13. THƯƠNG LƯƠNG ĐÌNH KÍ QUI HỮU QUANG
Qui Hữu Quang tự Hi Phủ, người Côn Sơn (Giang Tô), sanh năm 1506 (Minh Vũ Đế), học giỏi, nhưng 35 tuổi thi rớt, về nhà đọc sách, dạy học, môn đệ được mấy trăm người, gọi ông là Chấn Xuyên tiên sinh.
Năm 60 tuổi mới đậu Tiến sĩ (đời Minh Thế Tôn, niên hiệu Gia Tĩnh), làm quan huyện ở Trường Hưng, giáo hoá dân theo đạo cổ nhân, nên bọn lại nhiều kẻ không ưa, mà hoạn đồ của ông cũng không thanh thản.
Mãi đến năm 65 tuổi, ông mới được một người mến tài tiến dẫn làm chức Thái bộc thừa ở Nam Kinh, sửa bộ Thế Tôn thực lục (chép những việc đời vua Thế Tôn). Năm sau (1571) ông mất khi còn tại chức.
Về cổ văn ông rất thích bút pháp của Tư Mã Thiên. Hồi đó Vương Thế Trinh đứng đầu văn đàn, ông không phục, Vương giận lắm. Học giả đương thời so sánh ông với Âu Dương Tu, sắp ông vào hàng “Tam đại gia” đời Gia Tĩnh, cùng với Vương Thế Trinh và Đường Thuận Chi, hoặc vào hàng “Lục đại gia” đời Minh (tức ba nhà trên cộng với Tống Liêm, Phương Hiếu Nhụ và Vương Thủ Nhân). Xét chung thì trừ một vài bài, văn của các đại gia đời Minh không có gì mới mẻ, không bằng Bát đại gia đời Đường, Tống.
Qui Hữu Quang lưu lại bộ Chấn Xuyên tập 30 quyển và bộ Biệt tập 10 quyển.
NGUYÊN VĂN
滄浪亭記
浮圖文瑛,居大雲庵,環水,即蘇子美滄浪亭之地也。亟求餘作滄浪亭記,曰 :“昔子美之記,記亭之勝也。請子記吾所以為亭者。”餘曰:“昔吳越有國時,廣陵王鎮吳中,治園於子城之西南;其外戚孫承佑,亦治園於其偏。迨淮南納土,此園不廢,蘇子美始建滄浪亭,最後禪者居之,此滄浪亭為大雲庵也。有庵以來二百年,文瑛尋古遺事,復子美之構於荒殘滅沒之餘,此大雲 庵為滄浪亭也。
夫古今之變,朝巿改易,嘗登姑蘇之臺,望五湖之渺茫,群山之蒼翠,太伯、虞仲之所建,闔閭,夫差之所爭,子胥,種,蠡之所經營,今皆無有矣!庵與亭何為者哉!
雖然,錢鏐因亂攘竊,保有吳越,國富兵強,垂及四世。諸子姻戚,乘時奢僭,宮館苑囿,極一時之盛。而子美之亭,乃為釋子所欽重如此。可以見士之欲垂名於千載之後,不與其澌然而俱盡者,則有在矣。”
文瑛讀書喜詩,與吾徒游,呼之為滄浪僧雲。
PHIÊN ÂM
THƯƠNG LANG[1] ĐÌNH KÍ
Phù đồ Văn Anh, cư Đại Vân am, hoàn thủy, tức Tô Tử Mĩ Thương Lang đình chi địa dã. Khí cầu dư tác Thương Lang đình kí, viết: “Tích Tử Mĩ chi kí, kí đình chi thắng dã, thỉnh tử kí ngô sở dĩ vi đình giả”. Dư viết: “Tích Ngô Việt hữu quốc thời, Quảng Lăng Vương trấn Ngô Trung, trị viên ư tử thành chi Tây Nam[2], kì ngoại thích Tôn Thừa Hựu, diệc trị viên ư kì thiên. Đãi Hoài Nam nạp thổ, thử viên bất phế, Tô Tử Mĩ thủy kiến Thương Lang đình, tối hậu thiền giả cư chi, thử Thương Lang đình vi Đại Vân am dã. Hữu am dĩ lai nhị bách niên, Văn Anh tầm cổ di sự, phục Tử Mĩ chi cấu ư hoang tàn diệt một chi dư, thử Đại Vân am vi Thương Lang đình dã.
Phù cổ kim chi biến, triều thị cải dịch. Thường đăng Cô Tô chi đài, vọng Ngũ Hồ chi điểu mang, quần sơn chi thương thúy, Thái Bá Ngu Trọng chi sở kiến, Hạp Lư phù Sai chi sở tranh, Tử Tư, Chủng, Lãi chi sở kinh doanh, kim giai vô hữu hĩ; am dữ đình hà vi giả tai?
Tuy nhiên, Tiền Lưu nhân loạn nhương thiết, bảo hữu Ngô Việt, quốc phú binh cường, thùy cập tứ thế, chư tử nhân thích, thừa thời xa tiếm, cung quán uyển hựu, cực nhất thời chi thịnh, Nhi Tử mĩ chi đình, nãi vi thích tử sở khâm trọng như thử, khả dĩ kiến sĩ chi dục thùy danh ư thiên tải chi hậu, bất dữ kì tư nhiên nhi câu tận giả, tắc hữu tại hĩ”.
Văn Anh độc thư hỉ thi, dữ ngô đồ du, hô chi vi Thương Lang tăng vân.
DỊCH NGHĨA
BÀI KÍ: THƯƠNG LANG ĐÌNH
Hoà thượng Văn Anh[3] ở am Đại Vân, chung quanh là nước, chỗ đó tức là nền cũ Thương Lang đình của Tô Tử Mĩ[4]. Hoà thượng mấy lần xin tôi viết cho bài kí “Thương Lang đình”, bảo: “Xưa Tư Mĩ chép là chép thắng cảnh của đình, nay xin ông chép cái lẽ sở dĩ tôi dựng đình này”.
Tôi đáp:
- “Xưa, thời Ngô Việt là nước, Quảng Lăng Vương trấn thủ Ngô Trung, lập vườn ở phía Tây Nam thành nhỏ, người họ ngoại của ông là Tôn Thừa Hựu cũng lập vườn ở bên[5]. Đến khi Hoài Nam Vương qui về nhà Tống[6], vườn đó vẫn chưa hoang phế, Tô Tử Mĩ mới dựng Thương Lang đình; sau cùng, một nhà tu hành lại đó ở, và Thương Lang đình thành ra Đại Vân am. Từ hồi có am đến nay là hai trăm năm. Vân Anh tìm những di tích thời đó, khôi phục lại công việc kiến trúc của Tử Mĩ ở chỗ hoang tàn mai một còn sót lại và Đại Vân am lại biến thành Thương Lang đình.
Cổ kim biến hoá, triều đình thành thị đều thay đổi. Tôi từng lên đài Cô Tô, ngắm cảnh Ngũ Hồ[7] mù mịt, dãy núi xanh biếc; chỗ mà Thái Bá, Ngu Trọng[8] xây dựng, Hạp Lư, Phù Sai[9] tranh giành, Tử Tư, Văn Chủng, Phạm Lãi[10] kinh doanh, nay không còn gì cả, thế thì am với đình có đáng kể chi!
Tuy nhiên, Tiền Lưu thừa lúc loạn mà cướp ngôi, giữ đất Ngô Việt[11], nước giàu binh mạnh, truyền được bốn đời, con cháu và họ hàng bên nội ngoại xa xỉ tiếm vị; cung quán vườn tược cực thịnh một thời (rồi bị bỏ hoang), mà đình của Tử Mĩ được một vị hoà thượng quí trọng như vậy thì đủ thấy kẻ sĩ muốn lưu danh muôn thủa, không cùng với thể xác[12] mà mai một, chắc là nhờ cái gì đây”.
Văn Anh đọc sách, thích thơ, giao du với bọn tôi, chúng tôi gọi ông là Hoà Thượng Thương Lang.
NHẬN ĐỊNH
Lời lẽ khúc chiết mà hoài cảm triền miên. Những người cầm bút đọc bài này chắc được đôi phần an ủi.
Chú thích:
[1] Thương Lang 滄浪: Trong ĐCVHSTQ, cụ Nguyễn Hiến Lê phiên âm là Sương Lương và chú: “Chữ Lãng bình thanh đọc là Lương. Sương Lương đình ở đất Ngô Việt, miền Giang Tô, Triết Giang bây giờ”. Trong Hồi kí, cụ phiên âm là “Thương Lương”.
[2] Đoạn “Quảng Lăng vương trấn Ngô Trung, trị viên ư tử thành chi tây nam” bản nguồn không có, tôi chép theo ĐCVHSTQ. (Goldfish).
[3] Nguyên văn phù đồ trỏ nhà sư. Văn Anh là tên hiệu.
[4] Tô Tử Mĩ, tức Tô Thuấn Khâm đời Tống (1008-1048) ở đất Ngô Trung (tại Giang Tô), tính tình khẳng khái, có chí lớn, thơ có giọng hào phóng, nổi tiếng ngang với Mai Thánh Du, lưu lại bộ Tô Học Sĩ tập 16 quyển. Ông dựng Thương Lang đình (đình là ngôi nhà nhỏ để nghỉ mát) trong thành Ngô Trung, chung quanh có nước, bên cạnh có núi, phong cảnh rất đẹp.
[5] Cuối nhà Đường đời vua Chiêu Tôn, Tiền Lưu làm chức Tiết độ sứ ở Trấn Hải; khi nhà Đường mất, vua Lương Thái Tổ phong cho Tiền Lưu làm Ngô Việt Vương, và Tiền Lưu tự xưng là vua Ngô Việt (Ngô Việt quốc vương). - Quảng Lăng Vương họ Tiền, tên Nguyên Liêu. Nguyên văn: tử thành là một thành nhỏ phụ thuộc vào một thành lớn.
[6] Nguyên văn: nạp thổ là nạp đất (cho nhà Tống) mà nhận làm bề tôi. [Tương ứng với câu “Đến khi Hoài Nam Vương qui về nhà Tống”, trong ĐCVHSTQ chép là: “Tới khi đất Hoài Nam về nhà Tống”. Nhiều trang trên mạng bảo: năm 978, Tiền Lưu (vua Ngô Việt đời thứ năm) nộp bản đồ đất Hoài Nam, đầu hàng Bắc Tống. (Goldfish)].
[7] Đài Cô Tô ở trên núi Cô Tô tại phía Tây Nam Ngô huyện (tức Ngô Trung – coi chú thích (1)), do Ngô vương Phù Sai dựng sau khi thắng được Việt vương Câu Tiễn, để vui thú với nàng Tây Thi.
Phạm Lãi là một vị đại thần của Việt vương Câu Tiễn, tìm được Tây Thi, dâng lên Ngô vương. Vua Ngô mê Tây Thi, bỏ phế việc nước, nhờ vậy Câu Tiễn trả thù được. Khi đã đánh bại được Ngô vương. Phạm Lãi đem Tây Thi đi chơi Ngũ Hồ (cũng gọi là Thái Hồ).
[8] Thái Bá và Ngu Trọng đều là con của Thái vương mà Thái vương là ông nội của Chu Văn Vương. [Chu Văn Vương, tức Cơ Xương, là con của Quí Lịch. Thái vương thấy Cơ Xương tài giỏi hơn người nên có ý truyền ngôi cho Quí Lịch để sau này Quí Lịch truyền ngôi cho là Cơ Xương. Hai người anh của Quí Lịch là Thái Bá và Ngu Trọng biết ý định của cha nên bỏ trốn đến ở đất Kinh, phía Nam sông Trường Giang. Từ đó Thái Bá trở thành tổ tiên của nước Ngô. (Goldfish)].
[9] Hạp Lư là cha của Phù Sai. Về Phù Sai coi chú thích (5).
[10] Tử Tư, họ Ngũ, tên Viên, là người nước Sở đời Xuân Thu, văn võ toàn tài, vì Sở Bình vương giết cha, trốn qua nước Ngô, giúp Phù Sai đánh Sở (tức tổ quốc của mình) để trả thù cho cha; sau lại giúp Phù Sai đánh bại được Việt; cuối cùng phải tự tử vì bị Phù Sai nghi là có ý làm phản. - Văn Chủng là đại phu người Việt thời Chiến Quốc. - Phạm Lãi coi chú thích (5).
[11] Coi chú thích (3).
[12] Nguyên văn: tư nhiên là tiêu tan đi, trỏ phần thể xác hữu diệt.