← Quay lại trang sách

11. KÍ ÂU DƯƠNG XÁ NHÂN THƯ TĂNG CỦNG

Cổ nhân nói: “Có ba điều hận: một là hoa hải đường không hương, hai là cá cháy nhiều xương, ba là Tăng Tử Cố không biết làm thơ”. Tử Cố là tên tự của Tăng Củng. Đứng trong hàng bát đại gia, nhưng Tăng Củng không có tên trong các văn học sử vì ông không lưu lại một tác phẩm nào quan trọng, lại không biết làm thơ, làm từ.

Ông nhỏ hơn Âu Dương Tu mười hai tuổi, quê ở Kiến Xương, làng Nam Phong, sanh năm 1019, mất năm 1083… Mười hai tuổi đã nổi danh về văn chương, Âu Dương Tu cho là kì tài. Năm 1057, ông đậu Tiến sĩ rồi làm Tư pháp tham quân ở Thái Bình Châu, sau làm Thông phán ở Việt Châu, Tề Châu… Ông thanh liêm, mẫn cán, thẳng tay trị những quân gian tà, trộm cướp, cứu giúp dân chúng trong những năm bệnh dịch hoành hành ở Giang Tây; nhưng không chịu luồn cúi, nên phải làm quan ở ngoài. Sau vua Thần Tôn vời ông về triều, ông dâng sớ xin giảm tất cả các kinh phí, tiết dụng tới triệt để; vua khen nhưng không thi hành, bổ ông vào sử quán. Ông không có tư tưởng gì đặc sắc về chính trị, hình như cũng không tham gia tân đảng hay cựu đảng, nên thời vua Thần Tôn, một chính khách, Lữ Công Trứ, đã phê bình ông giỏi văn mà kém về chính sự.

Văn của ông có nhiều ý đột ngột, châm chước Tư Mã Thiên và Hàn Dũ. Còn lưu lại bộ Nguyên Phong loại cảo. Các bộ Cổ văn chỉ trích của ông có ba bài: Kí Âu Dương Tu xá nhân thư, Tặng Lê, An nhị sinh tự và Việt Châu Triệu Công cứu tai kí; chúng tôi xin giới thiệu hai bài trên.

NGUYÊN VĂN

寄歐陽舍人書

去秋人還,蒙賜書,及所撰先大父墓碑銘,反復觀誦,感與慚並!

夫銘志之著於世,義近於史,而亦有與史異者。蓋史之於善惡,無所不書;而銘者,蓋古之人有功德,材行,志義之美者,懼後世之不知,則必銘而見之,或納於廟,或存於墓,一也。苟其人之惡,則於銘乎何有?此其所以與史異也。

其辭之作,所以使死者無有所憾,生者得致其嚴;而善人喜於見傳,則勇於自立;惡人無有所紀,則以愧而懼。至於通材達識,義烈節士,嘉言善狀,皆見於篇,則足為後法。警勸之道,非近乎史,其將安近?

及世之衰,人之子孫者,一欲褒揚其親,而不本乎理;故雖惡人,皆務勒銘,以誇後世。立言者,既莫之拒而不為。又以其子孫之所請也,書其惡焉,則人情之所不得;於是乎銘始不實。後之作銘者,當觀其人,茍託之非人,則書之非公與是,則不足以行世而傳後。故千百年來,公卿大夫至於里巷之士,莫不有銘,而傳者蓋少;其故非他,託之非人,書之非公 與是故也。

然則孰為其人,而能盡公與是歟?非畜道德而能文章者,無以為也。蓋有道德者之於惡人,則不受而銘之;於眾人,則能辨焉。而人之行,有情善而跡非,有意姦而外淑,有善惡相懸而不可以實指,有實大於名,有名侈於實;猶之用人,非畜道德者,惡能辨之不惑,議之不徇?不惑不徇,則公且是矣!而其辭之不工,則世猶不傳,於是又在其文章兼勝焉。故 曰﹕非畜道德而能文章者,無以為也。豈非然哉?

然畜道德而能文章者,雖或並世而有,亦或數十年或一二百年而有之。其傳之難如此,其遇之難又如此。若先生之道德文章,固所謂數百年而有者也。先祖之言行卓卓,幸遇而得銘,其公與是,其傳世行後,無疑也。

而世之學者,每觀傳記所書古人之事,至於所可感,則往往齂然不之涕之流落也,況其子孫也哉?況鞏也哉?其追晞祖德,而思所以傳之之由,則知先生推一賜於鞏,而及其三世;其感與報,宜若何而圖之?

抑又思若鞏之淺薄滯拙,而先生進之,先祖父之屯蹶否塞以死,而先生顯之,則世之魁閎豪傑不世出之士,其誰不願於進於門?潛道幽抑之士,其誰不有望於世?善誰不為?而惡誰不愧以懼?為人之父祖者,孰不欲教其子孫?為人之子孫者,孰不欲寵榮其父祖?此數美 者,一歸於先生。

既拜賜之辱,且敢進其所以然。所論世族之次,敢不承教而加詳焉。愧甚不宣。

PHIÊN ÂM

KÍ ÂU DƯƠNG XÁ NHÂN THƯ

Khử thu nhân hoàn, mông tứ thư, cập sở soạn tiên đại phụ mộ bi minh, phản phúc quan tụng, cảm dữ tàm tịnh!

Phù minh chí chi trứ ư thế, nghĩa cận ư sử, nhi diệc hữu dữ sử dị giả. Cái sử chi ư thiện ác, vô sở bất thư; nhi minh giả, cái cổ chi nhân hữu công đức, tài hạnh, chí nghĩa chi mĩ giả, cụ hậu thế chi bất tri, tắc tất minh nhi hiện chi, hoặc nạp ư miếu, hoặc tiến ư mộ, nhất dã. Cẩu kì nhân chi ác, tắc ư minh hồ hà hữu? Thử kì sở dĩ dữ sử dị dã.

Kì từ chi tác, sở dĩ sử tử giả vô hữu sở hám, sinh giả đắc trí kì nghiêm; nhi thiện nhân hỉ ư kiến truyền, tắc dũng ư tự lập; ác nhân vô hữu sở ki, tắc dĩ quí nhi cụ. Chí ư thông tài đạt thức, nghĩa liệt tiết sĩ, gia ngôn thiện trạng, giai hiện ư thiên, tắc túc vi hậu pháp. Cảnh khuyến chi đạo, phi cận hồ sử, kì tương an cận?

Cập[1] thế chi suy, nhân chi tử tôn giả, nhất dục bao dương kì thân, nhi bất bản hồ lí; cố tuy ác nhân, giai vụ lặc minh, dĩ khoa hậu thế. Lập ngôn giả, kí mạc chi cự nhi bất vi. Hựu dĩ kì tử tôn chi sở thỉnh dã, thư kì ác yên, tắc nhân tình chi sở bất đắc; ư thị hồ minh thuỷ bất thực. Hậu chi tác minh giả, đương quan kì nhân, cẩu thác chi phi nhân, tắc thư chi phi công dữ thị, tắc bất túc dĩ hành thế nhi truyền hậu. Cố thiên bách niên lai, công khanh đại phu chí ư lí hạng chi sĩ, mạc bất hữu minh, nhi truyền giả cái thiểu; kì cố phi tha, thác chi phi nhân, thư chi phi công dữ thị cố dã.

Nhiên tắc thục nhi kì nhân, nhi năng tận công dữ thị dư? Phi húc đạo đức nhi năng văn chương giả, vô dĩ vi dã. Cái hữu đạo đức giả chi ư ác nhân, tắc bất thụ nhi minh chi; ư chúng nhân, tắc năng biện yên. Nhi nhân chi hành, hữu tình thiện nhi tích phi, hữu ý gian nhi ngoại thục, hữu thiện ác tương huyền nhi bất khả dĩ thực chỉ, hữu thực đại ư danh, hữu danh xỉ ư thực; do chi dụng nhân, phi húc đạo đức giả, ô năng biện chi bất hoặc, nghị chi bất tuẫn? Bất hoặc bất tuẫn, tắc công thả thị hĩ! Nhi kì từ chi bất công, tắc thế do bất tuyền, ư thị hựu tại kì văn chương kiêm thắng yên. Cố viết: “Phi húc đạo đức nhi năng văn chương giả, vô dĩ vi dã. Khởi phi nhiên tai?

Nhiên súc đạo đức nhi năng văn chương giả, tuy hoặc tịnh thế nhi hữu, diệc hoặc sổ thập niên hoặc nhất, nhị bách niên nhi hữu chi. Kì truyền chi nan như thử, kì ngộ chi nan hựu như thử. Nhược Tiên sinh chi đạo đức văn chương, cố sở vị sổ bách niên nhi hữu giả dã. Tiên tổ chi ngôn hành trác trác, hạnh ngộ nhi đắc minh, kì công dữ thị, kì truyền thế hành hậu, vô nghi dã[2].

Nhi thế chi học giả, mỗi quan truyện kí sở thư cổ nhân chi sự, chí ư sở khả cảm, tắc vãng vãng hức nhiên bất chi thế chi lưu lạc dã; huống kì tử tôn dã tai? Huống Củng dã tai? Kì truy hi tổ đức, nhi tư sở dĩ truyền chi chi do, tắc tri Tiên sinh thôi nhất tứ ư Củng, nhi cập kì tam thế; kì cảm dữ báo, nghi nhược hà nhi đồ chi?

Ức hựu tư nhược Củng chi thiển bạc trệ chuyết, nhi Tiên sinh tiến chi, tiên tổ phụ chi truân quệ bĩ tắc dĩ tử, nhi Tiên sinh hiển chi, tắc thế chi khôi hoành hào kiệt bất thế xuất chi sĩ, kì thuỳ bất nguyện tiến ư môn? Tiềm đạo u ức chi sĩ, kì thuỳ bất hữu vọng ư thế? Thiện thuỳ bất vi? Nhi ác thì bất quí dĩ cụ? Vi nhân chi phụ tổ giả, thục bất dục giáo kì tử tôn? Vi nhân chi tử tôn giả, thục bất dục sủng vinh kì phụ tổ? Thử sổ mĩ giả, nhất qui ư Tiên sinh.

Kì bái tứ chi nhục, thả cảm tiến kì sở dĩ nhiên. Sở luận[3] thế tộc chi thứ, cảm bất thừa giáo nhi gia tường yên. Quí thậm bất tuyên.

DỊCH NGHĨA

THƯ GỞI QUAN XÁ NHÂN HỌ ÂU DƯƠNG[4]

Mùa thu năm ngoái, nhân có người về, tôi đội ơn ngài gởi thư và bài ngài soạn để khắc vào mộ chí ông tôi. Tôi đọc đi đọc lại, vừa cảm động vừa thẹn thùng!

Bài minh[5] khắc để đời, nghĩa gần với sử mà cũng có chỗ khác sử. Sử, đối với việc thiện việc ác, không việc gì không chép; còn minh là nhân người xưa có công đức tài hạnh, chí lớn, nghĩa cao, sợ người sau không biết mới đem khắc mà biểu lộ ra, dù dâng vào miếu hoặc đặt ở mộ, nghĩa cũng là một. Nếu người đó ác thì có gì mà ghi? Minh với sử khác nhau ở chỗ đó.

Lời minh viết ra cốt để người chết không có gì di hận mà kẻ sống thì khi đọc, hết sức tôn kính; người thiện vui vẻ mong được người ta truyền danh mình mà mạnh bạo tự lập[6]; còn kẻ ác, không có điều gì đáng ghi thì thẹn mà sợ. Còn như tài cao, học rộng, đức tháo vào hàng liệt sĩ, tiết sĩ, những lời hay, những việc tốt, thấy ở trong bài minh, đều có thể làm phép tắc cho đời sau. Cái đạo khuyên răn ấy, không giống với sử thì giống với cái gì?

Đến khi thế đạo suy vi, con cháu muốn khoa dương ông cha mình mà không căn cứ vào lí, nên tuy ông cha là ác, cũng cầu ghi vào bia để khoe với hậu thế. Kẻ lập ngôn[7] không cự tuyệt mà không viết, thấy con cháu người ta xin, nếu chép cả điều ác của người ta thì không hợp với nhân tình, do đó sự soạn minh mới không được đúng sự thực. Người sau có viết minh thì phải xét người mình viết cho. Nếu người cậy mình viết[8] mà không xứng đáng thì chép sẽ không công bằng mà sai sự thực; như vậy tất không sao truyền lại được hậu thế. Cho nên trăm ngàn năm trở lại đây, từ bậc công khanh đại phu đến kẻ sĩ trong làng trong ngõ, chết rồi ai cũng có bài minh mà những bài được truyền lại rất ít, cũng do lẽ ấy: người cậy viết thì không xứng đáng mà người viết thì không công bằng, không chép đúng sự thực.

Vậy thì người ai là người có thể hết sức công bằng và chép đúng sự thực? Hễ không phải là người đạo đức và giỏi văn thì làm việc ấy không được; vì người đạo đức đối với kẻ ác, tất không chịu nhận mà viết minh cho, mà đối với mọi người thì xét rõ được tối hay xấu. Hành vi của con người, có khi tình thì thiện mà việc thì ác, trong lòng gian mà bề ngoài tốt; có khi thiện ác liên quan với nhau mà không thể chỉ đúng ra được là thiện hay ác; có khi thực lớn hơn danh, có khi danh lớn hơn thực; nên khi cậy người viết minh, nếu không phải là người đạo đức thì làm sao phân biệt cho khỏi nghi hoặc, nghi luận cho khỏi thiên kiến. Không nghi hoặc, hoặc không thiên kiến tức là công bằng và đúng sự thực. Nhưng nếu lời không khéo thì không được đời truyền lại, nên người đó lại cần có văn tài hơn người nữa. Cho nên tôi nói rằng: “Không phải là người đạo đức và giỏi văn thì không viết minh được”. Há chẳng đúng như vậy ư?

Song người đạo đức, giỏi văn có khi cùng sống với ta, có khi vài mươi năm, một hai trăm năm mới có. Viết minh mà truyền lại được hậu thế đã là khó như vậy. Người có đạo đức và văn chương như ngài, có thể nói là vài trăm năm mới gặp được. Ngôn hành trác việt của ông tôi may được ngài ghi một cách công bằng và xác thực, tất được truyền lại hậu thế, không còn ngờ gì nữa.

Kẻ học giả trong đời mỗi khi coi những truyện kí chép việc cổ nhân, đến chỗ cảm động thường đau xót, rỏ lệ mà không hay. Kẻ học giả xa lạ mà còn vậy, huống hồ là con cháu trong nhà, huống hồ là Củng tôi! Xét việc ngài muốn truy mộ đức của ông tôi với lí do ngài muốn ghi truyền những đức đó lại thì biết rằng ngài gia ân cho Củng tôi mà luôn đến cả ba đời nhà tôi[9]. Tôi cảm kích lắm, không biết báo đáp cách nào đây?

Vả lại ngài nghĩ rằng Củng tôi học lực thô thiển, tư cách ngu độn mà muốn dắt dẫn tôi; nghĩ tổ tiên tôi gian truân khốn khổ đến lúc mất mà muốn biểu dương cho; thế thì những kẻ anh hùng hào kiệt, những kẻ sĩ tột vời, ai là người không tình nguyện xin vào cửa nhà ngài? Những kẻ ẩn lánh u uất, ai là người không hi vọng ở đời? Điều thiện ai là không làm mà việc ác ai là không thẹn, không sợ? Bực cha, ông ai không muốn dạy con, cháu? Hàng con, cháu ai không muốn kính yêu cha, ông, làm vẻ vang cha, ông? Những điều tốt đẹp đó là do công của ngài cả.

Tôi đã mang ơn ngài cho bài minh, lại dám dâng ngài những lí do vì sao tôi mang ơn. Còn những điều ngài khuyên về việc ghi thứ tự trong họ thì tôi xin ghi lời mà chép thêm cho rõ ràng. Tôi thẹn thùng lắm, không bày tỏ hết được.

NHẬN ĐỊNH

Kĩ thuật bài này khá đặc biệt.

Mới đầu tác giả xét chung hai lối văn: sử và minh, rồi xét riêng phép viết minh, tư cách cần có của người viết minh (có đạo đức, giỏi văn chương), sau thu hẹp lại mà nói riêng về tài đức Âu Dương Tu, về ân huệ Âu Dương Tu ban cho gia đình mình. Tới đây, mục đích bức thư đã đạt rồi, tác giả có thể chấm dứt được; nhưng không, ông lại mở rộng ra mà thay lời những kẻ sĩ đương thời và đời sau, cảm ơn Âu Dương Tu một lần nữa, và ta càng nhận rõ ràng minh quả thực giống sử (ý đầu bài). Thành thử, ý trong bài như xoắn ốc, từ một vòng tròn lớn thu lần lại tới trung tâm, toả ngược ra mà bao quát cả người đương thời và đời sau, bắt được cái vòng tròn khởi thuỷ.

Ý cuồn cuộn như không muốn dứt, chưa hết đợt nọ đã đến đợt kia, mà sự chuyển tiếp rất tự nhiên: có khi chỉ dùng một chữ nhi 而 cũng đủ, mà phép dùng chữ nhi ở đầu câu, khác hẳn mọi người, tựa như cẩu thả mà thực ra, chỉ là tự nhiên (nhi nhân chi hành, hữu tình thiện…; nhi kì từ chi bất công…; nhi thế chi học giả mỗi quan…). Lí luận minh bạch mà xác đáng: nhãn tự trong bài là bốn chữ: đạo đức và văn chương, tác giả đã khéo dùng nó để ca tụng Âu Dương Tu và gián tiếp gián tiếp ca tụng ông nội[10] mình nữa.

Chỉ là một bức thư xã giao, nhưng nhờ tình cảm chân thành và bút pháp tài tình mà Quá Thương hầu khen là “thiên niên tuyệt diệu”.

Chú thích:

[1] Cập 及: Trong ĐCVHSTQ chép là: hậu 後. (Goldfish).

[2] Đoạn “Nhiên súc đạo đức… vô nghi dã” bản nguồn không có, tôi chép từ bộ ĐCVHSTQ. (Goldfish)

[3] Luận: nguyên văn là: 論 (nghĩa là bàn bạc). Nhiều bản, như Cổ văn quan chỉ (http://202.101.244.103/guoxue/%E5%85%B6%E4%BB%96%E5%8E%86%E5%8F%B2%E4%B9%A6%E7%B1%8D/%E8%BE%91%E6%B3%A8%E7%B1%BB/%E5%8F%A4%E6%96%87%E8%A7%82%E6%AD%A2/ob/16.htm), chép là dụ 諭 (có nghĩa là chỉ bảo), chữ này hợp với lời dịch (khuyên) ở dưới hơn. (Goldfish).

[4] Xá nhân là một chức quan, mỗi thời một khác. Xét chung thì là chức quan ở trong cung hay triều đình. Có những chức Thông sự xá nhân, Trung thư xá nhân, Khởi cư xá nhân… Hồi này Âu Dương Tu có lẽ làm Trung thư xá nhân.

[5] Minh là bài ghi công đức một người hoặc chép những lời để khuyên mình, khuyên trẻ. Đây là bài để ghi công đức người chết.

[6] Chữ tự lập này có nghĩa khác với nghĩa ngày nay. Tự lập là tự tu thân luyện đức để thành người.

[7] Tức những người viết văn có ý răn đời hoặc truyền bá một học thuyết. Ở đây trỏ người viết minh.

[8] Tức người chết mà mình viết minh để ca tụng công đức.

[9] Tức từ đời ông nội tác giả đến đời tác giả.

[10] Ông nội của Tăng Củng là Trí Nghiêu, thời Ngũ Đại Thập Quốc ở ẩn, không chịu ra làm quan, chỉ chuyên tâm nghiên cứu, sáng tác (có hơn trăm cuốn văn tập); đến đời Tống Thái Tôn (976-997) mới ra làm Lại bộ Lang trung, Trực sử quán. (theo http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C4%83ng_C%E1%BB%A7ng). (Goldfish).