời đổ xuống (!) cho nên gọi là mưa lúa.

[12] Tức 9 ngày sau.

[13] Tức 3 ngày sau nữa. [Theo chú giải trên trang http://baike.baidu.com/view/250337.htm thì Tô Đông Pha làm bài Hỉ Vũ đình Kí vào năm thứ sáu niên hiệu Gia hữu (đời Tống Nhân Tôn), tức năm 1061. Ngày Ất mão là: mùng 2 tháng tư; ngày Giáp tí là: 11 tháng tư, ngày Đinh mão là: 14 tháng tư; và ba chữ Việt tam nguyệt 越三月 được dịch là: Đáo liễu tam nguyệt 到了三月, tức “Đến hết tháng ba”. Theo phần mềm “Lich Viet Nam” thì ba ngày đó lần lượt là: 24/04/1061, 03/05/1061 và 06/05/1061. (Goldfish).

[14] Đình (trong cuốn Tô Đông Pha chép là dinh): nguyên văn là: đình 庭, nghĩa là nơi quan lại làm việc, không phải cái đình 亭 của Tô Đông Pha vừa cất xong. (Goldfish).