CHƯƠNG III
Khi nghĩ về Michael Sherwood, tất cả những gì hiện lên trong tâm trí tôi là cậu ấy gắn liền với những món thực phẩm. Nào là những trái chuối vàng thẫm, những trái kiwi xanh bóng hay đám mận tím mỡ màng và tươi roi rói. Tình bạn của chúng tôi với Michael – anh chàng nổi tiếng và vô cùng đặc biệt này – đã bắt đầu một cách hết sức đơn giản bằng trái cây và các loại rau củ như thế.
Scarlett và tôi làm thu ngân tại cửa hàng Milton, chúng tôi mặc áo khoác màu xanh với tấm bảng tên: Tôi là Halley! Chào mừng bạn đến cửa hàng Milton! Scarlett làm ở quầy số tám No Candy (14) , còn tôi chịu trách nhiệm quầy dành cho các khách hàng nhỏ lẻ mua dưới mười lăm sản phẩm. Nó ở ngay cạnh quầy của Scarlett, gần đến mức vẫn có thể liếc mắt sang và nói chuyện với nhau, át đi tiếng máy tính tiền những khi đông khách. Dĩ nhiên đây không phải là một công việc lâu bền, nhưng ít ra chúng tôi có thể làm việc cùng nhau.
Michael Sherwood đến nhận việc vào cuối tháng Sáu. Cậu ấy thắt cà vạt chỉnh tề, có vẻ hơi hồi hộp khi đứng đợi nộp đơn tại quầy Dịch vụ khách hàng và vẫy tay với tôi như thể tôi và cậu ta đã là bạn bè thân thiết vậy. Michael được xếp vào bộ phận Nông phẩm – vị trí Trợ lý Giám đốc Quầy hàng thực phẩm hàng ngày . Công việc đó bao gồm trách nhiệm sắp xếp trái cây, bọc chúng trong các khay nhựa màu xanh và đóng gói lại, rồi ngày hai lần vẩy nước cho rau củ tươi lâu bằng một cái bình xịt lớn. Hầu như Michael luôn vui vẻ và hay nói cười, nhờ thế mà nhanh chóng kết thân với mọi người từ quầy Thực phẩm tươi sống đến quầy Mỹ phẩm. Tuy nhiên, cậu ấy quan tâm nhiều đến tôi và Scarlett. Mà nói cho đúng thì cũng chỉ có Scarlett thôi, còn tôi – như thường lệ – chỉ là nhân vật phụ mà thôi.
Chuyện bắt đầu bằng những trái kiwi. Trong suốt tuần đầu tiên, ngày nào Michael Sherwood cũng ăn trưa bằng bốn trái kiwi. Chỉ mỗi kiwi mà thôi, ngoài ra không thêm bất cứ gì khác. Chiến thuật tiếp cận của cậu ta như sau: đặt túi kiwi lên cái cân ở quầy của Scarlett, mỉm cười, rồi mang ra ngoài bãi cỏ nhỏ chỗ bãi đậu xe, cắt thành từng miếng và ăn một mình. Điều đó khiến hai đứa tôi cứ thắc mắc mãi, bởi chẳng bao giờ bọn tôi ăn kiwi cả.
- Cậu ấy thích trái cây, – Scarlett kết luận ngắn gọn vào một ngày nọ, khi Michael vừa mới rời khỏi, không quên để lại một nụ cười tươi rói hết mức có thể, đủ để khiến má Scarlett ửng đỏ. Lúc trước, có một dạo Michael cũng xếp hàng tính tiền ở quầy của tôi, nhưng kể từ ngày thứ ba trở đi cậu ấy xếp hàng ở quầy Scarlett, dù đèn báo “Xin mời khách hàng kế tiếp” bên phía tôi đã sáng lên.
Tôi hướng mắt ra ngoài, quan sát Michael trong chiếc tạp dề màu xanh cùng với đám trái xù xì nhỏ tí kia và lắc đầu. Scarlett thì phải mất đến mười lăm phút mới thôi đỏ mặt.
Ngày hôm sau, Michael lại tiếp tục mang kiwi đến quầy tính tiền và Scarlett lên tiếng bắt chuyện:
- Chắc cậu thích kiwi lắm!
- Chúng ngon tuyệt cú mèo! – Michael trả lời, đứng tựa vào quầy tính tiền của Scarlett. – Cậu đã ăn thử bao giờ chưa?
- Chỉ một ít trong salad trái cây thôi. – Scarlett đáp. Lúc này, tôi mải lắng nghe đến nỗi “đẩy nhầm giá” lên đến hai trăm đô-la, làm mọi việc ở quầy của tôi trở nên nháo nhào và khiến bà khách hoảng vía vì bà ta chỉ mua vài gói nui, thêm mấy trái dứa và một hộp băng vệ sinh. Trong lúc bận tách rời đám hàng hóa ra và đóng gói lại từ đầu, tôi đã bỏ lỡ phân nửa câu chuyện và khi quay lại thì Michael đã ra ngoài ăn trưa, chỉ còn lại Scarlett tay nắm chặt một trái kiwi và ngắm nghía, săm soi nó đến từng chi tiết.
- Michael cho tớ đấy! – Scarlett thầm thì, khuôn mặt đỏ ửng. – Cậu tin nổi không?
- Này cô! – Một vị khách hàng ở quầy tôi lớn tiếng. – Có chịu tính tiền không đấy?
- Vâng! – Tôi đáp lại và quay sang phía Scarlett. – Cậu ấy còn nói gì không?
- Tính tiền giùm tôi nào! – Một ông cao lớn, râu rậm, mặc chiếc áo sơ mi hoa đặt rổ hàng lên bàn, làm xô lệch mấy cuộn phiếu mua hàng tôi đang cầm trên tay. Ông ấy mua bốn hộp thịt heo chế biến sẵn, một vài chai xịt phòng và hai bình gas nhỏ. Nhiều khi ta chẳng thể mong biết được mọi người mua tất cả những thứ này để làm gì.
- Tớ nghỉ giải lao đây. – Scarlett vừa nói với sang tôi vừa mở ngăn kéo quầy. – Cũng hơi trễ rồi đấy.
- Này đợi đã, tớ sắp xong rồi đây! – Nhưng dĩ nhiên tại quầy của tôi vẫn còn một hàng dài người với những giỏ hàng mười lăm món lắt nhắt, cũng có thể là mười tám và lên đến hai mươi món với chút sáng tạo trong môn tập đếm. Tất cả đều đang sốt ruột nhìn tôi.
- Này Halley, có sao không nếu tớ… – Scarlett hỏi tôi, trong khi đi thẳng đến văn phòng để đóng quầy thu ngân, trên tay cầm chặt trái kiwi.
Cậu ấy liếc nhanh ra ngoài sân, nơi Michael đang ngồi ngay chỗ vệ đường cùng với bữa trưa của cậu ta.
- Ừ, không sao đâu. – Tôi đáp, quay lại phía Scarlett trong lúc đưa từng món hàng của người đàn ông râu ria qua máy quét mã vạch. – Coi như tớ nghỉ trễ hơn một chút…
Nhưng Scarlett đã rời bước ra ngoài về phía vỉa hè đầy nắng và ngồi xuống cạnh Michael, chẳng kịp nghe nốt câu tôi nói. Cô bạn Scarlett thân thiết nhất của tôi đã đánh đổi trái tim mình bằng một trái kiwi như thế.
Kể từ sau đó, tôi hiếm có dịp nghỉ giải lao cùng Scarlett. Michael Sherwood thu hút Scarlett của tôi bằng những loại rau trái lạ lẫm. Cậu ấy thả mấy miếng dưa lưới hoặc cam ruột đỏ xuống quầy thu ngân của Scarlett khi cô nàng đang bận bịu tính tiền. Rồi mỗi khi Scarlett ngước nhìn lên thì lại có gì đó treo lủng lẳng ngay bảng thông báo: một trái lê cùng với ba củ cải nhỏ ngay ngắn. Luôn có rất nhiều điều bí ẩn về Michael, và Scarlett thích thú vì chúng. Ngay chính tôi, nếu ở trong tình huống ấy chắc chắn cũng sẽ như vậy.
Đó là mùa hè đầu tiên không chỉ dành riêng cho tôi và Scarlett. Michael luôn bên cạnh pha trò, nhảy ùm sấp bụng xuống hồ bơi hoặc là vòng tay ngang thắt lưng Scarlett, chọc khuấy một ít sô-cô-la hạnh nhân ở quầy thực phẩm. Đó cũng là mùa hè đầu tiên mà tôi và Scarlett không còn bên cạnh nhau vào tất cả các buổi tối. Thỉnh thoảng, lúc trời chập choạng, tôi nhìn ngang hàng cây ven đường, thấy bóng Scarlett đứng đó đợi xe Michael từ từ lái vào nhà. Có những tối muộn khi nghe tiếng họ chào tạm biệt nhau bên ngoài, tôi khẽ vén chiếc rèm cửa lên quan sát cậu ấy hôn Scarlett trong ánh đèn đường trải vàng. Trước đây, chưa khi nào tôi phải gây chú ý với Scarlett. Vậy mà giờ thì chỉ cần một ánh mắt từ Michael là cậu ấy vội vã nghỉ giải lao và chạy biến đi mất, để mặc tôi ăn trưa một mình hoặc ngồi nhà xem ti-vi với bố, mà bố thì cứ đến tám giờ ba mươi tối là bắt đầu ngủ lơ mơ trên ghế sofa và ngáy khò khò như tra tấn người khác. Tôi nhớ Scarlett biết bao.
Nhưng Scarlett đang quá hạnh phúc và không đời nào tôi lại ngáng đường cậu ấy. Lúc nào Scarlett cũng vui vẻ, miệng cười rạng rỡ ngồi trên bãi cỏ trước cửa hàng Milton với Michael và bắt mấy quả nho cậu ấy tung vào miệng. Cứ đến cuối tuần là cả hai trốn trong nhà, nấu mì Ý mời cô Marion ăn và cùng xem phim. Scarlett kể với tôi rằng từ sau khi chia tay Elizabeth cuối năm học trước, Michael không muốn dính đến mấy tin đồn nhảm nữa. Lần chúng tôi đến hồ nước là dịp đầu tiên hai người họ mạo hiểm đi chơi công khai. Tuy nhiên, khi đó, bãi khá vắng người và yên tĩnh nên bọn tôi tha hồ chơi ném đĩa và cùng thưởng thức chỗ đồ ăn Scarlett mang theo mà không sợ bị làm phiền. Tôi ngồi bên lề, nghiền ngẫm quyển tạp chí, thỉnh thoảng ngước mắt nhìn hai người họ đang bơi ngoài xa, cùng ngụp lặn và cười vang. Khi chúng tôi chuẩn bị ra về thì trời đã ráng chiều, ánh nắng đỏ quyện vàng phía sau lưng họ, thế nên tôi quyết định chụp một bức ảnh. Đó cũng chính là bức ảnh duy nhất của hai người mà Scarlett có. Ngày nhận ảnh từ tiệm, cậu ấy như muốn giựt nó khỏi tay tôi, và đưa ngay một tấm cho Michael dán vào đồng hồ số trên xe cậu ấy. Bức ảnh cứ yên vị ở đó cho đến cách đây vài tuần, khi Michael đổi sang dùng xe gắn máy.
Đến khoảng đầu tháng Tám thì Michael chính thức tỏ tình với Scarlett. Cậu ấy kể lại rằng khi họ đang ngồi bên hồ bơi trong vườn nhà Scarlett, chân đung đưa nghịch nước thì Michael tựa người ra phía sau, hôn lên tai Scarlett và nói yêu cô ấy. Khi Scarlett kể lại với tôi, cậu ấy thì thầm như thể những lời đó là câu thần chú mà nếu lớn tiếng để quá nhiều người biết thì phép nhiệm màu sẽ tan biến ngay.
Nhưng chính điều đó lại thành ra tệ hơn cả khi mà chỉ hai tuần sau đó, Michael ra đi quá đột ngột. Cậu ấy là chàng trai duy nhất từng yêu thương và thổ lộ với Scarlett. Tất cả những người khác đều không hay biết Scarlett yêu Michael Sherwood đến mức nào. Ngay đến tôi cũng vậy, dù rằng tôi rất muốn biết điều đó.
Vào ngày khai giảng năm học mới, Scarlett và tôi lái xe vào bãi, tìm một chỗ đậu ngay phía sau dãy nhà môn hướng nghiệp. Cậu ấy tắt động cơ chiếc Aspire và thả chìa khóa xe vào túi áo. Rồi chúng tôi ngồi yên trong xe.
- Tớ không muốn đi học.
- Ừ, tớ biết. – Tôi đáp lại.
- Ý tớ là chỉ trong năm nay thôi. – Scarlett nói tiếp và thở dài. – Tớ không nghĩ mình lại rơi vào hoàn cảnh thế này.
- Ừ, tớ biết. – Tôi lặp lại lần nữa.
Từ sau lễ tang, Scarlett dường như thu mình lại, hiếm khi nhắc đến Michael và tôi cũng thế. Khi mùa hè bắt đầu, chúng tôi nhắc đến cậu ấy nhiều bao nhiêu thì giờ đây, cái tên Michael đã nằm ngoài đường tròn và không ai được phép nhắc đến. Người ta trồng một cái cây trong sân trường với một tấm bảng nhỏ để tưởng nhớ Michael còn gia đình Sherwood thì treo biển bán nhà – nghe đâu họ sẽ dọn đến Florida. Cuộc sống đã bắt đầu tiếp diễn với sự vắng bóng của Michael. Tuy nhiên, tôi rất ghét phải nhìn một Scarlett với vẻ mặt chất đầy nỗi u buồn như thế này, nhất là mỗi khi có ai đó nhắc đến Michael.
Mọi người đang xúng xính áo quần và tuôn xuống lối đi bằng bê-tông dẫn đến tòa nhà chính. Tiếng xe và tiếng nói cười lao xao ngang qua chúng tôi. Vẫn nán lại trong chiếc Aspire, tôi và Scarlett đang cố tận hưởng những giây phút tự do cuối cùng.
Tôi cứ thế ngồi đó và chờ đợi, ngọ nguậy chiếc ba lô mới trên đùi khiến mấy quyển tập gáy xoắn mới toanh cùng với mớ bút chì đã chuốt nhọn trôi tuột ra khỏi ngăn túi gọn gàng mà chúng đang yên vị. Lúc nào Scarlett cũng luôn là người quyết định thời gian.
- Thôi, – Scarlett thong thả lên tiếng, khẽ khoanh tay ngang ngực. – Dù gì mình cũng chẳng có lựa chọn nào khác.
- Scarlett Thomas! – Tiếng ai đó hét váng bên ngoài cửa xe khiến chúng tôi phải ngước lên. Thì ra là Ginny Tabor với kiểu tóc ngắn mới tinh và son môi đỏ rực đang nắm tay Brett Hershey – đội trưởng đội bóng bầu dục – chạy ngang qua chúng tôi. Chỉ riêng Ginny là người có thể bám dính lấy bạn trai ngay tại lễ tang.
- Lớp học phía này! – Cô nàng giơ ngón tay sơn đỏ chót lên, chỉ đường rồi ngửa cổ cười vang trong khi Brett đứng yên ngó nghiêng chỗ khác. Ginny vẫy vẫy chúng tôi và chạy tiếp về phía trước, kéo theo cả Brett. Không thể tin nổi là tôi và Scarlett đã cặp kè với cô nàng hồi đầu hè. Từ đó đến nay chắc cũng đã hàng thế kỷ rồi.
- Ôi trời ạ! Tớ ghét nhỏ đó quá đi mất! – Scarlett nói.
- Ừ! – Tôi đồng tình.
Scarlett hít một hơi thật sâu, nhoài người về phía sau với lấy cái ba lô và đặt nó lên đùi.
- Được rồi, mình đâu có trốn tránh mãi được.
- Đúng đấy! – Tôi đáp và mở cửa xe.
- Đi thôi. – Scarlett miễn cưỡng bước ra, đóng sầm cửa xe lại sau lưng và xốc cái ba lô lên một bên vai. Tôi nối gót, hòa vào đám đông đi qua bãi đậu xe dành cho giáo viên để vào khoảng sân trước tòa nhà chính. Tiếng chuông đầu tiên reo lên, mọi người rảo bước dồn vào bên trong, gây ra một vụ “kẹt đường” lớn ngay cửa ra vào. Người chen lẫn với ba lô, khuỷu tay và cẳng chân cứ thế hích đẩy nhau. Tôi cũng nương theo dòng người xuống hội trường rồi rẽ vào lớp học, mắt luôn dõi theo mái tóc đỏ của Scarlett ở phía trước.
- Tới rồi! – Tôi thở phào khi dừng lại trước cánh cửa được trang trí một mô hình con ếch bằng bìa các-tông của thầy Alexander.
- Chúc may mắn nhé! – Scarlett nói to, mở cánh cửa dẫn vào lớp học của mình và nháy mắt với tôi trước khi biến mất sau cánh cửa.
Phòng học của thầy Alexander đã kịp nồng nặc mùi phoóc-môn. Thầy cười với tôi, hàm râu khẽ nhếch lên khi tôi ngồi xuống ghế. Ngày đầu tiên của năm học mới lúc nào cũng thế: giáo viên điểm danh, phát thời khóa biểu và giao cho bạn trách nhiệm phải báo cáo lại với phụ huynh cả đống thông báo về tiền xe buýt đưa đón, phí căn-tin và các nội quy trong trường. Ngay bên cạnh tôi, Ben Cruzak đã lơ mơ ngủ gật, đầu gục xuống bàn trong khi “tiểu thư” Cavenaugh ngồi đằng sau đang giũa lại mấy cái móng tay. Ngay đến con rắn trên bục giảng của thầy Alexander, sau màn xơi tái một con chuột để thu hút các nhà khoa học “nhí” ở phía dưới, giờ đây cũng trở nên chán phèo. Bọn tôi chỉ chờ đợi mỗi tiếng chuông reo để lại ùa ra ngoài.
Sau mười lăm phút đều đều diễn thuyết về mối tương tác thầy trò và đặt một mớ thông báo dày chừng ba xen-ti-mét lên bàn mỗi học sinh, thầy Alexander cuối cùng cũng chịu phát thời khóa biểu. Ngay lập tức, tôi biết ngay mình gặp rắc rối: thời khóa biểu xếp tôi học lớp Toán nâng cao thay vì lớp Toán sơ cấp, rồi còn cả lớp tiếng Pháp 3 trong khi tôi chọn môn tiếng Tây Ban Nha, và tệ hơn cả là lớp Âm nhạc.
- Chúc các em một ngày vui vẻ! – Thầy Alexander cố át tiếng chuông reng trong lúc đám học sinh đua nhau tuôn ra cửa lớp.
Tôi bước đến bên bàn thầy.
- Sao thế, Halley?
- Thời khóa biểu của em bị nhầm lẫn ạ. Em bị xếp nhầm vào lớp Âm nhạc.
- Âm nhạc?
- Vâng. Thêm nữa, lớp Toán nâng cao và tiếng Pháp 3 đều không phải lớp của em.
- Thế à, – thầy đáp và liếc qua đầu tôi, về phía một đám học sinh khác đang lục tục kéo vào để học tiết học chính thức đầu tiên – vậy thì em nên ghé qua lớp tiếp theo để xin phép xuống phòng Học vụ nhé.
- Nhưng thưa thầy…
Thầy Alexander đứng dậy, ria mép khẽ giật giật:
- Nào, ổn định chỗ ngồi ngay, tôi sẽ đưa sơ đồ lớp để các em tự điền tên mình vào đó. Đây là sơ đồ cho suốt học kỳ này, vậy nên các em hãy chọn cẩn thận. Này, đừng chạm vào tấm kính ấy, em chọc giận con rắn bây giờ. Tiết đầu này sẽ giới thiệu về môn Sinh học, vì vậy nếu các em không thuộc lớp này thì…
Tôi bước ra ngoài, Scarlett đang tựa lưng vào bình cứu hỏa đợi tôi.
- Sao Halley, môn gì tiếp theo thế?
- Toán nâng cao.
- Nhưng cậu còn chưa học xong phần sơ cấp mà?
- Ừ. – Tôi đổi ba lô sang vai bên kia và cảm thấy việc học hành thật đáng ngán. – Thời khóa biểu của tớ lộn xộn hết rồi. Tớ phải học Âm nhạc đây này.
- Âm nhạc?
- Ừ. – Tôi né sang một bên nhường đường cho đội bóng đá đi ngang. – Tớ phải đến phòng Học vụ đây.
- Chán thật! Bây giờ tớ phải học Tiếng Anh rồi đến Mỹ thuật Ứng dụng. Xong xuôi sẽ gặp cậu nhé? Ngay sân trường cạnh máy bán sô-đa ấy.
- Sợ là lúc ấy tớ đang trong lớp Âm nhạc cũng nên. – Tôi rầu rĩ.
Scarlett bật cười:
- Người ta đâu có ép cậu học lớp đó được. Thật đấy. Lên phòng Học vụ đi rồi mình gặp nhau sau.
Phòng Học vụ lúc này lố nhố học sinh. Người đứng dựa tường, người lại ngồi hẳn xuống nền nhà chờ đợi. Trên quầy tiếp tân, tiếng chuông điện thoại kêu inh ỏi không ngừng, một nhân viên ngước lên nhìn tôi bằng đôi mắt quạu quọ. Cô ta đeo một chiếc kính bự chảng khiến đôi mắt to hơn gấp trăm lần và trông hệt như cái chén.
- Sao, em cần gì?
- Thời khóa biểu của em có chút nhầm lẫn ạ. – Trong lúc tôi nói, chuông điện thoại lại reo lên, tín hiệu đỏ chớp nháy liên tục. – Em muốn xin đổi lại cho đúng ạ.
- Ừ, được thôi. – Cô ta trả lời, chụp lấy ống nghe và giơ một ngón tay lên trước mặt tôi, ra dấu tạm ngưng. – Xin chào, đây là phòng Học vụ. Ồ, tiếc là thầy ấy đang bận. Vâng, chắc chắn. Được rồi. – Rồi cô ta gác máy, sợi dây điện thoại vẫn còn quấn quanh cổ tay. – Đến đâu rồi nhỉ! À, em cần chỉnh lại thời khóa biểu?
- Thời khóa biểu của em bị sai. Em bị xếp nhầm vào học lớp Âm nhạc.
- Âm nhạc? – Cô ấy nháy mắt với tôi. – Có vấn đề gì với môn Âm nhạc hả em?
- Không ạ. – Tôi trả lời, vừa lúc một học sinh cấp dưới cầm chiếc kèn clarinet đi ngang, mặt cau có. Thế là tôi hạ thấp giọng. – Nhưng em không biết chơi một nhạc cụ nào cả. Ý em là em chưa từng tham gia lớp Âm nhạc lần nào.
- À! – Cô tiếp tân nói chậm rãi, trong khi chiếc điện thoại lại reng lên lần nữa. – Có thể đó chỉ là lớp Âm nhạc sơ cấp thôi. Ở mức độ vỡ lòng ấy.
- Nhưng em chưa bao giờ vào lớp Âm nhạc. – Tôi nói lớn hơn một chút để át tiếng chuông điện thoại. – Em không muốn học lớp này.
- Được rồi, vậy em ghi tên vào tờ giấy này. – Cô ngắt lời, mất hết kiên nhẫn, không thèm tranh luận với tôi về sự hữu ích của âm nhạc nữa mà chộp lấy cái điện thoại khi nó chưa đổ hết hồi chuông. – Chúng tôi sẽ điều chỉnh lại cho em trong thời gian sớm nhất.
Tôi ngồi xuống ngay sát tường, ngay bên dưới chiếc kệ sách với một dãy những tựa đề dành cho tuổi mới lớn như Chia sẻ sự khác biệt: Thấu hiểu con cái ở tuổi mới lớn và Áp lực từ bạn bè: Mở lối đi riêng . Quyển sách thứ hai của mẹ tôi, Rối loạn cảm xúc: mẹ, con gái và tuổi ẩm ương cũng được đặt ở đó càng khiến tôi thêm khó chịu. Chỉ khi nào muốn tự hành hạ mình, tôi mới nhặt nó lên và đọc lại xem tình mẹ con của chúng tôi đã từng tốt đẹp ra sao mà thôi.
Phòng Học vụ nóng hầm hập, mọi người nói chuyện ồn ào và chen chúc nhau. Đứa con gái kế bên tôi đang bận viết lên bìa quyển vở của nó hàng loạt chữ “Chết” sặc sỡ bằng hộp bút chì đủ màu. Tôi nhắm mắt lại, mường tượng lại kỳ nghỉ hè vừa rồi, với hồ bơi mát lạnh và những ngày dài thong dong chỉ có bơi lội và ngủ nướng.
Có ai đó ngồi xuống bên cạnh tôi, dựa lưng vào tường, đủ để vai người đó chạm vào vai tôi. Tôi khoanh tay trước ngực và co chân lại. Tiếp đến là một ngón tay đặt lên vai tôi, gõ gõ. Tôi mở mắt ra, hy vọng mình có thể giết thời gian trong căn phòng tẻ ngắt này với ai đó, Ginny Tabor cũng được.
Nhưng đó không phải là Ginny. Đó là Macon Faulkner và cậu ta đang cười với tôi.
- Cậu gây chuyện à? – Macon hỏi.
- Gì cơ? – Đứa kế bên đã ghi kín ra cả bìa sau quyển tập, cần mẫn viết hết chữ này đến chữ khác bằng mực xanh lá cây.
- Cậu đã làm gì vậy? – Macon lặp lại. – Mới ngày đầu tiên mà đã phải vào đây rồi?
- Đâu có. – Tôi đáp. – Thời khóa biểu của tớ bị in sai thôi.
- Hả, vậy sao! – Macon chậm rãi đáp lại, vẻ không tin. Cậu ấy mặc áo thun đỏ và quần jeans, đầu đội chiếc mũ của đội bóng chày, để lộ mái tóc vàng bên dưới. Macon không mang theo ba lô, chỉ có một quyển tập gáy lò xo trong tay với một cây bút giắt ngay trang bìa. Hiển nhiên, Macon Faulkner không phải loại mọt sách. – Chắc cậu vừa mới gây chuyện nên mới phải xuống đây, đúng không?
- Không hề! – Tôi lặp lại, chẳng rõ có phải hôm nay mình bỗng dưng có được sự dạn dĩ của Scarlett hay không. Nhưng thú thực là tôi không cảm thấy ngại khi trò chuyện cùng Macon. – Tớ bị xếp vào nhầm lớp thôi mà.
- Ồ, thật không đấy, – Macon nói bằng giọng thoải mái và dựa lưng vào tường. – Cậu đã biết cách xoay xở ở đây chưa?
Tôi tròn mắt nhìn Macon:
- Gì chứ?
- Để dễ thoát tội ấy. – Cậu ta nháy mắt với tôi. – Thôi nào, cậu chắc là cần sự trợ giúp rồi! Nghe này, đầu tiên là không thừa nhận gì cả. Rõ chưa. Đó là điều quan trọng nhất.
- Nhưng tớ có gây chuyện đâu. – Tôi nhắc lại.
- Kế đến, – cậu ta nói to hơn, không thèm đếm xỉa đến lời tôi, – làm mấy người giám thị phải chột dạ bằng cách nhắc đến chuyên gia tâm lý. Chưa hiểu à, giả dụ thế này nhé: “Chuyên gia tâm lý luôn bảo rằng em có chút vấn đề với việc tuân theo kỷ luật”, thế đấy. Cứ nhắc đến “chuyên gia tâm lý” là được giảm tội rồi!
- Ừ, có lý đấy! – Tôi cười, đáp.
- Thật mà. Nhưng nếu vẫn không được thì chuyển chiêu thôi miên. Nhưng chỉ khi nào hết cách rồi ấy.
- Chiêu gì?
- Thôi miên. – Macon nhìn thẳng vào mắt tôi. – Cậu xem phim Chiến tranh giữa các vì sao (15) chưa? Kiểu như các Jedi điều khiển suy nghĩ đối phương ấy.
- Dĩ nhiên là rồi.
- Ừ, chiêu này là để chi phối suy nghĩ của người khác, rồi sau đó điều khiển hành động của họ. Giống như… mà thôi, bây giờ tớ sẽ là thầy Mathers nhé. Tớ sẽ nói: “Macon, mới ngày đầu tiên mà em lại gây chuyện rồi. Bắt đầu năm học kiểu gì thế?”. Nếu là tớ, cậu sẽ nói sao?
- Tớ không biết. – Tôi lắc đầu.
- Cậu sẽ nói là: “Thưa thầy Mathers, xin thầy bỏ qua cho em lần này vì năm học mới bắt đầu thôi. Em hứa sẽ không cố ý phạm lỗi nữa đâu, lửa luôn tàn nhanh như khi bùng phát mà, phải không thầy”.
- Lửa? – Tôi ngạc nhiên. – Lửa nào?
- Vấn đề là ở đó đó. – Macon nói tỉnh queo, búng búng mấy ngón tay. – Cậu phải thật tự tin khi “nổ banh trời” với thầy cô. Và rồi họ sẽ nói gì?
- “Có chuyện gì với em vậy” chứ còn gì nữa.
- Không! Sẽ là “Ồ, Macon, lần này tôi bỏ qua cho em vậy. Mọi thứ mới bắt đầu và đây chẳng qua chỉ là một sơ ý nhỏ, lửa luôn tàn nhanh như khi bùng phát mà”.
Tôi bật cười.
– Làm gì có!
– Có! – Macon gật đầu đáp lại. – Mánh khóe cả! Tin tớ đi!
Và đúng là khi nhìn cậu ấy cười với mình, tôi đã hoàn toàn tin vào điều đó. Tôi đưa thời khóa biểu của mình cho Macon xem:
– Thật sự thì tớ không phạm lỗi gì cả. Trừ khi vấn đề của tớ không được giải quyết, còn lại thì chẳng lý gì tớ phải dùng đến nó cả.
Cậu ấy liếc mắt vào tờ giấy, nhướng mắt nhìn tôi:
- Toán học nâng cao. Thật á?
- Không, tớ còn chưa học hết chương trình Toán sơ cấp nữa.
Cậu ấy gật gù, rõ ràng là chúng tôi cùng giống nhau ở điểm này.
- Để xem…Tiếng Pháp, Thể dục… Này, mình học cùng lớp Thể dục đấy!
- Sao cơ? – Ôi trời, Macon Faulkner và tôi sẽ cùng nhau chơi cầu lông, học đánh gôn và tập bóng rổ!
- Đây này. Tiết thứ ba. – Cậu ấy tiếp tục săm soi cái thời khóa biểu rồi ngước lên cởi cái mũ ra, lắc lắc mái tóc và khẽ hất ngược nó ra phía sau. – Khoa học, Tiếng Anh… gì nữa nhỉ… Ôi nhìn này!
Tôi biết ngay là cậu ấy đang muốn nói về cái gì.
- Nhạc này! – Macon cười rạng rỡ. – Cậu cũng học lớp Nhạc!
- Không phải! – Tôi nói to, khiến cậu bạn cầm cái kèn clarinet lúc nãy phải liếc về phía mình. – Nhầm lẫn nghiêm trọng vậy mà chẳng ai chịu tin tớ.
- Cậu chơi nhạc cụ gì đấy? – Macon hỏi.
- Không gì cả. – Tôi đáp lại, cố gắng làm ra vẻ khó chịu nhưng quả thật là cậu ấy có duyên quá đi mất. Thật khó tin chuyện Macon Faulkner nói chuyện với tôi suốt từ nãy đến giờ.
- Cậu ra dáng người thổi sáo, – Macon vuốt vuốt cằm vẻ đăm chiêu, – hoặc là piccolo (16) .
- Thôi đi! – Tôi phản đối, thầm ngạc nhiên về sự dũng cảm bất chợt của mình.
Macon cười to, lắc lắc đầu:
- Hay là triangle (17) ? – Cậu ấy giơ một tay lên như đang giữ cái triangle, một tay vờ nắm cái đũa kim loại gõ gõ vẻ say mê.
- Để tớ yên đi. – Tôi rên rỉ và đưa hai tay lên ôm đầu, nhưng trong lòng thầm mong cậu ấy sẽ không làm điều tôi nói.
- Thôi mà, – Macon nói, vòng tay qua siết lấy vai tôi khiến tôi hồi hộp đến suýt ngất, – tớ chỉ chọc cậu chút thôi.
- Hôm nay đúng là ngày tệ nhất. – Tôi nói lúc cậu ấy thu tay lại. – Tệ nhất!
- Faulkner! – Giọng nói vang lên khá lớn khiến cả gian phòng im lặng hẳn đi. Thầy Mathers, giám thị của khối lớp 11 đang đứng ở cái bàn ngay tiền sảnh với một tập giấy trên tay, dáng vẻ hơi khó chịu. – Lại đây.
- Đến lượt tớ đấy! – Macon nói vui vẻ và vơ vội quyển tập rồi đứng dậy. Cậu ấy gõ một ngón tay lên đầu và nháy mắt với tôi. – Nhớ nhé! Dùng chiêu thôi miên ấy.
- Ừ! – Tôi gật đầu.
- Gặp cậu sau, Halley!
Macon chào và tiến đến chỗ thầy Mathers. Thầy ấy đặt tay lên vai Macon, dẫn cậu ấy đi dọc hành lang. Thật không thể tin nổi Macon vẫn còn nhớ tên tôi (18) . Và cô nàng bận rộn với Chết Chết Chết giờ đây đang liếc chừng tôi, cứ như thể sau cuộc trò chuyện ngắn ngủi vừa qua với Macon Faulkner, tôi bỗng trở thành nhân vật quan trọng hơn và đáng chú ý hơn vậy. Ngay chính bản thân tôi cũng cảm thấy sự khác biệt. Macon Faulkner, người từ xưa đến nay chưa nói với tôi quá bảy câu nay vừa đột ngột xuất hiện và tán gẫu với tôi cả mấy phút đồng hồ. Cứ như thể chỉ sau một ngày chính thức gặp gỡ, chúng tôi đã thành bạn bè thân thiết. Điều này dấy lên trong tôi một cảm giác bồn chồn kỳ lạ, khiến tôi bất chợt liên tưởng đến hình ảnh Scarlett đứng ở quầy thu ngân số tám trong cửa hàng Milton, má ửng hồng, còn tay mân mê trái kiwi Michael tặng.
- Hal – Hal Cooke. Em nào là Hal Cooke? – Một giọng nói uể oải vang lên khiến chút tự hào vừa gom góp được của tôi tan thành mây khói trong chốc lát. Chỉ có những lúc như thế này, ngay trong ngày đầu tiên của năm học, tôi mới thầm trách bố mẹ đã không đặt tên mình là Jane hay Lisa cho rồi.
Tôi với lấy cái ba lô, đứng dậy. Vị giám thị ngồi tại bàn là một phụ nữ người Mỹ gốc Phi cao lớn, mặc bộ vest màu hồng tươi và đang cố gắng đọc cho đúng tên tôi.
- Halley, – tôi nói trong lúc tiến lại chỗ cái bàn, – tên em là Halley.
- Ừ ừ… – Cô quay lại, vẫy tay ra hiệu bảo tôi đi theo dọc hành lang, qua hai căn phòng và bước vào phòng thứ ba. Khi đi ngang qua phòng chính giữa, tôi nghe loáng thoáng giọng Macon lẫn với giọng trầm trầm của thầy Mathers đằng sau cánh cửa khép hờ và tự hỏi không biết những mánh khóe của cậu ấy có chút tác dụng nào không.
Nhưng tôi gần như đã quên mất Macon vì còn phải nhận ngay lấy thời khóa biểu mới. Tôi rời phòng Học vụ ngay vừa khi chuông báo hết tiết vang lên và mọi người ùa ra ngoài. Phải len lỏi mãi, tôi mới đến được nơi hẹn với Scarlett.
- Này! – Scarlett gọi tôi giữa một rừng người đang cầm đủ loại tiền và ào ào hướng đến cái máy bán nước. Cậu ấy giơ hai lon Coca lên cao, vẫy vẫy ra hiệu để tôi biết vị trí mà len đến chỗ bức tường, nơi đã từng chiếu bức hình chụp Michael Sherwood hồi lễ Tổng kết năm ngoái.
Scarlett đưa cho tôi một lon Coca:
- Lớp Âm nhạc thế nào?
- Tuyệt lắm! – Tôi nói và mở lon nước của mình ra tu một hơi dài. – Họ bảo nếu chơi kèn ô-boa (19) thì tớ sẽ là thiên tài đấy!
- Nhảm quá đi!
Tôi cười mỉm:
- Nhưng tớ không phải học lớp đó, vui chưa nào! Này, cậu không đoán được tớ đã gặp ai trong phòng Học vụ đâu.
- Ai?
Một tiếng “Bụp” lớn phát ra từ cái máy bán nước đã cắt ngang lời chúng tôi, và tôi chỉ kịp nhìn thấy một học sinh chạy đi tìm người quản lý. Ngày nào cái máy này cũng phải trục trặc ít nhất một lần, khiến bọn học sinh phải ca cẩm không ngớt. Tôi đợi đến khi đám đông đã vãn, tiếng ồn ào xa dần mới trả lời:
- Macon Faulkner.
- Thật à? – Scarlett trầm ngâm mở ba lô tìm kiếm thứ gì đó. – Cậu ta sao rồi?
- Hình như đang bị phạt.
- Ừ, không lạ lắm. – Scarlett đặt lon Coca xuống. – Mà sao tự nhiên tớ thấy khó chịu quá!
- Cậu bị bệnh à?
- Hình như thế. – Scarlett lôi lọ thuốc trị cảm cúm Advil và lấy ra hai viên. – Chắc vì tớ vốn ác cảm với trường học từ xưa tới giờ.
- Ừ, có thể lắm! – Tôi nói, lặng yên nhìn Scarlett dựa lưng vào tường và khẽ nhắm mắt lại. Ánh mặt trời chiếu lên mái tóc đỏ khiến nó thẫm màu hơn và trông càng lung linh với những vệt sáng lóng lánh.
- Nhưng mà, – tôi nói tiếp, – thật kỳ cục. Cậu ta ngồi sát bên tớ thế này này, rồi bắt đầu nói đủ thứ vào tai tớ. Làm như thể cậu ta quen biết tớ vậy.
- Thì Macon quen cậu đấy chứ.
- Cũng đúng, nhưng chỉ mỗi một chút hôm đám tang thôi. Trước đó chúng tớ đâu có biết gì nhau.
- Thì sao nào? Thị trấn này bé xíu mà Halley. Mọi người đều biết nhau cả.
- Chẳng biết nữa, tớ vẫn thấy sao sao ấy! – Tôi lặp lại, mơ màng hồi tưởng đến mọi diễn biến, từ lúc Macon chọc chọc lên vai tôi cho tới khi cậu ấy vừa cười vừa chào bằng đúng tên tôi và bước đi.
- Ừ, – Scarlett trả lời chậm rãi, đưa tay ra sau túm tóc lên cao, – có khi Macon thích cậu đấy.
- Ôi thôi đi! – Tôi bắt đầu đỏ mặt. – Cậu làm sao biết được. Không nên đoán mò chứ!
Chuông lại reng lên, tôi uống vội lon nước của mình và ném nó vào thùng rác bên cạnh. – Vào tiết ba rồi.
- Hừm, giờ đến môn Địa lý (20) . – Scarlett đeo ba lô lên vai. – Còn cậu?
- Của tớ là môn… – Chưa kịp dứt lời thì ai đó đã đập mạnh vai tôi và chạy mất biến. Lại là trò ú tim cũ rích. Tôi quay lại nhìn qua vai Scarlett và thấy bóng Macon đang rảo bước về phòng thể dục.
- Nhanh lên nào! – Cậu ta hét về phía tôi, vọng qua dãy hành lang vắng lặng. – Muốn trễ tiết Thể dục sao!
- Ừm, môn Thể dục. – Tôi ngượng nghịu hoàn tất nốt câu nói dang dở với Scarlett và cảm giác hai má mình đang ửng đỏ. – Thôi tớ đi đây.
Scarlett chỉ yên lặng nhìn tôi và lắc đầu, như thể cậu ấy đã biết tỏng điều gì đó mà tôi còn chưa rõ. – Cẩn thận đấy! – Scarlett nói khẽ, xốc lại cái ba lô trên vai.
- Chuyện gì mới được chứ?
- À, – Scarlett nhìn tôi, khuôn mặt buồn bã. Rồi khẽ lắc đầu, mỉm cười và dợm bước đi. – Ý tớ là cậu nên cẩn thận trong tiết Thể dục, và cả những chuyện khác nữa.
- Ừ. – Tôi đáp lại, lòng tự hỏi có phải Scarlett đã lường trước được việc tôi sẽ bị một quả bóng chày đập vào mặt hay là bị mù mắt vì trái cầu lông bay ngang? Hay đó là vì Macon và tất cả những điều gợi nhớ quá khứ lại khiến Scarlett buồn đến như vậy? – Tớ sẽ cẩn thận mà.
Scarlett vẫy tay chào tôi rồi bước đi, dãy nhà Khoa học tự nhiên nằm ở tòa nhà phía trên đồi, còn tôi đi về hướng ngược lại, đẩy cánh cửa của lớp Thể dục ra và bước vào một không gian sặc mùi nấm mốc, thuốc nóng giảm đau và những miếng đệm ướt át – nơi Macon Faulkner đang đợi.
Tiết Thể dục bỗng dưng trở thành năm mươi phút quý giá nhất trong cuộc đời đi học của tôi từ trước tới giờ. Dù có gặp bệnh tật, thảm họa thiên nhiên hoặc thậm chí là cả cái chết đi nữa, tôi vẫn sẽ có mặt vào tiết thứ ba, chỉnh tề trong bộ đồng phục quần lửng xanh và vớ trắng. Macon thỉnh thoảng vắng mặt vài buổi; những lúc như thế, tôi rất đau khổ, chỉ miễn cưỡng đập banh và liếc chừng cái đồng hồ suốt buổi. Nhưng những ngày Macon đi học thì lại khác, Thể dục bỗng chốc trở thành môn tuyệt vời nhất mà tôi từng được học.
Dĩ nhiên, tôi vẫn giả vờ như mình ghét cay ghét đắng tiết học, bởi vì nếu tỏ ra thích thú môn Thể dục thì còn tệ hơn việc phải gia nhập lớp Âm nhạc nữa. Nhưng tôi là đứa con gái duy nhất không ca cẩm lớn tiếng cái môn bóng chuyền cơ bản trong phòng thay đồ vào lúc 10 giờ 30 phút sáng. Tôi chỉ lãnh đạm bước ra khỏi phòng thay đồ với bộ dạng ngái ngủ và giả bộ lơ đễnh không nhìn thấy Macon, lúc này đang đứng kế bên cái vòi phun nước, chân đi đôi giày không đúng quy định và cũng không thèm mang vớ (lần nào cậu ấy cũng bị trừ năm điểm vì chuyện này). Tôi ngồi xuống cách Macon vài bước chân, vẫy vẫy tay và giả vờ như không nghĩ cậu ấy sẽ đến ngồi cạnh mình, nhưng Macon luôn bước tới chỗ tôi. Luôn luôn như vậy. Trước khi thầy Van Leek vào tiết, một vài phút hiếm hoi ấy luôn là thời khắc tuyệt vời nhất trong một ngày dài của tôi. Thường thì cuộc trò chuyện lúc nào cũng như thế này:
Macon: Hôm nay thế nào?
Tôi: Mệt kinh khủng!
Macon: Thế à, tối qua tớ cũng về muộn lắm!
Tôi (ra vẻ được phép đi chơi quá tám giờ tối): Ừ, tớ cũng thế! Này, hôm nay cậu lại không mang vớ nha.
Macon: Tớ quên mất.
Tôi: Thế nào cậu cũng trượt môn này cho xem.
Macon: Nếu cậu chịu mua cho tớ mấy đôi vớ thì chắc không sao đâu.
Tôi (mỉa mai cười to): Hay quá há!
Macon: Chứ sao. “Sứ mệnh” của cậu mà.
Tôi: Thôi à nha.
Macon: Ui, đến giờ tập rồi kìa.
Tôi (ra vẻ hào hứng): Ừm, chờ xem tớ đập bóng vào mũi cậu đây.
Macon (cười lớn): Hờ hờ, cứ thử xem!
Tôi: Hừm, hãy đợi đấy!
Chỉ như thế thôi đã là quá đủ.
Macon đi học không phải để tiếp nhận tri thức và sự rèn luyện từ các thầy cô, cũng chẳng để chuẩn bị vào đại học. Đối với cậu ấy, đó là chuyện bất đắc dĩ, và việc thường xuyên ăn vặt hay vào lớp trễ là hệ quả tất yếu. Trong gần nửa số buổi học, bộ dạng Macon trông nhếch nhác như thể vừa mới thức dậy và lúc nào thầy Thể dục cũng phải quát mắng cậu ấy vì tội lén mang đồ ăn vào trong phòng tập: những lon Coca va đập nhau côm cốp trong ba lô, còn kẹo cao su và các thứ bánh snack thì đầy trong túi áo. Những lần như vậy, Macon quả đúng là “sư phụ” về khoản chối tội.
- Faulkner! – Thầy giáo sẽ quát lên ngay khi Macon vào lớp trễ mười phút, không mang vớ và miệng vẫn còn ngậm một miếng gà rán tẩm bột. – Đi trễ thì phải có giấy xin phép chứ!
- Có ngay đây, thưa thầy! – Macon sẽ vui vẻ nói và lôi trong túi ra một tờ giấy. Tất cả chúng tôi đều chăm chú quan sát khi thầy Van Leek săm soi mảnh giấy, riêng cậu ta chẳng bao giờ tỏ vẻ lo lắng. Macon trượt tất cả các bài kiểm tra thể dục dễ ợt, nhưng bù lại, cậu ấy có thể nhái bất cứ chữ ký nào ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy. Thượng đế kể ra cũng ưu đãi cho cậu ấy đấy chứ.
- Vấn đề nằm ở cổ tay! – Macon giảng giải cho tôi trong lúc hí hoáy “mô phỏng” cái chữ ký bay bướm của mẹ cậu ấy và điền vào tờ đơn những lý do như đi dự lễ tang hoặc đi khám bệnh. Tôi cứ chờ xem có khi nào cậu ta bị bắt quả tang không, nhưng điều ấy thật sự chưa bao giờ xảy ra.
Dường như Macon không bị cấm đoán gì. Tất cả những gì tôi biết về mẹ cậu ấy là chữ “i” của bà không có dấu chấm trên đầu. Thậm chí tôi cũng không biết nhà Macon ở đâu. Cậu ấy hoang dã, khác biệt và trước mặt Macon, tôi cố cư xử giống hệt như thế để bắt nhịp. Cậu ấy kể cho tôi chuyện tiệc tùng thâu đêm để rồi bị cảnh sát “viếng thăm cảnh cáo”, hoặc những chuyến lang thang đầy ngẫu hứng ra biển, thậm chí đến tận thủ đô, ngay giữa lúc đêm khuya mà chẳng cần lấy một kế hoạch nào. Macon xuất hiện mỗi thứ hai đầu tuần với những câu chuyện mới mẻ, mặc áo thun in hình các nhóm nhạc tôi chẳng biết tên và tay còn lem nhem con dấu vào cửa của mấy quán bar (21) . Những cái tên và địa danh cậu ta nói đến đều lạ lẫm nhưng tôi chỉ im lặng gật đầu, thầm ghi nhớ và sau đó kể lại cho Scarlett nghe cứ như thể tôi biết rõ chúng vậy. Có điều gì đó trong chính con người Macon và tất cả những gì liên quan đến cậu ấy – cái dáng nhảy chân sáo thong dong, nụ cười ranh mãnh và quá khứ bí mật, huyền hoặc – khiến chúng càng thêm đáng nhớ và hấp dẫn đến mức khó tin, nếu so với cuộc sống vốn dĩ vô cùng giản dị của tôi.
Dĩ nhiên, Scarlett chỉ cười nhẹ và khẽ lắc đầu mỗi khi nghe tôi tường thuật cặn kẽ những câu chuyện vô nghĩa trong các buổi thể dục. Những khi Macon không đi học, cậu ấy cũng chỉ lặng yên ngồi bên cạnh, nghe tôi uể oải ăn từng miếng sandwich và hờn mát suốt giờ nghỉ trưa rằng thật tình thì mình chẳng ưa gì Macon cả. Thỉnh thoảng, tôi ngước lên nhìn Scarlett và bắt gặp khuôn mặt buồn bã của cậu ấy, như thể những ký ức về Michael Sherwood bất chợt trỗi dậy từ một góc khuất nào đó mà Scarlett đã cố giữ kín trong lòng, gợi nhớ đến những tháng ngày đầu hè khi mà cậu ấy mới là người đầy ắp những câu chuyện để liến thoắng với tôi.
Giữa những ngày tháng Chín ấy, mọi chuyện bắt đầu xảy đến. Sau mùa hè, các chương trình truyền thanh của bố tôi trên đài trải qua một cuộc sửa đổi cách tân và nó mau chóng được đón nhận nồng nhiệt. Mỗi sáng, tôi đều nghe thấy tiếng bố phát ra trong những chiếc xe hơi đậu ở bãi hoặc khi dừng đèn đỏ, hoặc ngay cả ở siêu thị Zip nơi tôi và Scarlett tạt ngang mua chút Coca trước khi đến trường. Bố tôi pha trò, chọc cười các thính giả gọi điện đến đài và cho phát các ca khúc tôi từng nghe qua, những bản nhạc đã gắn liền với tôi từ thời thơ ấu. “Buổi sáng với Brian!” hoặc “Brian còn ngon hơn bánh bắp mỗi sáng!” , những khẩu hiệu đó được dán đầy trên mấy tấm bảng thông báo nằm trong khu trung tâm mua sắm. Bố tôi thấy như thế là ngoạn mục, thậm chí còn hơn hẳn vụ “Vùng đất bạn hư”, còn mẹ thì bắt đầu cằn nhằn chuyện bố thường xuyên đi vòng vèo cốt để nhìn ngắm những biểu ngữ đó. Đâu đâu tôi cũng nghe giọng nói của bố, dù trong nhà hay ngoài ngõ. Không ngờ giọng nói của bố lại dễ chịu đến thế.
Nhưng tệ nhất có lẽ là những lần bố “lôi” tôi lên sóng. Có lần, tôi đang nấn ná trong siêu thị Zip trước khi đến trường, đúng lúc chương trình của bố đang được mở và thính giả đang gọi đến chia sẻ những tình huống dở khóc dở cười của mình. Hầu hết các bạn cùng trường tôi đang mua thuốc lá, bánh ngọt hoặc đủ loại kẹo – những thứ ấy luôn đắt hàng vào buổi sáng sớm. Khi gần đến lượt tính tiền, bất chợt tôi nghe thấy tên mình trên sóng radio.
- Ôi, nhớ lúc con gái Halley của chúng tôi mới lên năm , - bố tôi bắt đầu kể chuyện – trời ạ, chưa bao giờ tôi buồn cười đến thế! Gia đình tôi đang đi picnic gần nhà, khi đó hai vợ chồng tôi…
Mặt tôi đỏ ửng ngay lập tức và dường như nhiệt độ cơ thể tôi tăng lên mười độ ứng với mỗi từ bố thốt ra. Đúng ngay lúc ấy, cái máy tính tiền hết giấy in hóa đơn, và thế là tôi bị mắc kẹt ngay ở đó. Giọng bố tôi vang lên rõ mồn một từng tiếng:
- …Chúng tôi đang đứng nói chuyện với mấy người hàng xóm, ngay kế bên đó là một vũng bùn rất lớn, các bạn biết đấy, trời mưa dai dẳng suốt mấy ngày và chỗ nào cũng ướt cả. Thế rồi Halley hét lớn tới chỗ tôi “Bố ơi, nhìn con này!”. Hai vợ chồng tôi nhìn về phía Halley, con bé tung tăng chân sáo theo kiểu các bé gái vẫn thường chạy ấy, các bạn có hình dung ra được không?
- Hừ! – Cô thu ngân khó chịu, lấy nắm tay đập đập vào cuộn giấy. Nó vẫn chưa chịu vào đúng khớp. Tôi gặp rắc rối to rồi!
- Tôi thề , – bố tôi bắt đầu cười thành tiếng, – là lúc con bé tiến sát về phía đống bùn, tôi đang lấn cấn chuyện gì đó trong đầu. Ôi trời ơi, và thế là Halley nhà tôi lao thẳng vào đống bùn ấy luôn các bạn ạ. Cứ như chuyện ấy vừa xảy ra mới đây vậy.
Sau lưng tôi, tiếng cười khúc khích vang lên, còn dạ dày tôi bắt đầu quặn lại.
- Con bé lẽ ra chỉ chạm chân đến rìa vũng bùn thôi, nhưng vì đang trong đà chạy, hai chân nó cứ thế… như thể biến đi đâu mất ấy. – Giờ thì bố tôi cười phá lên, chắc hẳn cả ngàn thính giả và các nhân viên công sở khắp cả nước cũng đang cười phá theo bố tôi. – Nó mất đà, mông nện xuống, cứ thế trượt luôn qua vũng bùn, đáp xuống ngay dưới chân hai vợ chồng tôi với vẻ mặt hốt hoảng. Mình mẩy con bé lấm lem nào bùn là bùn. Còn hai chúng tôi phải cố gắng nhịn cười. Thật không thể chịu nổi! Đó là cảnh tượng hài hước nhất mà tôi từng chứng kiến. Vui nhộn nhất!
- Tất cả một đô-la chín xu. – Cô thu ngân bất ngờ lên tiếng thông báo. Tôi đưa vội tiền, nhận lại tiền thối, đi ngang tất cả những gương mặt đang cười nhăn nhở trong siêu thị và ra chỗ Scarlett đang đợi ngoài xe.
- Ôi trời ơi! – Cô ấy nói khi nhìn thấy tôi chui vào ghế. – Cậu rồi sẽ phải xấu hổ lắm đây!
- Thôi đi. – Tôi trả lời cụt ngủn. Suốt cả ngày hôm đó, tôi cứ phải nghe đi nghe lại những lời trêu chọc về “vụ án” bùn sình đó, rồi lại còn bị xô đẩy, cười cợt nữa. Nhưng tệ nhất là việc Macon dành cho tôi cái “mỹ danh” Công chúa xứ bùn . Thật kinh khủng!
- Bố xin lỗi nhé! – Câu đầu tiên của bố vào tối hôm đó đấy. Tôi chẳng thèm đếm xỉa, chỉ lẳng lặng bước lên lầu.
- Bố thật sự, thật sự xin lỗi mà, Halley. Chỉ là đùa vui thôi mà, con gái yêu. Thật đấy!
- Anh Brian này, – mẹ tôi lên tiếng, – em thấy anh đừng nên can thiệp quá giới hạn vào cuộc sống riêng của Halley, được không nào?
Không thể tin được! Đó là mẹ tôi – người đã xuất bản hẳn hai quyển sách tâm lý về tôi – vừa nói ra câu đó. Tôi cảm thấy như bố mẹ mình đang kiếm tiền bằng cách mang con gái họ ra làm trò đùa ấy.
- Ừ, anh biết rồi. – Bố tôi cười mỉm rồi cố vớt vát. – Nhưng dù sao kỉ niệm đó cũng rất vui mà, phải không? – Bố lại cười hì hì rồi gắng khôi phục vẻ nghiêm trang của một ông bố. – Phải vậy không con?
Tôi chỉ còn biết đáp lại:
- Vâng, vui lắm ạ! Ngoạn mục hết sảy!
Đó chỉ là một ví dụ nhỏ về những chuyện không đâu mà bố mẹ “vô tình” gây ra. Chúng luôn khiến tôi bực mình. Không phải chỉ những chuyện cười đáng xấu hổ được lan rộng rãi trên sóng phát thanh mới khiến tôi khó chịu. Sự thật là vì tôi không bao giờ đoán trước được những rắc rối ấy. Chúng cứ như một quả cầu tuyết bất ngờ lăn xuống từ đỉnh đồi, mỗi lúc một phình bự ra và đâm sầm vào, đè bẹp tôi. Cũng tương tự như thế khi bố mẹ tôi khẽ nhìn nhau mỗi khi họ hỏi đến chuyện trường lớp và học hành trong lúc tôi lầm bầm trả lời “Ổn cả ạ!”. Những khi ấy, tôi chỉ biết nhìn sang nhà Scarlett vẻ thèm muốn, bởi cậu ấy chắc chắn đang ăn tối một mình trước cái tivi và chẳng phải trả lời ai câu hỏi nào.
Đã từng có thời, mẹ là người đầu tiên tôi tìm đến nếu muốn thổ lộ về những chuyện như Macon Faulkner hay những tiết Thể dục. Nhưng giờ đây, những gì tôi thấy ở mẹ chỉ là đôi môi mỏng, mím chặt ngự trên chiếc cổ thẳng, cứng ngắc. Chúng ở trước mặt tôi, phía bên kia bàn ăn, và luôn lên giọng nhắc nhở tôi phải làm bài tập về nhà, không được lỉnh sang nhà Scarlett vào các ngày trong tuần, đừng quên rửa chén và nhớ đổ rác.
Bao năm qua, mẹ vẫn nói với tôi những điều tương tự như thế. Nhưng giờ đây, chúng dường như mang những ý nghĩa khác. Chúng rơi xuống, đậu trên chiếc bàn ăn chắn giữa mẹ con tôi, khiến rào cản giữa chúng tôi càng thêm chất chồng và kết thúc luôn mọi mong muốn chuyện trò, dù là nhỏ nhất.
Tôi biết mẹ sẽ không chịu hiểu bất cứ chuyện gì liên quan đến Macon Faulkner. Noah Vaughn – người từng hiện diện trong bức ảnh tại Grand Canyon bên cạnh mẹ – mới là người xứng đáng nhất với cô con gái tuyệt vời của mẹ. Thế giới hiện tại của tôi, như trường học và chuyện tình giờ Thể dục, cũng như sự ra đi của Michael Sherwood... đều không có chỗ trong sự quan tâm của mẹ. Giống như một bài trắc nghiệm loại trừ, yêu cầu bạn chọn ra thứ khác biệt trong một nhóm các đồ vật gồm táo, chuối, lê và một cái máy kéo. Làm gì có sự lựa chọn nào khác nữa. Mẹ tôi – và tất cả những nỗ lực của mẹ – chẳng khác nào cái máy kéo.