← Quay lại trang sách

14. XÚC CHIỆP THUẾ TRIỆU THÁI HẬU CHIẾN QUỐC SÁCH

Thời Chiến Quốc là thời “không có bực thánh vương nào ra đời, các vua chư hầu thì phóng túng, bọn xử sĩ – tức hạng sĩ ra làm quan – thì bàn ngang luận càn”[1], thời “không dùng uy quyền thì không đứng vững được, không dùng thế lực thì không thi hành được chính trị”[2], tóm lại là thời cực loạn, kẻ cầm quyền chỉ thích chiến tranh và những thuật xảo trá.

Chiến Quốc Sách chính là một tác phẩm văn chương thời đó, chép lại những kế hoạch, những phương sách (tức phương lược và chính sách) của các nhà cầm quyền và các chính khách từ đời Chu Định vương thứ 17 (452 trước T.L), đến đời Tần Thuỷ Hoàng năm thứ 31 (216 trước T.L).

Gần đây, La Căn Trạch quả quyết rằng chính Khoái Thông, một thuyết sĩ đời Hán, đã soạn bộ Chiến Quốc Sách; nhưng thuyết đó chưa thể tin được. Theo Tư Mã Thiên thì Khoái Thông chỉ viết 81 bài luận về phép quyền biên thôi. Có lẽ mới đầu số chính khách, sử quan các nước thời Chiến Quốc chép lại những việc đã xảy ra, rồi đời Hán, Lưu Hướng thu thập, bổ túc, sửa chửa, sắp đặt lại theo từng nước, như bộ Quốc Ngữ) mà thành bộ Chiến Quốc Sách không vạch một chủ trương chính trị nào của như Xuân Thu hoặc Tả Truyện, chỉ ghi hết những truyện phá thành cướp đất, những lời biện thuyết như của Tô Tần, Trương Nghi, những mưu mô xảo trá của các chính khách như Lã Bất Vi, những hành động dũng cảm của những vị anh hùng như Kinh Kha…

Về nghệ thuật, Chiến Quốc Sách không thua Tả Truyện, mà đọc lại có phần vui hơn vì có nhiều cố sự li kì, hấp dẫn hơn tiểu thuyết. Lời văn không khô khan, lúc có giông hùng biện, lúc có giọng phúng thích, thường khi cảm động, nhờ thuật tự sự mà miêu tả đã đạt tới một mức cao.

Tác giả không có ý thuyết phục chúng ta, chỉ khách quan kể truyện, rồi để mặc ta tự rút ra những bài học của cổ nhân và nhiều trang làm ta miên man suy nghĩ.

Có người đã nói từ đầu thế kỉ này, nhân loại đương sống trong một thời như thời Chiến Quốc của Trung Hoa trên hai ngàn năm trước. Nhưng ngày nay có ai tính chép lại một Tân Chiến Quốc Sách cho đời sau không?

NGUYÊN VĂN

觸讋說趙太后

趙太後新用事,秦急攻之。趙氏求救於齊,齊曰:“必以長安君為質,兵乃出。”太後不肯,大臣強諫。太後明謂左右:“有復言令長安君為質者,老婦必唾其面。” 左師觸讋願見,太後盛氣而揖之。入而徐趨,至而自謝曰:“老臣病足,曾不能疾走,不得見久矣,竊自恕。恐太後玉體之有所郄也;故願望見。”太後曰:“老婦恃輦而行。”曰:“日食飲得無衰乎?”曰:“恃鬻耳。”曰:“老臣今者殊不欲食。乃自強步日三四里;少益嗜食,和於身。”曰:“老婦不能。”太後之色少解。

左師公曰:“老臣賤息舒祺,最少,不肖,而臣衰,竊愛憐之。願令補黑衣之數,以衞王宮,沒死以聞。”太後曰:“敬諾。年幾何矣?”對曰:“十五歲矣。雖少,願及未填溝壑而託之。”太後曰:“丈夫亦愛憐其少子乎?”對曰:“甚於婦人。”太後曰:“婦人?異甚!”對曰:“老臣竊以為媼之愛燕後,賢於長安君。”曰:“君過矣,不若長安君之甚。”左師公曰:“父母之愛子,則為之計深遠;媼之送燕後也,持其踵,為之泣,念悲其遠也,亦哀之矣,已行,非弗思也。祭祀必祝之;祝曰:“必勿使反。”豈非計久長,有子孫相繼為王也哉?”太後曰:“然!”左師公曰:“今三世以前,至於趙之為趙,趙王之子孫侯者,其繼有在者乎?”曰:“無有。”曰:“微獨趙諸侯有在者乎?”曰:“老婦不聞也。”“此其近者禍及身,遠者及其子孫。豈人主之子孫,則必不善哉!位尊而無功,奉厚而無勞,而挾重器多也。今媼尊長安之位,而封以膏腴之地,多予之重器,而不及今令有功於國;一旦山陵崩,長安君何以自託於趙?老臣以媼為長安君計短也;故以為其愛不若燕後。”太後曰:“諾。恣君之所使之。”於是為長安君約車百乘,質於齊,齊兵乃出。

子義聞之,曰:“人主之子也,骨肉之親也,猶不能恃無功之尊,無勞之奉,以守金玉之重也,而況人臣乎?”

PHIÊN ÂM

XÚC CHIỆP THUẾ [3] TRIỆU THÁI HẬU

Triệu thái hậu tân dụng sự, Tần cấp công chi, Triệu thị cầu cứu ư Tề. Tề viết: “Tất dĩ Trường An Quân vi chí, binh nãi xuất”. Thái hậu bất khẳng, đại thần cường gián. Thái hậu minh vị tả hữu: “Hữu phục ngôn linh Trường An Quân vi chí giả, lão phụ tất thóa kì diện”. Tả sư Xúc Chiệp nguyện kiến, Thái hậu thịnh khí nhi ấp chi. Nhập nhi từ xô, chí nhi tự tạ, viết: “Lão thần bệnh túc, tằng bất năng tật tẩu, bất đắc kiến cửu hĩ, thiết tự thứ. Củng thái hậu ngọc thể chi hữu sở khích dã; cố nguyện vọng kiến”. Thái hậu viết: “Lão phụ thị liễn nhi hành”. Viết: “Nhật thực ẩm đắc vô suy hồ?” Viết: “Thị chúc nhĩ”. Viết: “Lão thần kim giả thù bất dục thực, nãi tự cưỡng bộ, nhật tam tứ lí, thiểu ích thị thực, hòa vu thân”. Viết: “Lão phụ bất năng”. Thái hậu chi sắc thiểu giải.

Tả sư công viết: “Lão thần tiện tức thư kì, tối thiểu, bất tiếu; nhi thần suy, thiết ái lân chi, nguyện linh bổ hắc y chi sổ, dĩ vệ vương cung[4], một tử dĩ văn”. Thái hậu viết: “Kính nặc. Niên kỉ hà hĩ?” Đối viết: “Thập ngũ tuế hĩ[5]. Tuy thiểu, nguyện cập vị điền câu hác nhi thác chi”. Thái hậu viết: Trượng phu diệc ái lân kì thiểu tử hồ?”. Đối viết: “Thậm ư phụ nhân”. Thái hậu viết: “Phụ nhân? Dị thậm!” Đối viết: “Lão thần thiết dĩ vi ảo chi ái Yên hậu, hiền ư Trường An Quân”. Viết: “Quân quá hĩ. Bất nhược Trường An Quân chi thậm”. Tả sư công viết: “Phụ mẫu chi ái tử, tắc vi chi kế thâm viễn. Ảo chi tống Yên hậu dã, trì kì chủng, vị chi khấp, niệm bi kì viễn dã, diệc ai chi hĩ. Dĩ hành, phi phất tư dã, tế tự tất chúc chi; chúc viết: “Tất vật sử phản”. Khởi phi kế cửu trường, hữu tử tôn tương kế vị vương dã tai?” Thái hậu viết: “Nhiên!”. Tả sư công viết: “Kim tam thế dĩ tiền, chí ư Triệu chi vi Triệu, Triệu Vương chi tử tôn hầu giả, kì kế hữu tại giả hồ?” Viết: “Vô hữu”. Viết: “Vi độc Triệu, chư hầu hữu tại giả hồ?” Viết: “Lão phụ bất văn dã”. “Thử kì cận giả họa cập[6] thân, viễn giả cập kì tử tôn. Khởi nhân chủ chi tử tôn, tắc tất bất thiện tai! Vị tôn nhi vô công, phụng hậu nhi vô lao, nhi hiệp trọng khí đa dã. Kim ảo tôn Trường An chi vị, nhi phong dĩ cao du chi địa, đa dư chi trọng khí, nhi bất cập kim linh hữu công ư quốc; nhất đán sơn lăng băng, Trường An Quân hà dĩ tự thác ư Triệu? Lão thần dĩ ảo vị Trường An Quân kế đoản dã; cố dĩ vi kì ái bất nhược Yên hậu”. Thái hậu viết: “Nặc. Tứ quân chi sở sử chi”. Ư thị vi Trường An Quân ước xa bách thặng,chí ư Tề, Tề binh nãi xuất.

Tử Nghi văn chi, viết: “Nhân chủ chi tử dã, cốt nhục chi thân dã, do bất năng thị vô công chi tôn, vô lao chi phụng, dĩ thủ kim ngọc chi trọng dã, nhi huống nhân thần hồ?”

DỊCH NGHĨA

XÚC CHIỆP THUYẾT THÁI HẬU NƯỚC TRIỆU

Thái hậu nước Triệu mới cầm quyền. Triệu cầu cứu với Tề, Tề đáp: “Phải đưa Trường An Quân[7] qua đây làm con tin rồi mới xuất binh cứu viện”. Thái hậu không chịu, các đại thần cố khuyên. Thái hậu nói thẳng với kẻ tả hữu: “Ai mà còn nói đến chuyện đưa Trường An Quân đi làm con tin thì già này tất nhổ vào mặt!”

Quan Tả sư là Xúc Chiệp[8] xin vào yết kiến. Thái hậu có vẻ giận mà tiếp. Xúc Chiệp tiến vô, chậm chạp bước, tới trước mặt Thái hậu rồi tạ tội rằng:

- Lão thần có bệnh ở chân cho nên không bước nhanh được, trộm phép Thái hậu tự thứ cho tội đó. Sợ ngọc thể không biết có sao không, nên hôm nay xin vào hầu[9].

Thái hậu đáp:

- Già này nhờ xe mới đi được.

- Mỗi ngày ăn uống không giảm chứ?

- Chỉ nhờ cháo thôi.

- Lão thần gần đây không muốn ăn, phải gắng sức đi bộ mỗi ngày ba bốn dặm, mới hơi thèm ăn, nhờ vậy thân thể được điều hoà.

- Già này không gắng được như vậy.

Sắc mặt Thái hậu hơi nguôi. Quan Tả sư nói:

- Đứa con hèn của lão thần là Thu Kì còn nhỏ lắm mà chẳng có tài năng gì cả, nhưng thần suy yếu, nên yêu dấu nó, xin Thái hậu cho nó sung vào đoàn thị vệ[10] cho đủ số[11] để nó bảo vệ vương cung, thần sợ sệt mà tâu Thái hậu.

- Xin vâng. Tuổi nó bao nhiêu?

- Mười lăm tuổi. Tuy nó còn nhỏ, nhưng trong lúc thân thể chưa bị vùi lấp xuống hố, rãnh[12] lão thần xin đem nó phó thác thái hậu.

- Bậc trượng phu mà cũng yêu thương con nhỏ sao?

- Còn hơn đàn bà nữa.

- Hơn cả đàn bà? Lạ nhỉ![13]

- Lão thần trộm nghĩ bà lão[14] yêu Yên hậu[15] hơn yêu Trường An Quân.

- Ông lầm rồi. Kém xa Trường An Quân.

- Cha mẹ yêu con thì tính kế lâu dài cho con. Bà lão lúc tiễn chân Yên hậu, níu lấy gót mà khóc, nghĩ thương cho cảnh xa xôi, thực là xót xa vô cùng. Khi Yên hậu đã đi rồi, không phải là không nhớ, vì lúc tế tự bà lão đều có cầu chúc cho Yên hậu, cầu rằng: “Xin cho đừng trở về”. Như vậy há chẳng phải là lo tính chuyện lâu dài, mong cho Yên hậu có con cháu nối nhau làm vua ở Yên sao?

- Phải.

- Nay xét trở lui lại ba đời trước, từ hồi nước Triệu thành nước Triệu, con cháu các vị vua Triệu được phong hầu mà kế tiếp nhau giữ ngôi tới nay còn ai không?

- Không còn.

- Chẳng riêng gì nước Triệu, các nước chư hầu khác cũng vậy, tới nay còn ai không?

- Già này không nghe nói.

- Như vậy mà xét, họa gần thì xảy ngay trong đời mình, họa xa thì xảy ra trong đời con cháu. Có phải là tại con cháu các bậc vua chúa đều bất tiếu cả đâu; chỉ tại ngôi cao mà không có công, bổng lộc hậu mà không phải khó nhọc, lại ôm vàng ngọc quá nhiều đấy thôi. Nay bà lão tôn quí cái vị của Trường An Quân, phong cho những đất phì nhiêu, lại cấp cho nhiều vàng ngọc mà không bảo Trường An Quân nhân lúc này lập chút công với nước, thì rồi một ngày kia, gò núi sụp đổ,[16] Trường An Quân biết lấy gì mà gởi thân mình ở nước Triệu? Lão thần cho rằng bà lão tính kế cho Trường An Quân quả là ngắn ngủi, vì vậy mà bảo yêu Trường An Quân không bằng yêu Yên hậu.

Thái hậu đáp:

- Phải. Tùy ý ông tính sao cho nó thì tính.

Thế là sửa soạn trăm cỗ xe, đưa Trường An Quân qua làm con tin ở nước Tề, Tề mới xuất quân cứu Triệu.

Tử Nghi[17] nghe chuyện đó, nói: “Con bực vua chúa, tình thân như cốt nhục kia, mà không thể cậy vào cái tước quí không công lao mà được, cậy vào cái bổng lộc không khó nhọc mà được, để giữ nổi những đồ vàng ngọc quí báu, huống chi là kẻ bề tôi!”.

NHẬN ĐỊNH

Tài hiểu tâm lí và thuyết phục người của Xúc Chiệp thật là tuyệt diệu[18]. Các vị đại thần chắc đã đem cái lợi của quốc gia ra mà khuyên Triệu thái hậu cho Trường An Quân đi làm con tin ở Tề; nhưng một bà già cưng con, nhất là khi con còn nhỏ, thì nghĩ gì đến cái lợi của nước, cho nên các vị đại thần đã thất bại. Xúc Chiệp thấu lòng cưng con của Thái hậu, chỉ bàn đến cái lợi lâu dài cho Trường An Quân, nên đã thành công.

Nhưng trước khi giảng giải, phải làm cho nguôi cơn giận của Thái hậu đã, cho nên mới đầu chỉ hỏi thăm sức khoẻ của Thái hậu, kể lể bệnh tật của mình, y như bạn già, ngồi không, buồn mà lại thăm nhau vậy. Lúc đó Thái hậu hơi nguôi. Tuy nhiên Xúc Chiệp vẫn chưa vào đề, còn xin Thái hậu một ân huệ cho đứa con của mình. Thái hậu vui vẻ nhận liền, cảm động mà thấy lão thần đó cũng cưng con như mình. Cơn giận đã tan.

Rồi Xúc Chiệp lại nói khích: “Đàn ông cưng con hơn đàn bà cưng con”. Thái hậu cãi lại. Ông không đáp, thình lình chuyển qua tình Thái hậu đối với con gái là Yên hậu, rồi lần lần đưa những lí lẽ xác đáng để cho Thái hậu thấy rằng thương con thì phải lo đến tương lai của con; để cho con nhân cơ hội này “lập công với nước” mà sau mới có thể giữ ngôi báu được lâu. Bốn chữ “lập công với nước” đặt vào lúc đó mới thật hợp.

Nhờ thuật đó mà tâm trạng Thái hậu chuyển lần lần: mới đầu định nhổ vào mặt mọi người, hằm hằm tiếp Xúc Chiệp, rồi nhan sắc hơi nguôi, rồi nhã nhặn “xin vâng”, rồi thân mật (Xúc Chiệp đã có thể gọi là “bà lão” được), sau cùng hoàn toàn theo ý Xúc Chiệp.

Lối tự sự có mở, có kết, mạch lạc, sáng sủa, không một chi tiết nào thừa, cũng không một chi tiết nào thiếu, làm cho chính ta là độc giả, nghe chuyện hỏi thăm nhau giữa Xúc Chiệp và Thái hậu cũng muốn quên bẵng truyện Trường An Quân đi, đừng nói chi là Thái hậu nữa.

Chép chuyện mà được như vậy thì thật là tài tình. Bài này đáng là một viên ngọc trong cổ văn Trung Quốc, làm kiểu mẫu cho thể tự sự và đối thoại.

Chiến Quốc Sách là một bộ sử. Mặc dầu tác giả thiên về cố sự, nhưng những việc lặt vặt như cuộc chuyện trò giữa một ông già và một bà già như trong truyện này, tác giả cũng cho nó một giá trị đặc biệt, chép tỉ mỉ như vậy thì quả là quan niệm của tác giả về sử, về nghệ thuật có chỗ độc đáo, mà đừng nói chi người đương thời, đến như người đời sau cũng ít ai sánh kịp.

HẾT

Chú thích:

[1] Lời Mạnh Tử trong Đằng Văn Công – hạ.

[2] Lời Lưu Hướng trong Chiến Quốc Sách thư lục.

[3] Thuế: Trong Hồi kí, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo chữ 說 đọc là thuyết khi nó là danh từ và đọc là thuế khi nó là động từ. Cụ còn cho biết: “Có sách bảo cách phân biệt như vậy chỉ có từ đời Đường. Thời cổ danh từ và động từ đọc như nhau hết”, nhưng cụ không nói rõ thời cổ đọc là thuyết hay là thuế. (Goldfish).

[4] Cung: bản nguồn chép nguyên văn là: 宮, trên mạng có bản cũng chép như vậy, có bản chép là: 宫 (cung), lại có bản chép là: 官 (quan). (Goldfish).

[5] Đoạn “Thái hậu viết: “Kính nặc. Niên kỉ hà hĩ?” Đối viết: “Thập ngũ tuế hĩ.” là do tôi ghi thêm. (Goldfish).

[6] Cập: bản nguồn chép nguyên văn là 及 (cập), nhưng ở đây chép phiên âm là: “phản”. Các trang chữ Hán trên mạng đều chép là: 及 (cập). (Goldfish).

[7] Trường An Quân là con nhỏ của Triệu Thái hậu, và là em của Hiếu Thành Vương. Triệu Thái hậu là vợ vua Huệ Văn Vương nước Triệu; khi chồng mất bà lên cầm quyền vì con còn nhỏ. Tần nhân dịp đó tấn công. Trường An là tên hiệu mà Thái hậu phong cho.

[8] Xúc Chiệp là một vị lão thần của Triệu. [Sử kí – Triệu thế gia gọi là: Giác Long 角龍 (theo http://www.kluniv.cn/jpkcw/gudai/zaixianxx/xianqing/xian10_chulong.htm). Chữ 讋, Thiều Chửu đọc là triệp. (Goldfish)].

[9] Chữ [郄], Cổ Văn Quan Chỉ chú thích là: “như chữ khích [隙]: là kẽ tường, chỗ hở; Xúc Chiệp không dám nói thẳng tên bệnh ra nên nói bóng như vậy”. – Cổ Văn Bình Chú giải nghĩa: “Đọc là khước [却] nghĩa là chân không đi được. Xúc Chiệp cùng bệnh già với Thái hậu, nay đau chân, e rằng Thái hậu cũng đau, nên vào thăm”. [Các chữ Hán trong dấu [ ] là do tôi ghi thêm theo cuốn Chiến Quốc Sách của cụ Nguyễn Hiến Lê. (Goldfish)].

[10] Nguyên văn là hắc y: nhung phục đen, dùng để chỉ chức thị vệ.

[11] Lời nói nhũn: có ý bảo con trai mình không đáng được chức đó, vô làm cho đủ số lính thị vệ, chứ không được việc gì cả.

[12] Ý nói: vùi xuống huyệt.

[13] Theo Cổ văn bình chú thì câu này nghĩa là: đàn bà yêu con khác đàn ông và hơn đàn ông nhiều.

[14] Ta nhận thấy: giọng lúc này thân mật lắm rồi.

[15] Con gái của Triệu thái hậu, gả cho vua Yên.

[16] Ý nói: khi Thái hậu trăm tuổi rồi.

[17] Tử Nghi: là một người hiền của nước Triệu.

[18] Cụ Nguyễn Hiến Lê chép bài này vào phụ lục cuốn Đắc nhân tâm, và bảo: “Tâm lý của con người phương Đông cũng như phương Tây, thời xưa cũng như thời nay. Thuật thuyết phục của Xúc Chiệp ăn khớp với học thuyết của Dale Carnegie: sinh trước Carnegie trên hai ngàn năm mà chỉ trong một câu chuyện với Thái hậu, ông bất giác tìm ra được sáu qui tắc của Carnegie trong phần IV (qui tắc 1, 2, 3, 4, 7, 9) cộng với ba qui tắc nữa của Carnegie trong chương I phần II (tự đặt mình vào địa vị người, chú trọng tới cái lợi của người), trong chương độc nhất phần V (xin người ban cho mình một ân huệ để cho người được vui lòng) và trong chương II phần I (khen người một cách tự nhiên, tế nhị). Chúng ta có thể hiểu biết nhiều hơn cổ nhân, nhưng cái khôn của cổ nhân vẫn còn đáng cho ta học. Đó là một nguồn vui khi ta đọc sách của cổ nhân”. (Goldfish)