CHƯƠNG II
Tóc Scarlett màu đỏ, nhưng không phải kiểu màu cam đỏ ở giữa thân và đổ dần màu cà rốt về phía đuôi. Đó thực ra là màu nâu vàng, thẫm và đỏ kết hợp với màu nâu, chính điều này đã làm cho đôi mắt xanh của cậu ấy thêm long lanh. Da Scarlett hơi xanh xao, và khuôn mặt lúc nhỏ lại có thêm vô số tàn nhang. Nhưng dần dà chúng nhạt đi theo năm tháng, chỉ còn một chút đọng lại lác đác quanh mũi như thể ai đó tự tay vẩy các chấm li ti ấy lên. Scarlett thấp hơn tôi chính xác là bốn phẩy năm xen-ti-mét nhưng lại mang giày lớn hơn tôi một cỡ. Và ngay dưới bụng cậu ấy có một vết sẹo do mổ ruột thừa, vết ấy trông hệt như cái miệng cười. Lúc nào Scarlett cũng đẹp một cách hết sức tự nhiên còn tôi lại không được vậy; và nói thật là tôi vẫn ngầm ganh tị với Scarlett. Với tôi, Scarlett như một kẻ ngoại đạo độc đáo. Tuy vậy, cậu ấy vẫn thường bảo sẽ đánh đổi tất cả nếu có được mái tóc dài, làn da rám nắng cùng với đôi mày rậm và hàng mi dày của tôi. Đó là chưa kể đến ông bố và gia đình mẫu mực của tôi, hoàn toàn khác hẳn Marion cùng những ý thích bất chợt của cô ấy. Giống như một cuộc đổi chác, chúng tôi thầm ghen tị lẫn nhau và thế lại hóa ra công bằng.
Cuộc sống của tôi và Scarlett tương hợp một cách hoàn hảo. Chúng tôi dậy thì cùng lúc, cùng thích xem phim kinh dị và mấy trò đùa ngớ ngẩn. Chúng tôi cũng thuộc nằm lòng tất cả những bài hát xưa cũ của bố mẹ. Scarlett tự tin và dễ kết bạn, trong khi tôi nhút nhát, trầm tính và thường thụ động trong đám đông. Lúc nào mọi người cũng chỉ biết đến tôi vì tôi là “Halley – bạn thân của Scarlett”, nhưng điều đó chẳng có gì quan trọng. Nếu không có Scarlett, tôi biết mình chỉ còn nước đánh bạn với đám “thiên tài lập dị” (5) và Noah Vaughn rồi. Số phận đó chắc chắn, chỉ có thể là chắc chắn, đã được định sẵn cho tôi cho tới ngày Scarlett ngước nhìn lên sau cặp mắt kính màu trắng và dành một chỗ cho tôi đồng hành cùng cô ấy suốt cuộc đời này. Tôi rất cảm kích Scarlett về điều đó, bởi cuộc sống này sẽ tẻ nhạt và tệ hại biết bao nếu ta chẳng thể tìm lấy một người bạn thân.
Nếu mỗi người phải vẽ lại bức tranh cuộc sống của chính mình thì đối với tôi, nó đơn giản chỉ là một bức hình đen trắng trong những quyển sách tập tô màu của trẻ con, với những phần bên trong còn chưa được hoàn thiện. Tất cả những nét cơ bản đều có sẵn, nhưng màu sắc và các đường nét chi tiết chấm phá để tạo ra con người tôi – Halley – vẫn còn thiếu hụt. Và chính những màu sắc đỏ vàng rực rỡ từ bức tranh của Scarlett đã tô điểm thêm cho nó đôi chút, nhưng thực sự tôi vẫn đang chờ đợi được lấp đầy.
Hầu hết mọi người trong trường đều không biết nhiều về Michael Sherwood dù lúc nhỏ, cậu ấy ở cùng thị trấn. Cậu ấy dời đến California vào mùa hè cuối năm cấp 2 và rồi trở lại, hoàn toàn thay đổi: rám nắng, cao lớn và cực kỳ quyến rũ. Ngay lập tức, Michael trở thành hình mẫu hẹn hò trong mơ của đám con gái.
Cậu ấy đi chơi cùng Ginny Tabor khoảng mười lăm phút, cặp kè với Elizabeth Gunderson – đội trưởng đội cổ vũ – vài tháng. Nhưng Michael dường như không mấy hứng thú với đám hội đoàn cũng như mớ đồng phục. Vậy nên, cậu ấy quay về kết thân với những người bạn khu Lakeview, như Macon Faulkner chẳng hạn. Hai người họ đã trở thành bạn thân của nhau, như tôi và Scarlett vậy. Thỉnh thoảng, bọn tôi vẫn thấy hai người bước dọc trên con đường giữa nhà tôi với nhà Scarlett ngay giữa đêm hôm khuya khoắt, vừa hút thuốc vừa cười vang. Cả hai đều rất khác biệt và chính điều đó đã mê hoặc bọn tôi.
Việc rời khỏi đám đông hào nhoáng càng khiến Michael Sherwood trở nên bí ẩn hơn. Chẳng ai dám chắc cậu ấy thích hợp với hội đoàn nào, dù rằng cậu luôn thân thiện với tất cả, theo kiểu dễ thích nghi. Michael nổi tiếng vì những trò nghịch ngợm bắt chước giáo viên, hay luôn đòi bạn phải trả một đô-la nếu muốn nghe cậu ấy kể chuyện, những câu chuyện về đủ thứ mới mẻ xa lạ mà chắc chắn trong đó chỉ có phân nửa là sự thật nhưng lại vô cùng hấp dẫn và hoàn toàn xứng đáng với một đô mà bạn bỏ ra. Có lần, Michael kể với tôi cậu ấy đã làm thế nào để xử lý mấy thành viên cuồng tín của Hội nữ hướng đạo sinh Girl Scout đang đeo bám cậu ấy. Tôi chẳng tin tưởng mấy vào câu chuyện này nhưng vẫn trả cho cậu ta hai đô-la, để rồi sau đó phải nhịn bữa trưa. Xứng đáng mà.
Mỗi chúng tôi đều biết một chuyện gì đó của Michael, những điều cậu ấy đã nói, đã làm hoặc đã trải qua. Và hơn tất thảy, chính những điều cậu ấy chưa từng làm lại khiến Michael nổi bật hơn hẳn. Cậu ấy như thể tách biệt khỏi chúng tôi, nhưng một phần nào đó lại hóa quen thuộc với tất cả mọi người.
Vào mỗi buổi lễ tổng kết năm học đều có tiết mục trình chiếu những bức ảnh không được lưu trong quyển Niên giám (6) . Tất cả học sinh chúng tôi tụ họp tại hội trường, chờ đợi lần lượt từng khuôn mặt trong lớp lướt qua màn ảnh và cùng cười vui vẻ khi thấy bạn mình xuất hiện hoặc la ó bĩu môi trước những gương mặt gây mất cảm tình. Trong số đó, chỉ có duy nhất một bức hình của Michael Sherwood, một tấm khá đẹp: cậu ấy ngồi một mình trên bức tường, đội chiếc nón đồng phục bóng chày màu đen quen thuộc và đang cười với điều gì đó ngoài khung ảnh mà chúng tôi không thấy được. Sau lưng cậu là đám cỏ xanh rì và phía trên là bầu trời trong xanh cứ thế trải dài tít tắp. Khi bức ảnh hiện ra, toàn đám đông trong hội trường hào hứng vỗ tay, huýt sáo và nghển cổ tìm Michael, lúc này đang ngồi trên ban công cùng Macon Faulkner với vẻ ngượng nghịu. Đối với chúng tôi, lúc nào hình ảnh của cậu ấy cũng như thế: điểm hiếm hoi mà tất cả chúng tôi cùng có chung.
Đám tang được cử hành vào ngày thứ năm sau đó. Sau bữa ăn sáng, tôi mặc nguyên quần soọc và đi chân trần qua nhà Scarlett, tay xách theo hai chiếc áo đầm đen vì không biết nên chọn cái nào. Trước nay tôi chỉ mới tham dự lễ tang của ông ngoại ở Buffalo, khi ấy bố mẹ mặc quần áo cho tôi vì tôi còn quá nhỏ. Nhưng lần này thì khác.
- Vào đi! – Tiếng cô Marion với ra trước khi tôi kịp đưa tay lên gõ cửa. Cô ấy đang ngồi ở bàn ăn, tay lật giở từng trang tạp chí Vogue (7) và trước mặt là một ly cà phê nghi ngút khói.
- Cháu chào cô, – tôi mỉm cười chào đáp lại cô ấy, – Scarlett đã dậy chưa ạ?
- Đúng ra là đã thức cả đêm ấy chứ. – Cô Marion trả lời chậm rãi, tiếp tục lật từng trang báo và nhâm nhi cà phê. – Sáng dậy cô đã thấy nó trên ghế ngoài phòng khách rồi. Nó mà không nghỉ ngơi một chút thì sẽ ngã quỵ mất thôi.
Tôi phải cố gắng để không nhếch miệng cười. Những lời vừa rồi của cô Marion y hệt những gì tôi đã nghe chính Scarlett nói suốt bao năm nay về mẹ mình. Từ lúc kết thân với gia đình này, tôi luôn chứng kiến sự hoán đổi vai trò của hai mẹ con họ. Cách đây vài năm, cô Marion bị trầm cảm và thường tìm quên với rượu, đến độ Scarlett – vẫn còn mặc đồ ngủ – phải chạy sang cầu cứu gia đình tôi vào lúc hai giờ sáng, vì phát hiện mẹ mình nằm ngay thềm nhà, cơ thể lạnh ngắt, cằm in hằn vết bậc cửa và lắc rắc vụn bê tông. Bố tôi phải đỡ cô ấy vô nhà còn mẹ cố dùng các biện pháp tâm lý để trấn an Scarlett. Khi đó, cậu ấy im lìm, chẳng nói chẳng rằng, chỉ ngồi co người trên ghế bên cạnh giường cô Marion và trông chừng mẹ đến tận sáng. Bố nói Scarlett trông nghiêm nghị, còn mẹ lại gọi đó là “tâm lý chối bỏ sự thật” (8) .
- Chào cậu! – Tôi ngước lên và thấy Scarlett trong chiếc áo thun đỏ và quần soóc, đang đứng ngay bậc cửa, tóc tai bù xù như vừa mới ngủ dậy.
Cậu ấy hướng mắt về phía hai chiếc váy trên tay tôi:
- Cậu định mặc cái nào thế?
- Tớ chưa biết nữa.
Scarlett tiến đến gần hơn, cầm lấy chúng đưa lên người tôi ướm thử.
- Mặc cái váy ngắn này đi. – Cậu ấy nói khẽ và đặt chiếc còn lại lên kệ bếp, gần rổ trái cây. – Mấy cái áo cổ tròn khiến cậu trông như mới mười hai tuổi vậy.
Tôi nhìn xuống chiếc đầm cổ tròn, cố nhớ xem mình đã từng mặc loại này bao giờ chưa. Lúc nào Scarlett cũng là người lưu giữ mọi điều: từ ngày tháng đến các kỷ niệm hay những bài học. Tính tôi hay quên nên hiếm có thứ gì còn đọng lại trong trí nhớ được quá một tuần. Nhưng Scarlett thì nhớ tất cả mọi thứ, từ bộ quần áo đã mặc vào cái ngày trao đi nụ hôn đầu tiên, đến tên chị gái của anh chàng tôi gặp lúc đi tắm biển mùa hè năm ngoái. Cậu ấy là “lãnh tụ tinh thần” và là bộ nhớ tổng hợp cho cả hai đứa tôi.
Scarlett mở tủ lạnh lấy ra bình sữa, kẹp hộp bánh ngũ cốc Rice Krispies vào cánh tay, vừa đi ngang qua phòng, vừa tiện thể vớ luôn một cái chén trong máy rửa còn đang để mở. Cậu ấy ngồi xuống ngay giữa bàn ăn, bên trái là cô Marion. Tôi cũng nhắc ghế ngồi vào phía còn lại bên Scarlett. Dẫu chỉ là một gia đình bé nhỏ – và tôi từ lâu đã trở thành một thành viên danh dự – hai mẹ con họ vẫn có những quy tắc riêng.
Scarlett đổ một ít bánh ngũ cốc vào chén, thêm vào ít đường và đặt giữa hai đứa. – Cậu ăn không?
- Không, lúc nãy tớ ăn rồi.
Hôm nay mẹ cho tôi ăn bánh mì Pháp sau khi dành hết buổi sáng ra phía sau nhà tán gẫu với bà bạn tâm giao Irma Trilby, người nổi tiếng gầy nhom nhưng nói nhiều đến mức sáng nào tôi cũng nghe thấy tiếng bà ấy ngoài cửa sổ. Dường như bà Trilby này biết rõ bác Sherwood vì cùng trong hội phụ huynh. Chính bà Trilby này từng nhiều lần thấy ba người chúng tôi đi làm cùng nhau, thậm chí có một buổi tối muộn còn bắt gặp Michael và Scarlett đứng hôn nhau dưới ánh đèn đường. Michael là một anh chàng rất tuyệt vời, bà Trilby đã cất giọng the thé bày tỏ như thế. Chính cậu ấy đã xén tỉa gọn ghẽ bãi cỏ và luôn lén ông chủ để chọn cho bà ấy những trái chuối ngon nhất trong cửa hàng Milton. Thật là một anh chàng tử tế.
Sau khi nghe hết câu chuyện, mẹ mới chịu trở vào nhà, lòng đầy thương cảm và chuẩn bị cho tôi một bữa sáng no nê. Trong lúc tôi ăn, mẹ ngồi bên cạnh nhâm nhi tách cà phê, mỉm cười như thể chờ đợi tôi thốt lên điều gì đó. Chẳng lẽ người ta tiếc thương sự ra đi của Michael đơn giản chỉ vì không có ai cắt cỏ hộ và giúp chọn chuối ngon nữa sao.
- Vậy mấy giờ tiến hành nghi lễ? – Cô Marion với lấy gói thuốc Marlboro Lights (9) từ chiếc khay giữa bàn và hỏi tôi.
- Dạ, mười một giờ.
Cô ấy châm thuốc rồi nói:
- Hôm nay lịch làm việc ở tiệm kín mít rồi nhưng mẹ sẽ ráng sắp xếp, được chứ?
- Vâng ạ. – Scarlett đáp lại.
Cô Marion làm việc ở Fabulous You, một tiệm nhiếp ảnh sang trọng nằm trong khu trung tâm thương mại Lakeview. Ở đó, khách hàng được trang điểm và phục sức trọn gói, đảm bảo trong những bức hình dành tặng cho chồng hoặc người yêu ấy, họ phải trông mỹ miều hơn thường ngày. Cô Marion dành bốn mươi giờ một tuần chỉ để trang điểm cho chị em phụ nữ đủ lứa tuổi, từ các bà nội trợ đến đám thiếu nữ mới lớn. Tất cả đều cùng một kiểu môi dày cộm son và áo dạ hội na ná nhau. Sau đó, cô chụp hình cho họ, trong những tư thế cầm ly sâm-banh trống rỗng, với ánh mắt hướng vào ống kính, cố gắng hết sức để sao cho ánh nhìn thật quyến rũ. Đó là một công việc vất vả nếu xét đến dàn “người mẫu” mà cô phải cộng tác hàng ngày, đơn giản bởi không phải ai sinh ra cũng quyến rũ sẵn. Cô ấy vẫn thường bảo rằng điều kỳ diệu nằm ở các loại kem che khuyết điểm cùng một góc chụp sáng tạo.
Cô Marion khẽ kéo chiếc ghế ra sau và lấy tay cào cào lại mái tóc. Khuôn mặt cô giống hệt Scarlett, tròn đầy với đôi mắt màu lục thẫm. Tóc cô dày, màu vàng và cứ vài tháng, cô lại đi tẩy một lần. Cô Marion sơn móng tay màu đỏ tươi, hút thuốc liên tục và sở hữu một bộ sưu tập đồ lót có khi còn nhiều hơn cả cửa hàng Victoria’s Secret (10) . Lần đầu tiên tôi gặp cô là ngày hai mẹ con Scarlett dọn về đây. Khi ấy, cô Marion mặc chiếc váy bó sát, áo hở rốn đính đầy hạt cườm và mang đôi guốc cao ít nhất phải hơn một tấc và đang ve vãn mấy người ở dịch vụ vận chuyển. Trong mắt tôi, người mẹ này của Scarlett khác hẳn mẹ tôi, cũng không giống bất kỳ người mẹ nào trên đời. Cô Marion như một cô búp bê Barbie và kể từ đó, tôi biết cô ấy sẽ luôn mê hoặc tôi.
- Thôi, – cô Marion uể oải đứng dậy, bước ngang qua Scarlett và xoa đầu con gái, – mẹ phải chuẩn bị đi làm đây. Khi nào cần, các con cứ gọi nhé!
- Vâng ạ! – Scarlett đáp lại và tiếp tục múc một muỗng đầy ngũ cốc.
- Chào cô ạ! – Tôi cũng tạm biệt cô ấy.
Đợi đến khi cô Marion xuống khỏi cầu thang cùng tiếng bước chân xa dần, Scarlett mới lên tiếng:
- Mẹ tớ sẽ không đến đâu.
- Sao cậu biết?
Scarlett thả chiếc muỗng xuống cái chén giờ đã sạch trơn.
- Đám tang lúc nào cũng làm mẹ tớ thấy khó ở. Mẹ luôn có sẵn những cái cớ hợp lý.
Khi cả hai lên lầu chuẩn bị, tôi thả người xuống giường của Scarlett. Chiếc giường ngổn ngang quần áo và tạp chí, chăn màn thì dồn lại thành đống cẩu thả. Scarlett mở tủ quần áo, đứng chống nạnh suy nghĩ. Phía dưới nhà, cô Marion hét với lên chào tạm biệt chúng tôi, tiếp đến là tiếng cánh cửa đóng sầm lại và tiếng động cơ xe rền vang và lướt ra ngoài phố. Từ cửa sổ phòng Scarlett nhìn xuống, tôi thấy mẹ mình đang ngồi trên xích đu ngay hiên nhà, vừa uống cà phê vừa đọc báo. Khi thấy cô Marion lái xe ngang qua vẫy tay chào, mẹ ngước lên cười xã giao và lại tiếp tục đọc báo.
- Ghét thật! – Scarlett bất ngờ lên tiếng, cúi người vào chiếc tủ lôi ra chiếc váy màu xanh nước biển cổ trắng – Tớ chẳng có bộ nào phù hợp cả.
- Thì cậu mặc cái váy mười hai tuổi của tớ đấy! – Tôi đề nghị và cậu ấy liền nhăn mặt.
- Chắc là mẹ tớ có! – Scarlett bất ngờ lên tiếng và bước vội khỏi phòng. Tủ quần áo của cô Marion lúc nào cũng đầy ắp như trong truyện cổ tích, cô ấy vừa là tín đồ thời trang lại vừa tiếc của không chịu bỏ đi thứ gì, một sự kết hợp đáng lo ngại.
Tôi với tay, mở chiếc radio kế bên giường, nằm ngửa ra và nhắm mắt lại. Có lẽ tôi đã dành hơn nửa cuộc đời mình trong căn phòng này, cùng nằm dài trên giường chia nhau quyển tạp chí Seventeen (11) , cùng nhau ngắm nghía những mẫu váy dạ hội sắp ra mắt cho mùa lễ hội, cùng nghiền ngẫm mấy bí quyết ngăn ngừa mụn trứng cá và cẩm nang cưa cẩm lũ con trai. Ngay cạnh cửa sổ căn phòng là một chiếc kệ dán đầy ảnh: hình tôi và Scarlett trong chuyến đi biển cách đây hai năm, cùng đội hai chiếc nón thủy thủ giống hệt nhau và giơ tay chào kiểu nhà binh. Thêm một bức ảnh của cô Marion năm mười tám tuổi, bức ảnh thời còn đi học nay đã bắt đầu nhàu úa và ngả màu. Và cuối cùng, ở phía góc kệ vẫn là bức ảnh Scarlett và Michael chụp ở hồ nước. Lúc tôi ở trong trại hè Sisterhood, Scarlett đã di chuyển nó đến vị trí dễ với tới hơn.
Bất chợt, tôi cảm thấy có thứ gì đó cấn vào lưng mình. Tôi với tay định đẩy nó sang một bên. Thứ đó hóa ra là một đôi giày ống đế cao và nó cứ ở lì một chỗ bất chấp nỗ lực dịch chuyển của tôi. Tôi đổi tư thế và giật mạnh, lòng tự hỏi không biết Scarlett đã mua đôi giày từ lúc nào. Khi tôi đang định hỏi với ra ngoài thì bất ngờ, chiếc giày đá bật trở lại khiến mớ bùi nhùi lộn xộn trên giường bị xổ tung, đồ đạc vung vãi rơi xuống sàn khi ai đó trồi lên từ bên dưới khiến đám chăn gối và tạp chí văng tứ tán. Và Macon Faulkner hiện lên ngay trước mắt tôi.
Cậu ta đảo mắt khắp phòng như thể còn chưa định thần được đây là đâu. Mái tóc vàng của cậu ta được tỉa sát trên vành tai và phần trán húi cao, cùng một bên tai có ba lỗ xỏ khuyên bạc.
- Ờ…ờ… – Cậu ta cố xoay xở ngồi ngay ngắn lại và chớp chớp mắt. Một mớ bừa bộn bao quanh người Macon, thậm chí một vạt khăn trải giường còn đang quấn quanh cánh tay cậu ta nữa. – Scarlett đâu rồi nhỉ?
- Cậu ấy ở dưới nhà. – Tôi trả lời như cái máy và chỉ tay ra cửa một cách vô thức.
Macon lắc đầu, cố lấy lại sự tỉnh táo. Thật sự thì việc này cũng chấn động tương tự như tôi thấy Mahatma Gandhi (12) hoặc quỷ dữ trên giường của Scarlett vậy. Thậm chí, tôi còn không biết liệu Scarlett có bạn bè gì với Macon hay không. Nhưng dĩ nhiên, mọi người đều biết cậu ấy. Macon khá nổi tiếng, những gì cậu ấy làm ai mà không biết.
Nhưng rốt cuộc Macon làm cái quái gì trên giường của Scarlett – bạn tôi – mới được? Không thể nào – Không thể. Lẽ ra Scarlett phải nói với tôi. Cậu ấy luôn kể cho tôi nghe về mọi chuyện cơ mà. Và chẳng phải chính cô Marion đã khẳng định là Scarlett ngủ ngoài ghế sofa suốt đêm qua sao?
- Chắc tớ mặc bộ này quá. – Scarlett vừa nói vừa bước vào phòng với chiếc váy màu đen trên tay. Cậu ấy nhìn Macon rồi liếc sang tôi, rồi tiếp tục bước đến bên chiếc tủ quần áo, như thể việc phát hiện ra một cậu con trai lạ mặt trên giường mình vào 10 giờ sáng thứ Năm là một chuyện rất đỗi bình thường vậy.
Macon lại nằm xuống, lấy một tay che mắt. Còn một chiếc giày, tức nguyên bàn chân của cậu ta, lại chễm chệ trên đùi tôi. Ôi trời, chân của Macon Faulkner trên đùi tôi!
- Cậu gặp Halley bao giờ chưa? – Scarlett vừa treo chiếc váy vào tủ vừa hỏi Macon. – Halley, đây là Macon. Macon, đây là Halley.
- Chào! – Cậu ấy gật đầu và lấy chân ra khỏi đùi tôi như chuyện này chẳng có gì nghiêm trọng rồi bước xuống giường và đứng dậy vươn vai. – Khiếp, tớ mệt quá đi mất!
- Ừ, tất nhiên rồi! – Scarlett nói bằng giọng bực bội như những khi tôi tỏ ra yếu đuối trước đây. – Cậu trông như kẻ nghiện ấy!
Macon lại ngả người ra sau, chân cuộn tròn trong tấm ga trải giường và tìm kiếm thứ gì đó trong khi tôi ngồi yên quan sát cậu ta. Cậu ấy mặc áo thun trắng có đường viền rách tua rua và quần lửng màu xanh thẫm, đi đôi giày to bự. Macon cao, rắn chắc và rám nắng từ sau mùa hè làm thêm với công việc trang trí sân vườn trong khu. Trước nay tôi chỉ nhìn thấy bóng dáng cậu ta lúi húi trong các khu vườn hoặc là từ đằng xa mà thôi.
- Này, cậu có thấy… – Macon lên tiếng, nhưng Scarlett đã với tay lấy cái mũ bóng rổ trên chiếc bàn kế bên giường ngủ. Macon ngồi thẳng dậy đón chiếc mũ từ tay Scarlett với vẻ “cừu non vô số tội”. – Ừ, cảm ơn nhé!
- Không có chi. – Scarlett vuốt mái tóc ra đằng sau và lấy tay túm lại, mỗi lần suy nghĩ điều gì cô ấy đều như thế.
- Thôi, lát nữa gặp nhé! – Macon vừa nói vừa đi về phía cửa phòng, tay đút túi và bước ngang qua tôi như tôi đang tàng hình vậy.
- Ừ. – Scarlett đứng ngay cánh cửa.
- Đi ra lối này có sao không? – Macon hỏi nhỏ, chỉ tay xuống phía dưới phòng cô Marion.
- Không sao đâu.
Cậu ấy gật đầu, bước tới Scarlett với vẻ hơi ngượng ngùng và cúi xuống khẽ hôn lên má Scarlett.
- Cảm ơn nhé! – Macon nói khẽ, chủ ý không để tôi nghe thấy. – Tớ chỉ muốn nói thế thôi.
- Không sao đâu. – Scarlett ngước lên cười mỉm với Macon, rồi cả hai chúng tôi nhìn cậu ấy nhún nhẩy đi xuống, đôi giày gõ cộp cộp vào bậc cầu thang ra khỏi cửa.
Khi tiếng bước chân xa dần, tôi bước đến bên bậu cửa sổ, dựa người vào tấm kiếng chờ đợi Macon ra đến khoảng sân trước và liếc mắt dõi theo – đủ mười tám bước chân là đến đường lộ. Phía bên kia, mẹ tôi cũng gấp tờ báo lại, ngước mắt lên quan sát Macon.
- Thật không thể tin nổi! – Khi Macon Faulkner đã đi ngang bụi cây đầy gai và rẽ trái thẳng tiến về tấm biển “Lakeview – Vùng đất bạn hữu”, tôi quay lại nói to.
- Cậu ấy rất buồn. – Scarlett giải thích đơn giản. – Michael là bạn thân nhất của cậu ấy mà.
- Nhưng cậu thậm chí còn chưa nói với tớ là cậu quen với Macon. Giờ thì tớ lên phòng cậu và thấy cậu ta ngay trên giường!
- Tớ chỉ quen cậu ấy qua Michael thôi. Cậu ấy đang bất ổn, Halley. Macon gặp đủ thứ rắc rối rồi.
- Dù sao thì thật là kỳ cục. – Tôi đáp. – Ý tớ là chuyện Macon tá túc trong phòng cậu ấy.
- Cậu ấy cần một ai đó. Thế thôi.
Tôi vẫn dõi mắt theo Macon Faulkner khi cậu ta đi ngang qua ngôi nhà đẹp nhất vùng, khuất khỏi chỗ mấy vòi phun nước tự động đang bắn nước xì xì và tờ báo nằm chỏng chơ trong buổi sáng muộn trời quang đầy nắng. Cũng không biết tại sao tôi lại cứ nhìn theo như thế. Khi cậu ấy đi đến góc phố và chuẩn bị khuất khỏi tầm mắt, Macon quay lại giơ tay lên vẫy tôi, như thể cậu ta biết tôi vẫn đứng bên cửa sổ nhìn theo từ lúc nãy.
***
Khi chúng tôi đến, mọi người đã đứng thành một hàng dài ngay ngắn ngoài cánh cửa nhà thờ. Scarlett hầu như không nói gì dọc đường, khi chúng tôi tiến lại phía đám đông, cậu ấy liên tục siết chặt nắm tay.
- Này, cậu ổn không? – Tôi hỏi.
- Kỳ cục, tất cả thật là lố bịch. – Scarlett trả lời với giọng lí nhí và trống rỗng, mắt nhìn thẳng về phía trước.
Tôi ngước lên và biết Scarlett đang ám chỉ điều gì. Elizabeth Gunderson, trưởng đội cổ vũ, đang đứng giữa đám bạn ngay trước bậc thềm nhà thờ. Cô ta khóc nức nở, tay cầm một chiếc áo T-shirt màu đỏ.
Khi chúng tôi còn cách đám đông khoảng vài bước chân, Scarlett dừng lại đột ngột, khiến tôi đang tiếp tục đi bị mất đà phải trở lui vài bước. Scarlett đứng yên bất động, hai tay ôm lấy ngực.
- Scarlett?
- Tệ thật. Lẽ ra bọn mình không nên đến đây.
- Nhưng…
Chưa kịp nói dứt câu, Ginny Tabor đã tiến đến phía sau chúng tôi, ôm chầm lấy cả hai và bắt đầu khóc. Cô nàng mặc một chiếc đầm màu xanh ngắn cũn cỡn, người đầy mùi keo xịt tóc và khói thuốc lá.
- Lạy Chúa! – Ginny nói, tựa đầu lên tôi rồi đến Scarlett khi cả hai đều cố tránh cô ta một cách hết sức tế nhị. – Thật đau buồn quá đi! Tớ không thể ăn nổi chút gì từ lúc biết tin. Ôi, đau lòng quá!
Cả hai chúng tôi không ai đáp lại, chỉ tiếp tục bước tới trong khi Ginny lóng ngóng rút ra một điếu thuốc, bật lửa và lấy tay kia phủi phủi làn khói:
- Ý tớ là không phải lúc nào chúng tớ cũng vui vẻ với nhau, nhưng tớ đã yêu cậu ấy rất nhiều ! Chỉ là do hoàn cảnh, – nói đến đây, cô ta lại nấc lên và lắc lắc đầu, – mà chúng tớ mới chia tay. Nhưng anh ấy đã từng là tất cả đối với tớ trong suốt hai tháng ấy. Tất cả!
Tôi liếc qua Scarlett lúc này đang nhìn chăm chăm xuống đất rồi nói với Ginny:
- Ginny ạ, tớ rất tiếc.
- Ồ, – Ginny đáp lại bằng giọng khản đặc, tiếp tục phà ra một làn khói thuốc dài. – Nếu cậu quen thân với Michael thì sẽ đau lòng lắm. Cậu hiểu không?
- Ừ, tớ biết.
Chúng tôi ít gặp Ginny từ giữa hè. Sau khi bỏ vài tuần tụ hội chơi bời với chúng tôi, cô ta bị tống đi tham dự kỳ trại hè kết hợp các hoạt động cổ vũ và học giáo lý trong khi bố mẹ Ginny sang châu Âu. Đối với chúng tôi, điều đó cũng bình thường thôi. Cuộc sống Ginny có vô vàn những thay đổi và bạn phải chấp nhận điều đó. Vài ngày sau đó, Scarlett gặp Michael, thế là nửa mùa hè còn lại của chúng tôi lại tiếp diễn.
Hai đứa tôi nối đuôi đoàn người vào trong nhà thờ. Phía sau, nàng Elizabeth đang đi tới. Ginny – dĩ nhiên – tiếp tục gây chú ý bằng cách tới bên Elizabeth tức tưởi, rồi cả hai đứng đó ôm chầm lấy nhau và cùng khóc.
- Tội nghiệp, – đứa con gái đứng sau lưng tôi nói, – cậu ấy yêu Elizabeth vô cùng. Cậu biết không, cái áo mà cô ấy đang cầm trên tay là của Michael đấy. Từ lúc nghe tin, cô ấy chẳng hề rời nó.
- Tớ tưởng họ chia tay rồi cơ chứ! – Một đứa khác phản đối, vừa nói vừa thổi bong bóng kẹo cao su.
- Ừ thì hồi đầu hè, nhưng cậu ấy vẫn còn yêu Elizabeth. Dù sao thì con nhỏ Ginny Tabor đó thật quá nông cạn. – Đứa con gái đầu tiên đáp trả. – Nó đi lại với Michael có hai ngày chứ mấy.
Khi vào trong nhà thờ, Scarlett và tôi chọn ngồi phía sau, kế bên hai phụ nữ lớn tuổi đang quỳ gối nghiêm trang khi chúng tôi len vào trong. Ở phía trên gian cung thánh có treo hai tấm poster lớn gắn đầy hình của Michael: hình sơ sinh, hình đi học và thêm những bức hình mà tôi từng thấy trong các quyển kỷ yếu của trường. Và ngay chính giữa, nổi bật nhất, chính là bức ảnh ở buổi chiếu hình tổng kết cuối năm, bức ảnh mà chúng tôi đã nhiệt tình cổ vũ trong khán phòng tối đèn hồi tháng Sáu. Tôi muốn chỉ cho Scarlett thấy, nhưng khi tôi quay sang, cậu ấy đang nhìn chằm chằm vào cái lưng ghế trước mặt, nước da xanh tái. Thế là tôi lại tiếp tục im lặng.
Tang lễ bắt đầu hơi trễ, dòng người cứ thế tiếp tục xếp thành hàng, chậm rãi lê bước và liên tục lấy mảnh giấy chương trình được phát ở cửa phẩy phẩy làm quạt. Elizabeth Gunderson bước vào, vẫn còn sụt sùi và được dẫn thẳng đến chỗ ngồi, ngay phía sau là Ginny Tabor đang nức nở. Nhìn thấy bạn bè lớp tôi trong khung cảnh thế này thật là kỳ khôi: một số ăn vận chỉn chu, có lẽ do đã quen mặc lễ phục, số khác trông thật lạc lõng, ngượng nghịu kéo kéo cà vạt và chỉnh lại áo sơ mi. Tôi tự hỏi Michael sẽ cảm thấy thế nào nếu cậu ấy từ trên cao nhìn xuống những con người đang hiện diện ở đây, với những khuôn mặt đỏ ửng ngọ nguậy trong ghế ngồi, những đứa con gái đang khóc lóc nỉ non mà cậu bỏ lại sau lưng, và với cha mẹ cùng chị gái mình, những người ngồi ngay băng ghế đầu, khuôn mặt đượm vẻ trầm mặc u buồn. Tôi nhìn sang Scarlett, người đã yêu Michael rất nhiều chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, siết nhẹ tay Scarlett. Scarlett cũng siết lại bàn tay tôi, mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước.
Lễ tang diễn ra trang trọng và ngắn gọn, không khí ngày càng ngột ngạt với một đám đông người ngồi san sát nhau và chúng tôi hầu như không thể nghe rõ tiếng mục sư bởi tiếng quạt gió và băng ghế cót két. Ông ấy nói về Michael, về vị trí đặc biệt của cậu ấy trong lòng mọi người, rồi lại thêm vài điều về sự sắp đặt đầy ẩn ý của Đức Chúa. Khoảng được mười phút thì Elizabeth Gunderson đứng dậy ra ngoài, tay che miệng bước nhanh dọc dãy ghế, kéo theo mấy đứa trong nhóm. Những người phụ nữ ngồi kế chúng tôi lắc đầu tỏ vẻ khó chịu và Scarlett lại nắm tay tôi chặt hơn, móng tay cậu ấy bấu cả vào da thịt của tôi.
Khi buổi lễ kết thúc, tiếng rì rầm nổi lên và mọi người lục đục kéo ra ngoài. Trời bỗng dưng tối sầm lại, một cơn gió thoảng qua, mang theo mùi ẩm ướt. Có vẻ một cơn mưa đang kéo đến. Trên trời, những đám mây kết thành từng mảng lớn và xám xịt sau mấy ngọn cây.
Tôi hầu như lạc mất Scarlett trong đám đông ồn ào trước sảnh nhà thờ. Ginny đang tựa vào Brett Hershey, đội trưởng đội bóng đá và anh chàng này phải dìu cô ta ra ngoài. Elizabeth thì đang ngồi trên băng ghế trước trong một chiếc xe đậu ngoài bãi, cửa xe để mở và hai tay ôm đầu. Những người khác đứng tụm lại, lưỡng lự như thể họ đang chờ đợi ai đó cho phép ra về, tay vẫn giữ tờ chương trình tang lễ và liếc chừng lên bầu trời.
- Tội nghiệp Elizabeth. – Scarlett nói khẽ với tôi khi bọn tôi băng qua chỗ Elizabeth.
- Họ chia tay cũng lâu rồi mà.
- Ừ. – Scarlett đá một viên sỏi khiến nó lăn đi lách cách dưới gầm xe. – Nhưng Michael từng rất yêu cô ta.
Tôi nhìn qua Scarlett. Gió thổi làm tóc cậu ấy bay lòa xòa trước mặt. Chiếc đầm đen của cô Marion càng làm nổi bật nước da trắng xanh của Scarlett.
- Michael cũng rất yêu cậu, Scarlett à.
Scarlett ngước nhìn lên bầu trời đen kịt mây, hơi ẩm báo hiệu cơn mưa càng lúc càng rõ rệt hơn.
- Ừ, tớ biết chứ. Tớ biết.
Hạt mưa nặng trĩu đầu tiên rơi xuống trên vai tôi, để lại một chấm tròn thẫm màu. Rồi bất ngờ mưa ào xuống. Nước trút xối xả, làm mọi người vội bước về phía xe của mình, chỉ kịp đưa những tờ chương trình lên che tạm trong khi chạy. Scarlett và tôi ngồi vào bên trong xe, ngắm dòng nước lăn trên tấm kính chắn gió. Lâu lắm rồi tôi mới thấy trời mưa to đến vậy.
Chúng tôi rẽ ra đường chính trên chiếc Ford Aspire của Scarlett. Nó là món quà sinh nhật của bà ngoại cậu ấy tặng từ hồi tháng Tư. Cái xe này nhỏ xíu, chỉ bằng phân nửa một chiếc xe thông thường. Khi xe đang băng qua dòng nước trên đường, tôi tự hỏi không biết liệu nó có bị kéo tuột vào dòng chảy và trôi đi mất như Wynken, Blynken và Nod (13) trong truyện cổ hay không.
Scarlett nhìn thấy trước tiên một kẻ đang lững thững bước một mình dọc vỉa hè, chiếc áo sơ mi sũng nước và dính chặt vào lưng. Đầu cúi xuống, hai tay đút túi quần và chăm chăm nhìn xuống đất trong khi những người xung quanh bước vội vã cùng chiếc ô che đầu. Scarlett liền bấm còi, cho xe chạy chầm chậm bên lề đường.
- Macon! – Scarlett gọi to, âm thanh bị nuốt chửng trong màn mưa dày. – Này!
Cậu ta không nghe thấy và Scarlett khều tôi:
- Gọi cậu ấy đi Halley.
- Gì cơ?
- Kéo cửa xuống, hỏi xem cậu ấy muốn đi nhờ không.
- Scarlett, – tôi nói, tự nhiên cảm thấy hồi hộp. – Tớ có quen cậu ấy đâu!
- Thì sao nào? – Scarlett nhìn tôi. – Trời đang mưa đấy. Nhanh lên nào!
Tôi kéo cửa kính xe xuống, thò đầu ra ngoài, cảm giác nước mưa đang trút ào ạt xuống gáy tóc.
- Này! – Tôi gọi.
Cậu ta vẫn không nghe thấy. Tôi hắng giọng lần nữa, có chần chừ đôi chút.
- Ê này!
- Halley! – Scarlett lên tiếng, liếc mắt vào tấm kiếng chiếu hậu. – Bọn mình sắp gây tắc đường rồi đấy. Nhanh lên đi!
- Nhưng cậu ấy đâu có nghe thấy tớ đâu. – Tôi chống chế.
- Bởi vì cậu cứ lí nhí.
- Ai bảo vậy? – Tôi phản đối. – Giọng tớ ở mức độ vừa phải đấy chứ.
- Cậu phải hét to lên.
Những chiếc xe chạy ngang qua chúng tôi khiến nước mưa bắn vào cửa sổ, làm ướt cả chiếc váy của tôi. Scarlett thở hắt ra, tỏ vẻ mất kiên nhẫn:
- Mau lên nào Halley, đừng có nhút nhát như thế!
- Tớ không nhút nhát! Trời ạ!
Scarlett nhìn tôi. Tôi lại đưa đầu ra ngoài cửa sổ:
- Macon, – lần này tôi lớn tiếng hơn một chút vì bực bội. – Này Macon!
Scarlett lại thở hắt ra thật mạnh. Trong khi tôi đã hoàn toàn ướt sũng nước mưa.
- Macon, – tôi hét to hơn, nhoài hẳn đầu ra khỏi xe. – Macon!!!
Cậu ấy giật mình, quay lại nhìn tôi như thể chúng tôi vừa mới từ dưới đất trồi lên trong chiếc xe nhỏ tí này và chuẩn bị đè bẹp cậu ta. Macon tiếp tục nhìn chăm chăm vào tôi, áo cậu ấy sũng nước và bết chặt vào người, tóc tai rũ rượi và cứ thế đứng yên nhìn tôi, như thể tôi là một đứa dở hơi chính gốc.
- Hả? – Macon la lớn đáp lại. – Gì vậy?
Bên cạnh tôi, Scarlett bật cười, lần đầu tiên tôi thấy cậu ấy cười từ lúc tôi ở trại hè về. Scarlett tựa lưng vào ghế, tay bụm miệng cười giòn giã không thể nhịn được. Tôi chỉ muốn chết đi cho rồi.
- À… – Tôi ngập ngừng trong lúc Macon vẫn nhìn mình, – cậu có muốn quá giang không?
- Không sao. – Macon hét qua tôi để trả lời Scarlett. – Nhưng cảm ơn nhé!
- Macon, trời đang mưa đấy. – Giờ tôi mới nhận ra giọng Scarlett giống hệt giọng cô Marion. Khi Macon ngước lên, tôi nhận ra mắt cậu ta đỏ hoe và sưng húp. – Nhanh lên nào!
- Tớ không sao. – Macon lặp lại, bước lùi khỏi chiếc xe. Cậu ta đưa tay lên vuốt mặt và cả mái tóc, khiến nước bắn tung tóe. – Gặp lại sau nhé!
- Macon!
Scarlett gọi giật lần nữa, nhưng Macon đã tiếp tục bước đi trong cơn mưa. Khi chúng tôi dừng lại ngay ngã tư đường, cậu ấy rẽ ngang và biến mất, tôi chỉ kịp nhìn thấy chiếc áo sơ mi của Macon như một vệt trắng quét ngang bức tường gạch trong ngõ hẻm. Rồi cậu ấy nhanh chóng mất dạng. Scarlett thở dài khi tôi vừa kéo kính xe lên vừa tự bâng quơ một câu gì đó rằng mọi người đều có con đường riêng của mình. Tôi vẫn tiếp tục nhìn về phía ngõ hẻm nơi Macon biến mất, tự hỏi không biết cậu ấy có còn ở đó hay không.