← Quay lại trang sách

7. TUÝ ÔNG ĐÌNH KÍ ÂU DƯƠNG TU

Trong số Đường, Tống bát đại gia, Đường chỉ có hai nhà: Hàn Dũ và Liễu Tôn Nguyên, còn sáu nhà kia: Âu Dương Tu, Tăng Củng, Vương An Thạch, Tô Tuân[1], Tô Thức, Tô Triệt đều ở đời Tống và đều đồng thời với nhau, cùng sanh ở thế kỉ XI cả, Âu Dương Tu lớn tuổi hơn hết, nổi danh sớm nhất và về cổ văn cũng viết nhiều nhất.

Ông sanh năm 1007, tự là Vĩnh Thúc, quê ở Lô Lăng (nay ở tỉnh Giang Tây). Bốn tuổi mồ côi cha, nhờ được mẹ hiền nuôi nấng và dạy dỗ, cho nên lớn lên mỗi lần nhắc đến mẹ là giọng ông rất cảm động (coi bài Lung Cương thiên biểu ở sau). Nhà nghèo, phải lấy cỏ lau vạch chữ xuống đất mà học. Nhờ tư chất rất thông minh, nên sớm nổi danh là hay chữ. Mới đầu ông cũng theo thời thượng, luyện lối văn biền ngẫu rất thịnh hành ở thời Ngũ Đại; nhưng lớn lên, qua chơi đất Tuỳ, được đọc di cảo của Hàn Dũ, sinh lòng khâm phục, muốn noi chí họ Hàn, từ đó chuyên luyện cổ văn, nhất là thể nghị luận, cùng Mai Nghiêu Thần (coi bài Mai Thánh Du thi tập ở sau) nổi danh nhất đương thời.

Ông đậu Tiến sĩ năm 1030, làm chức Quán các hiệu khám ở triều. Lúc đó Lữ Di Gián chấp chính, nắm hết quyền tiến dụng bách quan, không theo thứ tự, luật lệ nào cả. Phạm Trọng Yêm tỏ lời trách, bị Lữ buộc tội là chê bai triều chính, rồi biếm chức. Âu Dương Tu và đa số các quan họp nhau để bênh vực Phạm Trọng Yêm, bị một kẻ quyền thần trách là họp bè đảng, tâu vua biếm ông làm huyện lệnh ở Di Lăng, rồi Càn Đức. Ông viết bài Bằng đảng luận (coi ở sau) để dâng vua, được vua khen; nhưng cũng chưa được về triều. Mười hai năm sau mới làm chức Hàn lâm học sĩ và lãnh việc soạn bộ sử Đường thư. Xong bộ đó, ông thăng Hàn Lâm thị độc học sĩ, rồi Khu mật phó sứ. Tới khi Vương An Thạch cầm quyền, ông vốn thủ cựu, không chịu chính sách của Vương, xin về hưu; lúc mất (1072), được tặng chức Thái tử Thái Sư, thuỵ là Văn Trung.

Ông có khí tiết như Hàn Dũ, đúng là một nhà Nho, thủ cựu, rất tôn quân nhưng rất chú ý tới việc tiến cử hiền tài, đề bạt hạng hậu tiến nên danh vọng rất cao.

Riêng về văn, ông khêu lại phong trào phục cổ và thành công lớn lao, nên người ta thường gọi ông là Hàn Dũ đời Tống. Ông bảo: “đạo” là nội dung, là bản chất mà văn là hình thức, là công cụ để sáng tạo. Phải tu dưỡng đạo đức đã rồi hãy biết văn, nếu lòng đạo mà sung mãn rồi thì văn tự nhiên tới; nếu đạo không đủ mà tô chuốt lời văn thì một là chỉ bắt chước người trước, hai là chỉ chiều thị hiếu của thế tục, không có giá trị gì cả. Vì vậy ông phản đối kịch liệt bọn chỉ luyện thuật tiểu xảo cho văn được hoa mĩ, lời thì huêch hoang mà không có thực dụng. Từ năm 1057 trở đi, nhờ có quyền hành trong triều, nhờ làm chủ khảo các kì thi, ông càng tận lực đề cao lối văn bình dị, giản minh; những bài nào kêu mà rỗng, đẹp mà sáo hoặc vô dụng cho nhân sinh, ông đều đánh hỏng cả. Triều đình và dân gian có một số đông phản đối, oán trách, ông vẫn giữ chủ trương, riết rồi phong trào phải chuyển hướng theo ông. Đương thời những bậc anh tài như Vương An Thạch, Tăng Củng, Tô Thức, Tô Triệt theo chủ trương của ông, đều nhờ ông mà đổ cao và nổi danh. Như vậy ông là bậc thầy trên văn đàn và đã có công đào tạo nhiều văn sĩ lỗi lạc.

Tuy trọng nội dung, ông không hề coi thường hình thức. Văn của ông nghiêm chỉnh, sáng sủa, uyển chuyển, rất nhiều tình cảm, đôi khi hùng hồn. Có người đã ví văn của Hàn Dũ với những lớp sóng trong biển động, lên xuống bất thường, dào dạt, lôi cuốn, mà văn của Âu Dương Tu như mặt hồ trong trẽo, phẳng lặng, tuy có lúc gợn sóng nhưng xét chung là bình đạm, minh bạch. Đọc những bài trích ở sau, độc giả sẽ thấy lời đó đúng.

Âu Dương Tu sáng tác rất nhiều. Về sử, ngoài bộ Đường thư do vua sai soạn, còn bộ Ngũ Đại sử do ông tự ý soạn. Ông lại thu thập và phê bình rất nhiều tài liệu cổ, thành bộ Tập cổ lục. Ngoài ra còn bộ Cư sĩ tập 153 quyển, bộ Thi bản nghĩa 16 quyển, bộ Lục Nhất từ 3 quyển (Lục Nhất là tên hiệu của ông[2], tên hiệu nữa là Tuý Ông: ông lão say) và tập Lục Nhất thi thoại 1 quyển.

Tô Thức phê bình văn của ông, bảo: “Luận về đạo lớn thì tựa như Hàn Dũ, luận về việc nước thì tựa Lục Chí (một văn sĩ đời Đường giỏi về văn tấu nghị), viết văn kí thì như Tư Mã Thiên, mà thơ phú thì tựa Lí Bạch”. Lời khen đó cũng đúng một phần nào.

Về cổ văn ông lưu lại nhiều bài bất hủ. Chúng tôi sẽ trích của ông sáu bài về các thể loại khác nhau: hai bài nghị luận, một bài đề tựa một tập thơ, một bài kí, một bài phú và một bài biểu.

NGUYÊN VĂN

醉翁亭記

環滁皆山也。其西南諸峰林壑尤美;望之蔚然而深秀者,琅琊也。山行六七里,漸聞水聲潺潺而瀉出於兩峰之間者,釀泉也。

峰回路轉,有亭翼然臨於泉上者,醉翁亭也。作亭者誰?山之僧智仙也。名之者誰?太守自謂也。

太守與客來飲於此,飲少輒醉,而年又最高,故自號曰醉翁也。醉翁之意,不在酒,在乎山水之間也。山水之樂,得之心而寓之酒也。

若夫日出而林霏開,雲歸而巖穴暝;晦明變化者,山間之朝暮也。野芳發而幽香,佳木秀而繁陰,風霜高潔,水落而石出者,山間之四時也。朝而往,暮而歸,四時之景不同,而樂亦無窮也。至於負者歌於途,行者休於樹,前者呼,後者應,傴僂提攜,往來而不絕者,滁人遊也。

臨溪而漁,溪深而魚肥;釀泉爲酒,泉香而酒冽;山餚野蔌,雜然而前陳者,太守宴也。宴酣之樂,非絲非竹,射者中,弈者勝,觥籌交錯,起坐而喧嘩者,衆賓歡也。蒼顔白髮,頹然乎其中者,太守醉也。

已而夕陽在山,人影散亂,太守歸而賓客從也。樹林陰翳,鳴聲上下,遊人去而禽鳥樂也。然而禽鳥知山林之樂,而不知人之樂;人知從太守遊而樂,而不知太守之樂其樂也。醉能同其樂,醒能述以文者,太守也。太守謂誰?廬陵歐陽修也。

PHIÊN ÂM

TUÝ ÔNG ĐÌNH KÍ

Hoàn Trừ giai sơn dã. Kì tây nam chư phong lâm hác vưu mĩ; vọng chi uý nhiên nhi thâm tú giả, Lang Da dã. Sơn hành lục thất lí, tiệm văn thuỷ thanh sàn sàn, nhi tả xuất ư lưỡng phong chi gian giả, Nhưỡng tuyền dã.

Phong hồi lộ chuyển, hữu đình dực nhiên lâm ư tuyền thượng giả, Tuý Ông đình dã. Tác đình giả thuỳ? Sơn chi tăng Trí Tiên dã. Danh chi giả thuỳ? Thái thú tự vị dã.

Thái thú dữ khách lai ẩm ư thử, ẩm thiếu chiếp tuý, nhi niên hựu tối cao, cố tự hiệu viết Tuý Ông dã. Tuý Ông chi ý, bất tại tửu, tại hồ sơn thuỷ chi gian dã. Sơn thuỷ chi lạc, đắc chi tâm nhi ngụ chi tửu dã.

Nhược phù nhật xuất nhi lâm phi khai, vân qui nhi nham huyệt minh; hối minh biến hoá giả, sơn gian chi triêu mộ dã. Dã phương phát nhi u hương, giai mộc tú nhi phồn âm, phong sương cao khiết, thuỷ lạc nhi thạch xuất giả, sơn gian chi tứ thời dã. Triêu nhi vãng, mô nhi qui, tứ thời chi cảnh bất đồng, nhi lạc diệc vô cùng dã. Chí ư phụ giả ca ư đồ, hành giả hưu ư thụ, tiền giả hô, hậu giả ứng, ủ lũ đề huề, vãng lai nhi bất tuyệt giả, Trừ nhân du dã.

Lâm khê chi ngư, khuê thâm nhi ngư phì; nhưỡng tuyền vi tửu, tuyền hương chi tửu liệt; sơn hào dã tốc, tạp nhiên nhi tiền trần giả, thái thú yến dã. Yến hàm chi lạc, phi ti phi trúc, sạ giả trúng, dịch giả thắng, quang trù giao thác, khởi toạ nhi huyên hoa giả, chúng tân hoan dã. Thương nhan bạch phát, đồi nhiên hồ kì trung giả, thái thú tuý dã.

Dĩ nhi tịch dương tại sơn, nhân ảnh tán loạn, thái thú qui nhi tân khách tòng dã. Thụ lâm âm ế, minh thanh thượng hạ, du nhân khứ nhi cầm điểu lạc dã. Nhiên nhi cầm điểu tri sơn lâm chi lạc, nhi bất tri nhân chi lạc; nhân nhi tòng thái thú du nhi lạc, nhi bất tri thái thú chi lạc kì lạc dạ. Tuý năng đồng kì lạc, tỉnh năng thuật dĩ văn giả, thái thú dã. Thái thú vị thuỳ? Lô Lăng Âu Dương Tu dã.

DỊCH NGHĨA

BÀI KÍ “ĐÌNH ÔNG LÃO SAY”

Chung quanh đất Trừ[3] đều là núi. Ở phía tây nam, núi non rừng suối càng đẹp, nhìn thấy um tùm thanh tú là ngọn Lang Da[4]. Theo núi đi sáu bảy dặm, dần nghe tiếng nước ào ào chảy ra giữa hai ngọn núi, đó là suối Nhưỡng[5].

Núi quanh co, đường uốn khúc; có ngôi đình như dương cánh trên bờ suối, đó là đình Ông Lão Say. Dựng đình đó là ai? Là nhà sư trên núi tên là Trí Tiên vậy. Đặt tên đình đó là ai? Là quan Thái thú tự xưng vậy[6].

Thái thú và khách khứa lại uống rượu nơi đó, mới uống ít mà đã say, tuổi lại cao lắm, nên tự đặt tên hiệu là Ông Lão Say. Ý say trong tên đó không phải say tại rượu mà tại sơn thuỷ vậy. Cái vui phong cảnh thấy trong lòng mà ngụ trong rượu vậy.

Mặt trời mọc mà màn sương rừng hé mở; mây bay về hang hoá tối; tối sáng biến hoá, đó là cảnh sáng chiều trong núi vậy. Cỏ thơm mọc trong đồng nội mà hương u nhã, cây cao tốt mà bóng dày; gió sương trong sạch, nước rút đá nhô; đó là cảnh bốn mùa trong núi vậy. Sớm đi tối về, cảnh bốn mùa không giống nhau mà cái vui vô cùng vậy. Đến như kẻ đội vác hát trên đường, kẻ bộ hành nghĩ dưới gốc cây, người trước hô, kẻ sau ứng, lom khom đề huề qua lại không ngớt, đó là người đất Trừ đi chơi vậy.

Vào ngòi câu cá, ngòi sâu mà cá mập; cất nước suối làm rượu, nước suối thơm mà rượu trong; thịt thú, rau đồng la liệt ở trước đó là bữa yến của Thái thú vậy. Yến ẩm vui say, không đờn không sáo, đầu hồ thì trúng, đánh cờ thì thắng; chén thẻ[7] ngổn ngang; ngồi đứng ồn ào, đó là khách khứa vui thích vậy. Da xanh, tóc bạc, ngả nghiêng giữa đám, đó là Thái thú say vậy.

Rồi mà tịch dương hiện trên núi, bóng người tán loạn, Thái thu về mà khách khứa theo sau vậy. Cây rừng âm u, chim kêu cao thấp, khách chơi đi hết mà chim chóc vui hót vậy.

Song chim biết cái vui của rừng núi mà không biết cái vui của người; người biết theo chơi với Thái thú mà vui, nhưng không biết rằng Thái thú vui cái vui của họ vậy. Say biết cùng vui với họ, tỉnh chép lại thành văn, đó là Thái thú vậy. Thái thú là ai? Là Âu Dương Tu ở Lô Lăng[8] vậy.

NHẬN ĐỊNH

Đọc bài này không thể không lây cái vui của tác giả. Cứ cuối mỗi câu, tác giả lại hạ một chữ “dã” nghĩa là vậy; ngâm tới, ta có cảm tưởng như thấy ông gật gù cái đầu, ngà ngà say mà thích chí. Sợ độc giả không quen tai, chúng tôi phải bỏ nhiều chữ dã đó đi, chỉ dịch vừa vừa cho có thôi.

Bài văn ngắn mà tả đủ cả: từ đất Trừ, lần lần gom lại tới núi Lang Da, tới suối Nhưỡng, tới ngôi đình, tới tên đình rồi tới tác giả.

Đoạn sau tả cảnh sáng chiều, cảnh bốn mùa, cảnh người trong miền đi chơi, toàn bằng vài nét phát như một bức tranh thủy mặc.

Tới cái vui trong bữa tiệc thanh đạm, ông tả kĩ hơn cho hợp với tên đình. Ta thấy cái vui của tác giả bình dân mà cao nhã: vui vì thấy người khác vui, vui vì phong cảnh và tiếng chim, chứ không phải vì rượu (ứng với câu “Tuý Ông chi ý, bất tại tửu, tại hồ sơn thuỷ chi gian” ở trên).

Đoạn kết (từ “Nhiên nhi cầm điểu tri sơn lâm chi lạc…”) lời rất bình dị mà ý thâm trầm, lòng ông phơi phới, vì chếch choáng chăng, vì khoáng đạt chăng?

Toàn bài bút mau lời nhẹ

Chú thích:

[1] Bản nguồn chép thiếu Tô Tuân (cha của Tô Thức, tức Tô Đông Pha, và Tô Triệt). (Goldfish).

[2] Sở dĩ ông tự đặt tên đó là vì ông có sáu cái một: một vạn quyển sách, một ngàn cuốn Tập cổ lục, một cây đàn cầm, một bàn cờ, một hồ rượu và một thân ông lão (tức thân ông).

[3] Trừ là tên châu, nay là tên huyện, ở tỉnh An Huy.

[4] Lang Da là một ngọn núi ở tây nam châu Trừ.

[5] Nhưỡng chính nghĩa là gây rượu. Phải chăng dân trong miền dùng nước suối ấy để gây rượu nên đặt tên cho suối như vậy.

[6] Âu Dương Tu làm Thái thú nơi đó, tự gọi mình là Ông Lão Say rồi lấy tên đó đặt tên cho đình (đình là ngôi nhà để nghỉ mát).

[7] Thẻ: phạt ai uống rượu thì phải dùng thẻ để ghi.

[8] Lô Lăng (cũng đọc là Lư Lăng): tức quận Lô Lăng, nay thuộc thành phố Cát An, tỉnh Giang Tây (tỉnh này bắc giáp với tỉnh An Huy). (Goldfish).