12. TƯ MÃ QUÍ CHỦ LUẬN BỐC LƯU CƠ
Lưu Cơ, tự là Bá Ôn (1311-1375), nhỏ hơn Tống Liêm một tuổi, người ở Thanh Điền (nay thuộc tỉnh Chiết Gang), cũng được thầy học khen là rất dĩnh ngộ. Hồi 21, 22 tuổi đậu tiến sĩ, làm quan, nhưng tính tình ngay thẳng… mấy lần hoặc xin thôi hoặc bị bãi chức.
Đến khi Minh Thái Tổ chiếm được Kim Hoa, nghe danh ông và Tống Liêm, vời ông hai lần ông mới chịu ra, dâng một quốc sách gồm 18 điều, vua rất khen, dựng Lễ hiền quán để đón ông lại ở. Minh Thái Tổ dựng được nghiệp một phần nhờ mưu lược của ông, nên khi lên ngôi, phong ông chức Ngự sử trung thừa kiêm chức Thái sử lệnh. Ông bàn về cách đặt ra ra quân vệ, thu thuế, vua nghe theo; nhưng chính sách của ông quá nghiêm, nên có nhiều người oán, sàm báng, ông xin lui về vườn. Sau vua hối hận, lại vời ra, ban tước Thành Ý bá.
Ông tính tình khẳng khái, bàn việc nước, có điều gì bất bình thì sắc giận hiện trên mặt, nên vua Minh Thái Tổ nhiều khi cũng phải nể, gọi ông là “Lão tiên sinh”, và có lần bảo: “Ông là Tử Phòng[1] của trẫm”.
Ông cũng ở trong phái phục cổ như Tống Liêm, văn chương hơi có kì khí, thơ có giọng trầm uất đốn toả. Ông lưu lại bộ Thánh Ý bà văn tập gồm hai chục quyển.
NGUYÊN VĂN
司馬季主論卜
東陵侯既廢,過司馬季主而卜焉。季主曰:“君侯何卜也?”東陵侯曰:“久臥者思起,久蟄者思啓,久懣者思嚏。吾聞之:“蓄極則泄,閟極則達,熱極則風,壅極則通。一冬一春,靡屈不伸;一起一伏,無往不復”。僕竊有疑,願受教焉。”
季主曰:“若是,則君侯已喻之矣,又何卜為?”
東陵侯曰:“僕未究其奧也,願先生卒教之。”
季主乃言曰:“嗚呼!天道何親?惟德之親;鬼神何靈?因人而靈。夫蓍,枯草也;龜,枯骨也,物也。人,靈於物者也,何不自聽而聽於物乎?且君侯何不思昔者也?有昔者必有今日。是故碎瓦頹垣,昔日之歌樓舞館也;荒榛斷梗,昔日之瓊蕤玉樹也;露蠶風蟬,昔日之鳳笙龍笛也;鬼燐螢火,昔日之金缸華燭也;秋荼春薺,昔日之象白駝峰也;丹楓白荻,昔日之蜀錦齊紈也。昔日之所無,今日有之不為過;昔日之所有,今日無之不為不足。是故一晝一夜,華開者謝;一春一秋,物故者新;激湍之下,必有深潭;高丘之下,必有浚谷。君侯亦知之矣,何以卜為?
PHIÊN ÂM
TƯ MÃ QUÍ CHỦ LUẬN BỐC
Đông Lăng hầu kí phế, quá Tư Mã Quí Chủ nhi bốc yên. Quí Chủ viết: “Quân hầu hà bốc dã?” Đông Lăng hầu viết: “Cửu ngoạ giả tư khởi, cửu chập giả tư khải; cửu muộn giả tư sí[3]. Ngô văn chi: “Súc cực tắt tiết, bí cực tắt đạt, nhiệt cực tắc phong, ủng cực tắc thông, nhất đông nhất xuân, mĩ khuất bất thân; nhất khởi nhất phục, vô vãng bất phục”. Phó thiết hữu nghi, nguyện thụ giáo yên”.
Quí chủ viết: “Nhược thị tắc quân hầu dĩ dụ chi hĩ, hựu hà bốc vi?”
Đông Lăng hầu viết: “Phó vị cứu kì áo dã, nguyện tiên sinh tốt giáo chi”.
Quí chủ nãi ngôn viết: “Ô hô! Thiên đạo hà thân? Duy đức chi thân. Quỉ thần hà linh? Nhân nhân nhi linh. Phu thi, khô thảo dã; qui, khô cốt dã, vật dã. Nhân, linh ư vật giả dã, hà bất tự thính nhi thính ư vật hồ? Thả quân hầu hà bất tư tích giả dã? Hữu tích giả tất hữu kim nhật. Thị cố toái ngõa đồi viên, tích nhật chi ca lâu vũ quán dã; hoang chăn[4] đoạn ngạnh, tích nhật chi quỳnh nhuy ngọc thụ dã; lộ tàm phong thiền, tích nhật chi Phượng sênh, Long địch dã; quỉ lân huỳnh hỏa, tích nhật chi kim cang hoa chúc dã; thu đồ xuân tề, tích nhật chi tượng tị[5] đà phong dã; đan phong bạch địch, tích nhật chi Thục cẩm Tề hoàn dã. Tích nhật chi sở vô, kim nhật hữu chi bất vi quá; tích nhật chi sở hữu, kim nhật vô chi bất vi bất túc. Thị cố nhất trú nhất dạ, hoa khai giả tạ, nhất xuân nhất thu, vật cố giả tân; kích thoan chi hạ, tất hữu thâm đàm, cao khâu chi hạ, tất hữu tuấn cốc. Quân hầu diệc tri chi hĩ, hà dĩ bốc vi?”.
DỊCH NGHĨA
TƯ MÃ QUÍ CHỦ LUẬN VỀ BÓI
Đông Lăng hầu[6] bị phế, lại Tư Mã Quí Chủ[7] xin bói.
Quí Chủ hỏi: “Quân hầu[8] bói việc gì?
Đông Lăng hầu đáp: “Nằm lâu muốn dậy, giam hãm lâu muốn thông thả, buồn bã lâu muốn hắt hơi…[9] Tôi nghe rằng: “Chứa đã cực rồi thì tiết ra, bế tắc đã cực rồi thì thông đạt, nóng cực rồi thì nổi gió, lấp đã cực rồi thì thông, đông rồi sang xuân, không gì co mà không duỗi, khởi rồi thì phục[10], không gì đi mà không lại”. Tôi trộm còn có điều nghi, xin tiên sinh chỉ bảo”.
Quí Chủ đáp: “Nếu vậy thì quân hầu đã biết rồi, còn bói làm gì?”
Đông Lăng hầu nói: “Tôi chưa thấu được lẽ sâu kín, xin tiên sinh dạy hết cho”.
Quí Chủ bảo: “Than ôi! Đạo trời thân với gì? Chỉ thân với đức[11]. Quỉ thần linh nhờ gì? Nhờ người mà linh. Cỏ thi là thứ cỏ khô, mai rùa là thứ xương khô[12], đều là vật cả. Người ta linh hơn vật, sao chẳng nghe mình mà đi nghe vật? Vả quân hầu sao không nghĩ đến ngày trước? Có ngày trước thì tất có ngày nay. Cho nên bây giờ mà tường xiêu gạch nát thì trước là ca lâu tửu quán đấy[13]; bây giờ là tầm giãi dưới sương, ve kêu trong gió thì ngày trước là những khúc Phượng sênh, Long địch[14] đấy; bây giờ là ma trơi, đom đóm thì ngày trước là đèn vàng nến hoa đấy; bây giờ là rau đồ[15] mùa thu, rau má mùa xuân thì ngày trước là cao lương mĩ vị[16] đấy; bây giờ là lá phong[17] đỏ, hoa địch[18] trắng thì ngày trước là gấm xứ Thục, lụa xứ Tề đấy. Trước kia không có mà ngày nay có, không phải là quá dư; trước kia có mà ngày nay không, không phải là không đủ. Cho nên ngày rồi tới đêm, hoa nở rồi tàn; xuân rồi đến thu, vật cũ rồi mới; dưới dòng nước chảy xiết tất có vực sâu, dưới chân núi cao tất có hang thẳm. Quân hầu biết lẽ ấy, còn bói làm gì?”
NHẬN ĐỊNH
Chúng tôi tuyển dịch bài này để độc giả so sánh với bài Bốc cư của Khuất Nguyên (coi phần I); ý tưởng giống nhau, nhưng giọng Bốc cư lâm li hơn, giọng bài này tài hoa hơn.
Câu: “Tích nhật chi sở vô, kim nhật hữu chi, bất vi quá; tích nhật chi sở hữu, kim nhật vô chi, bất vi bất túc” đáng coi là châm ngôn.
Không rõ tác giả viết bài này hồi nào. Sử chép rằng khi ông hưu trí rồi, được vua phong là Thành Ý bá, hưởng lộc 240 thạch lúa; có kẻ ghen ghét, bới móc ông, tâu với vua rằng ông muốn tìm một ngôi đất phát vương ở Đàm Dương; nhà vua giận, tuy không trị tội, nhưng tước hết hết lộc của ông, ông ủ rũ, ít lâu sau thì mất. Việc đó có liên quan gì tới bài này không?
Chú thích:
[1] Tức Trương Lương, nhà năm đời làm tướng nước Hàn, mưu giết Tần Thuỷ Hoàng để báo thù cho Hàn, nhưng thất bại; sau giúp Hán Cao Tổ lập nên nghiệp đế, được phong tước Lưu hầu.
[2] Bản nguồn không chép chữ Hán. Trên mạng có khá nhiều bản, tôi chép theo bản đăng trên trang http://www.chinapage.com/big5/prose/lug.htm vì nó phù hợp với phần phiên ân hơn các bản khác. (Goldfish).
[3] Chính là đế, ta quen đọc là sí.
[4] Chăn 榛, Thiều Chửu đọc là trăn. (Godfish).
[5] Theo Cổ Văn Quan Chỉ thì thời xưa chữ 鼻 (tị) viết là 白.
[6] Đông Lăng hầu là một nhân vật đời Tần, tên là Thiệu Bình. Khi Tần mất, bị phế phải bận áo vải, trồng dưa ở phía Đông thành Trường An để mưu sinh.
[7] Tư Mã Quí Chủ là người nước Sở đời Hán, làm nghề bói ở Trường An.
[8] Quân hầu là tiếng đời Hán dùng để gọi các người được phong hầu. Quân là tiếng tôn xưng. Các vị Thừa tướng cũng gọi là quân hầu.
[9] Nguyên văn: sí là hắt hơi, nhưng dịch là ngáp có lẽ hợp nghĩa hơn.
[10] Khởi là đứng lên, phục là cúi xuống; nghĩa bóng là thịnh rồi suy, tiến rồi lui.
[11] Ý nói: Đạo trời chỉ trọng cái đức, chỉ giúp những người có đức.
[12] Cỏ thi và mai rùa là những vật hồi xưa dùng để bói.
[13] Hoa quỳnh cây ngọc: ý nói cây cối tốt tươi.
[14] Phượng sênh, Long địch là tên những khúc nhạc. [Chữ sênh 笙, Thiều Chửu phiên âm là: sanh. (Goldfish)].
[15] Đồ là một thứ rau đắng.
[16] Nguyên văn: tương tị, đà phong là vòi con voi, bướu con lạc đà, có lẽ hồi xưa cho những cái đó là món ăn quí. (Chúng tôi phiên âm ra tương tị là theo Cổ Văn Quan Chỉ. Trong Từ Hải và Từ Nguyên, không thấy chép 白 [bạch] hồi xưa viết là 鼻 [tị] mà cũng không có chữ 象鼻. [tượng tị]. Bài Tư Mã Quí Chủ luận bốc này không thấy tuyển trong Cổ Văn Bình Chú). [Các chữ trong dấu [ ] là do tôi ghi thêm. Trang http://baike.baidu.com/view/1420095.htm giảng hai chữ tượng bạch 象白 là mỡ lá (chi phương 脂肪), tức miếng mỡ ở hai bên sườn, của con voi. (Goldfish)].
[17] Chữ phong 楓 này, có tự điển dịch là cây bàng, không chắc đúng.
[18] Địch là thứ lau mọc ở bờ nước.