← Quay lại trang sách

Đêm thứ năm Vài hệ quả của nghề chủ quán trọ

dịch giả: vũ anh tuấn

Đêm thứ năm

vài hệ quả của nghề chủ quán trọ

ần năm năm trôi qua trước khi công việc lại khiến tôi có dịp đến Cedarville. Tôi biết được rất ít thông tin về những gì đã diễn ra ở đó giữa hai lần đến thăm, trừ một điều là Simon Slade đã bị buộc tội làm chết người trong vụ gây ra cái chết của đứa con Morgan. Tuy nhiên, ông ta đã không phải ra toà. Thẩm phán Lyman đã sử dụng thành công ảnh hưởng của ông ta để bác bỏ lời buộc tội đó. Quan toà, theo một số người cho biết, đã bỏ qua những tình tiết trong một số trường hợp để tránh cho Slade phải chịu trách nhiệm về những gì ông ta gây ra. Những ấn tượng mà thẩm phán Lyman để lại trong tôi quả không có gì thú vị. Ông ta có vẻ là một người đàn ông lạnh lùng, ích kỷ và đầy sự tính toán. Những gì ông ta đã thể hiện với những người trong phòng bar mà tôi quan sát được chỉ trong một buổi tối đã cho thấy ông ta là một chính khách vô liêm sỉ.

Khi chiếc xe trạm lăn bánh vào làng cùng với tiếng còi vui vẻ, hào hứng của người tài xế vang lên, tôi đã nhận ra được những cảnh vật quen thuộc và cả dấu hiệu của những thay đổi. Chúng tôi đi ngang qua dinh cơ sang trọng của thẩm phán Hammond, nơi đẹp đẽ và được chăm sóc kỹ càng nhất ở Cedar ville. Ít ra thì đó là đánh giá từ chuyến ghé thăm lần trước của tôi. Nhưng khi mắt tôi nhìn thấy toà nhà cùng quang cảnh ở chung quanh, tôi nhận thấy đã có những nét thay đổi về diện mạo bên ngoài. Phải chăng đó chỉ là kết quả của bàn tay thời gian? Hay do tác động của con người, đã khiến cho mắt tôi nhận ra sự tương phản? hoặc người chăm sóc ngôi nhà đã bỏ bê công việc và để mặccho mọi thứ thay đổi?

Những câu hỏi trên hiện ra trong đầu khi tôi nhìn thấy một người đàn ông đứng ở chiếc cổng lớn của ngôi nhà, với những chiếc cột lớn được xây theo kiểu Corinthian, khiến cho khu nhà mang dáng dấp của một ngôi đền Hy lạp. Ông ta đứng tựa người vào một chiếc cột, không đội mũ, mái tóc dài màu xám hất về phía sau, phủ lên cổ và vai của ông ta. Đầu người đàn ông cúi xuống và có vẻ như ông ta đang suy tư điều gì. Khi chiếc xe vừa đi qua, ông ta nhìn lên, và tuy rằng khuôn mặt đã có nhiều thay đổi nhưng tôi vẫn nhận ra đó là thẩm phán Hammond. Nước da ông ta vẫn hồng hào, nhưng khuôn mặt ông ta đã gầy đi, và cặp mắt thì trũng xuống. Những âu lo đã đọng lại trong từng nếp nhăn trên khuôn mặt. Âu lo? từ đó vẫn chưa đủ để diễn tả hết những gì tôi muốn nói! Chỉ mới nhìn lướt qua, tôi đã thấy được những nỗi đau khổ chất chứa trong lòng ông ta. Những bước chân của thời gian dường như đã không hề nhẹ nhàng khi đi qua đây, mà đã dẫm đạp lên các bông hoa thơm ngát bằng những chiếc giày gót sắt. Đó là những gì tôi thấy thoáng qua, và chỉ hình ảnh của người đàn ông là còn đọng lại trong tâm trí tôi, vì chiếc xe trạm vẫn lăn bánh nhanh về phía trước, đưa tôi đi qua ngôi nhà đã có những đổi thay của người đàn ông giàu có nhất ở Cedarville. Chỉ vài phút sau, người tài xế đã dừng xe lại trước quán trọ “Lưỡi liềm và búa”, và ngay khi tôi vừa bước xuống đất, tmt người đàn ông to béo, thô lỗ, mặt đỏ gay, người mà tôi đã không nhận ra ngay là Simon Slade cho đến khi ông ta lên tiếng, nắm lấy tay và gọi tên tôi. Tôi không khỏi thầm so sánh dáng vẻ hiện tại của ông ta với những gì ở ông ta mà tôi đã được thấy lần đầu sáu năm về trước, và tự nhủ thầm “Việc làm chủ quán trọ đã gây ra nhiều thay đổi làm sao!”

Những dấu hiệu của sự thay đổi được thấy rõ mọi nơi, ở trong và xung quanh quán trọ “Lưỡi liềm và bó lúa”. Quán đã được mở rộng với những chái nhà và phòng mới được xây thêm, nhưng càng được mở rộng trông nó càng có vẻ thô lỗ hơn. Khi xây dựng, tất cả các cánh cửa ra vào đã được sơn màu trắng và cửa chớp được sơn màu xanh lá cây, tạo cho ngôi nhà một vẻ gọn gàng, thậm chí trang nhã. Nhưng màu trắng và màu xanh lá cây đã bị hoen ố bởi màu nâu sậm, trông rất xấu xí. Phòng bar đã được mở rộng thêm và quầy bar giờ đã được trang trí thêm bởi những thanh nẹp bằng đồng, những giá để đồ phía sau quầy bar được trang trí thêm nhiều thứ hoặc như những chiếc gương, đồ được mạ vàng, vân vân. Nhiều bức tranh – hay, nói đúng hơn, là những tờ giấy đầy màu sắc loè loẹt với các hình ảnh nếu không dung tục thì cũng thô bỉ - cũng đã được treo lên những bức tường. Trong phòng khách, ngay gần phòng bar, tôi nhận thấy cảnh vật ít thay đổi, nhưng về diện mạo thì đã khác trước nhiều. Tấm thảm trải sàn nhà, những bộ bàn ghế vẫn y nguyên như trước, nhưng vẻ ngoài lại không được như vậy. Căn phòng bốc lên một không khí ngột ngạt, nhớp nhúa, và trông có vẻ như đã không được quét dọn và để mặc cho bụi bám hàng tuần nay rồi.

Một người đàn ông Ireland trẻ và lịch thiệp đang đứng trong quầy bar, và đưa cho tôi cuốn sổ để đăng ký tên khách trọ. Sau khi tôi đã ghi lại tên mình vào đó, ông ta chỉ dẫn cho người khuân hành lý của tôi lên căn phòng được dành cho tôi. Tôi đi theo người khuân vác tới căn phòng mà tôi đã ở trong những lần đến trước. Nơi đây cũng đã có những sự đổi thay, nhưng không phải theo hướng tốt lên. Trước đây, căn phòng luôn hấp dẫn và sạch sẽ, gối và khăn trải giường trắng tinh như tuyết, còn đồ đạc trong phòng lúc nào cũng sáng bóng. Giờ đây, mọi thứ đều phủ đầy bụi bặm và cáu bẩn, không khí hôi hám, khăn trải giường và vỏ gối đã ngả màu. Cửa sổ không có rèm che để làm dịu bớt ánh sáng bên ngoài chiếu vào, cửa chớp cũng không ngăn được hết ánh nắng, vì nhiều thanh chớp đã hỏng. Tôi bỗng thấy một cảm giác kinh tởm dâng lên trước mùi hôi hám, ngột ngạt và quang cảnh bừa bãi, bởi vậy sau khi đã rửa tay, rửa mặt và phủi bụi trên quần áo, tôi đi xuống dưới nhà. Phòng khách vẫn là nơi dễ chịu hơn so với căn phòng của tôi, vì vậy tôi đi ra hiên nhà và ngồi xuống một chiếc ghế. Có một số người khác cũng đang ở đó, họ trông sung sức, khỏe mạnh, nhưng lười nhác, thích chơi bời hơn là làm việc. Một người trong số đó để sát lưng chiếc ghế của ông ta vào tường và đang nhún nhảy đôi chân hát bài “Những ông lão ở nhà”. Một người khác ngồi dang chân trên một chiếc ghế, với khuôn mặt quay về một phía. Ông ta đang thư giãn, và có lẽ trong đầu đang theo đuổi một ý nghĩ hoặc nhẩm theo một điệu nhạc nào đó. Một người thứ ba thì đang ngồi ngả hẳn người về phía sau, còn hai chân ông t thì đang giơ cao quá đầu và đặt lên một trong những chiếc cột chống ở hiên nhà. Còn một người thứ tư thì nằm dang rộng chân tay trên một chiếc ghế dài, ông ta đang ngủ, chiếc mũ được úp lên mặt để ngăn không cho lũ ruồi đang bay ầu ầu xung quanh bâu vào.

Dù vậy, người đàn ông đang ngủ vẫn nhìn tôi một cách tò mò khi tôi ngồi xuống gần đó, nhưng vẫn không thay đổi tư thế. Tròng mắt của người đàn ông chuyển động nhưng chỉ dãn ra đôi chút, và qua đó cho thấy là đang quan sát tôi.

“Xem kìa, ai đấy?” một trong những người đang có mặt bỗng kêu lên khi có một người đàn ông đi nhanh đến trong ánh chiều chạng vạng, và ông ta đứng bật dậy chăm chú nhìn về phía đường, cố gắng nhìn qua đám bụi gây ra bởi những chiếc bánh xe và móng ngựa.

“Tôi không nhìn thấy gì”. Người đàn ông ngủ đã nhỏm dậy, giụi mắt và cũng nhìn ra đường.

“Ai đấy, Matthew?” một người hỏi người đàn ông Ireland phục vụ quầy bar giờ đang đứng ở cửa.

“Willy Hammond” Matthew trả lời.

“Vậy à! Có phải đó là con ngựa trị giá ba trăm dollar của ông ấy không?”

“Đúng vậy”.

“Ôi chao! Nó phi nhanh như một con én vậy!”

“Ừ! Cũng như người chủ của nó vậy”.

“Tôi nghĩ khó ai có thể sánh được với Hammond. Cậu ấy điều khiển nó thật nhanh nhẹn, duyên dáng”, một người đàn ông nói.

“Đúng vậy! Có lẽ ông đã nói ra điều mà mình hài lòng về cậu ấy. Cậu ấy là một người tốt bụng mà tôi từng được thấy, và rất hào phóng”.

“Ông bố già của cậu ấy sẽ hài lòng về nhận xét cuối cùng của ông đấy” Matthew nói.

“Không có gì nghi ngờ về điều đó, vì cậu ấy luôn mở rộng hầu bao”, một người trả lời.

“Đúng, dù sao đi nữa, tôi nghĩ Willy vẫn có những vị thế của cậu ấy”.

“Vị thế như thế nào?”

“Đó là cái tên Hammond và Con trai đối với cối xay và xưởng chưng cất rượu “.

“Tôi biết, nhưng theo cách nào?”

“Willy đã được trở thành một thương gia, về mặt tư cách, để, theo ý bố cậu ta, thấy mình có những bổn phận đối với vị trí mới đó, và bởi thế sẽ trở nên chín chắn hơn”.

“Chín chắn hơn! Ôi, trời! Sẽ phải cần đến những thứ khác ngoài công việc kinh doanh để làm được điều đó. Sự kiềm chế cũng được áp dụng quá muộn”.

“Cũng như ông già cậu ta đã khám phá ra, tôi đang nghĩ đến chuyện buồn của cậu ấy”.

“Ông ấy không bao giờ đến đây nữa, phải không Matthew?”

“Ai vậy?”

“Thẩm phán Hammond”.

“Ồ không. Ông ta và Slade đã cãi nhau thậm tệ cách đây khoảng một năm, và ông ấy không bao giờ bén mảng đến chỗ chúng tôi kể từ đó”.

“Nguyên nhân là vì Willy và…” Người vừa nói không nhắc đến tên ai, nhưng ông ta nháy mắt đầy ý nghĩa và hất đầu về phía cửa ngôi nhà, ám chỉ người nào đó trong gia đình Slade.

“Tôi cũng tin như vậy”.

“Ông có cho rằng Willy thực sự thích cô ấy?”

Matthew nhún vai, nhưng không trả lời.

“Cô ấy là một cô gái xinh đẹp”, lời nhận xét trầm xuống “và rất xứng đôi với con trai của Hammond, nếu cô ấy là con gái tôi, tôi thà thấy cô ấy ở Jericho còn hơn là lấy cậu ta”.

“Cậu ấy có rất nhiều tiền cho cô ấy. Cô ấy có thể sống như một nữ hoàng vậy”.

“Nhưng được trong bao lâu?”

“Im nào!” Matthew thì thào. “Cô ấy đấy!”

Tôi ngước nhìn theo, và thấy ở ngay phía trước ngôi nhà, một cô gái trẻ đang đi vào. Cô gái có khuôn mặt trông thật thuỳ mị, duyên dáng, mà tôi nhận ngay ra là Flora Slade. Năm năm trôi qua đã làm cho cô gái trở thành một phụ nữ xinh đẹp. Mặc dù sống bên cạnh Simon Slade, nhưng nhìn cô không hề có những thay đổi như ở người cha. Cặp mắt cô vẫn dịu dàng và trong sáng giống như hồi tôi mới gặp lần đầu khi cô mười sáu tuổi và người cha của cô đã nói câu “con gái tôi” với vẻ tự hào xen lẫn âu yếm trong giọng nói. Cô gái đi qua gần chỗ tôi đang ngồi, và đi vào trong ngôi nhà. Khi cô đến gần hơn, tôi nhận thấy một số nét ưu tư, từng trải trên khuôn mặt, nhưng chúng chỉ khiến cho khuôn mặt cô trông càng hấp dẫn hơn. Tôi không thể không nhận ra sự ngưỡng mộ của mọi người khi cô gái quay lại mỉm cười và gật nhẹ đầu chào những người có mặt.

“Một cô gái thật đáng yêu, và không một chút tội lỗi – một bông hoa giữa bầy thú”, lời nhận xét được đưa ra khi cô gái đã đi vào nhà.

“Tôi thấy cô ấy quá đáng yêu đối với Willy Hammond” Matthew nói “Một người thông minh và hào hiệp, như mọi người thường gọi cậu ấy”.

“Theo tôi nghĩ” một người nói “cô ấy trong sáng và đáng yêu như một thiên thần vậy, còn cậu ấy – tôi có thể nói với ông – cậu ấy cũng chẳng phải người thanh khiết gì. Cậu ấy biết hơi quá nhiều thứ - ý tôi muốn nói là những thứ không hay ho gì”.

Cuộc đối thoại ngừng lại khi có sự xuất hiện của Slade. Sự quan sát lần thứ hai dáng vẻ và khuôn mặt ông ta vẫn không làm thay đổi những ấn tượng không mấy dễ chịu của lần gặp đầu. Khuôn mặt ông ta thể hiện một vẻ cứng rắn xen lẫn hưởng lạc, cùng với nét phì nộn. Mùi hơi thở toả ra khi ông ta ngồi xuống một chiếc ghế gần nơi tôi đang ngồi cho thấy ông ta là người đã quen uống rượu một cách vô độ và cặp mắt đỏ ngầu của ông ta là bằng chứng rõ ràng cho thấy Simon Slade đang trở thành một kẻ nghiện rượu nặng. Giọng nói lè nhè của ông ta càng củng cố thêm những dấu hiệu về sự biến đổi theo hướng sa sút trong nhân cách ông ta.

“Ông có gặp Frank buổi chiều nay không?” ông ta hỏi Matthew, sau khi đã trao đổi vài câu với chúng tôi.

“Không”, người phục vụ quán bar trả lời.

“Lúc đến đây, tôi thấy cậu ấy đi cùng với Tom Wilkins” một trong những người đàn ông đang ngồi trong hành lang lên tiếng.

“Nó đi cùng với Tom Wilkins làm gì vậy?” Slade hỏi, giọng bực bội “Có lẽ nó đã tuỳ tiện trong việc lựa chọn bạn bè”.

“Họ đã đi săn”.

“Đi săn?”

“Đúng thế! Cả hai người đều mang theo súng bắn chim. Tôi không đứng gần nên không hỏi được là họ đi đâu”.

Thông tin này khiến cho Slade trở nên lo nghĩ. Sau một hồi càu nhàu, ông ta đứng dậy và đi vào trong nhà.

“Và tôi có thể đã kể cho ông ta nhiều hơn nữa, tôi đang định như vậy” người đàn ông đã cho biết Frank đi cùng với Tom Wilkins nói.

“Còn gì nữa?” Matthew hỏi.

“Có một chiếc xe ngựa, và một cái giỏ đựng champagne. Những gì đựng trong giỏ, chắc ông đã đoán ra”.

“Chiếc xe ngựa là của ai?”

“Tôi không biết gì về chiếc xe ngựa, nhưng nếu con Lightfoot không mất giá đi hàng trăm dollar trước khi trời tối, thì hãy gọi tôi là nhà tiên tri lừa dối”.

“Ồ không” Matthew nói, vẻ ngờ vực. “Frank thường không làm những việc tàn ác như vậy. Con Lightfoot không đủ sức khoẻ để kéo xe trong vòng một tháng nữa”.

“Tôi không quan tâm đến điều đó. Hiện giờ nó đang phải làm việc, và cách nó bi.đối xử khi tôi nhìn thấy đã cho thấy một chiều hướng xấu”.

“Cậu ấy đã lấy nó ở đâu?” một người hỏi.

“Nó được thả ở cánh đồng cỏ sáu mẫu, gần cầu Mason tuần trước” Matthew trả lời. “Tất cả những gì mà tôi cần phải nói” ông ta nói thêm “là Frank cần được đưa vào kỷ cương và rèn giũa cho ra trò. Tôi chưa bao giờ thấy một kẻ bất trị trẻ tuổi nào như cậu ta. Cậu ấy không quan tâm gì đến lẽ phải, và không ngại làm những việc xấu. Cậu ta là một cậu bé tồi tệ nhất mà tôi đã từng thấy”.

“Trông mặt cậu ta, thật khó có thể gọi là một cậu bé”, một người đàn ông bật cười.

“Dù sao đi nữa, tôi cũng không có gì nhiều để nói với cậu ấy” Matthew trả lời “vì tôi biết rất rõ rằng nếu chúng tôi cứ tranh cãi với nhau một cách thường xuyên, sẽ rất khó khăn. Sau đó, chúng tôi sẽ khó có thể ở cùng trong một nhà. Bởi vậy, tôi không muốn để ý đến kẻ bất lương trẻ tuổi ấy”.

“Tôi tự hỏi vì sao bố của Frank không giao công việc cho cậu ấy” một người nhận xét. “Sự vô công rồi nghề sẽ làm cho cậu ấy hư hỏng”.

“Cậu ta đã phục vụ quầy bar trong vòng một hai năm gì đó”.

“Đúng vậy, và pha rượu rất lành nghề, nhưng….”

“Rồi cậu ta đã trở thành một khách hàng quan trọng của chính mình?”

“Chính xác! Cậu ta trở thành một con ma men từ khi chưa đến tuổi mười lăm!”

“Chao ôi!” Tôi bất giác kêu lên.

“Thực vậy, thưa ngài” người vừa nói quay sang phía tôi “tôi chưa bao giờ thấy trường hợp nào như thế. Và những câu chuyện trong phòng bar, chắc ngài cũng biết, không mấy khi được tao nhã, lịch sự gì. Tôi không muốn con trai mình nghe được những lời lẽ đó. Còn Frank đã luôn lắng nghe một cách háo hức những gì được nói ra trong phòng bar, và chỉ một thời gian ngắn sau đã trở thành một kẻ ăn nói thô bỉ, phàm tục. Tôi cũng chẳng phải người thánh thiện gì, nhưng vẫn thấy ghê người khi nghe cậu ta chửi thề”.

“Tôi thấy thương cho người mẹ của cậu ta” tôi nói và chợt nghĩ đến bà Slade.

“Ngài nói đúng” người đối thoại với tôi trả lời. “Tôi nghĩ bà ấy còn buồn hơn. Ngày u ám đối với bà ấy, để tôi kể cho ngài biết, là khi Simon Slade bán cối xay của ông ta đi và xây lên quán trọ này. Bà ấy đã phản đối ngay từ đầu”.

“Tôi đã đoán như vậy”.

“Tôi biết mà” người đàn ông nói. “Vợ tôi đã chơi thân với bà ấy từ nhiều năm. Thực ra thì họ đã thân nhau như chị em gái vậy. Tôi nhớ rất rõ lần bà ấy đến nhà chúng tôi, khi cối xay đã bị bán đi, và khóc vì điều đó như trái tim bị tan vỡ vậy. Bà ấy không nhìn thấy gì ở phía trước ngoài những âu lo và thất vọng. Bà ấy luôn coi việc mở quán trọ là một nghề mạt hạng, và việc đổi từ nghề chủ cối xay đáng trân trọng sang làm chủ quán nhàn họa, như bà Slade đã cho biết, được bà ấy coi như một điều đáng hổ thẹn. Tôi nhớ rõ rằng mình đã cố gắng thuyết phục bà ấy – rằng làm chủ quán trọ cũng đáng trân trọng như bất cứ nghề nào khác, nhưng vô ích. Trước đây, bà ấy luôn là người phụ nữ vui vẻ, tuổi cười, đầy hy vọng, nhưng kể từ đó đến nay tôi không còn được nhìn thấy một nụ cười thực sự nào trên khuôn mặt của bà ấy”.

“Đó quả là sự mất mát lớn đối với một người đàn ông” tôi nói.

“Sự mất mát nào?” ông ta hỏi, chưa hiểu ý tôi.

“Khuôn mặt vui tươi của vợ ông ấy”.

“Và cả trái tim, được thể hiện qua khuôn mặt ấy nữa”, người đàn ông nói.

“Quá nhiều sự xấu đi”.

“Thật là quá đủ! Đúng vậy, một sự mất mát lớn”.

“Đánh đổi lại, ông ta được điều gì?”

Người đàn ông nhún vai.

“Ông ta được điều gì?” tôi hỏi lại. “Ông có thể nêu ra được không?”

“Ông tra trở nên giàu có hơn”.

“Ông ta có hạnh phúc hơn không?”

Người đàn ông nhún vai lần nữa. “Tôi không có ý định nói thế”.

“Ông ta giàu hơn bao nhiêu?”

“Ồ, giàu lên rất nhiều. Vừa mới hôm qua, có người cho biết rằng ông ta có không dưới ba mươi nghìn dollar”.

“Thật ư? Nhiều quá!”

“Đúng vậy”.

“Làm thế nào mà ông ta tích luỹ được nhanh như vậy?”

“Quán bar của ông ấy có rất nhiều khách. Và, ngài biết đấy, tiền vào cô ũng vô kể.”

“Ông ta chắc hẳn đã bán ra một khối lượng rượu rất lớn trong sáu năm qua”.

“Hẳn vậy. Tôi nghĩ rằng mình không sai khi nói rằng trong vòng sáu năm kể từ khi quán “Lưỡi liềm và bó lúa” được mở ra, lượng rượu được tiêu thụ đã nhiều hơn trong hai mươi năm trước đó”.

“Phải đến bốn mươi năm ấy chứ” một người đàn ông đang theo dõi cuộc trao đổi của chúng tôi lên tiếng nhận xét.

“Phải đến bốn mươi năm” một người khác tỏ ra đồng tình.

“Căn cứ vào đâu?” tôi hỏi. “Đã có một quán trọ ở đây từ trước khi quán “Lưỡi liềm và bó lúa” được mở rồi mà”.

“Tôi biết, và một số nơi có bán rượu khác nữa. Nhưng mọi người gần xa đều biết và quý mến người chủ cối xay Simon Slade. Ông ta là người chủ cối xay tốt và là một người đàn ông vui vẻ, dễ gần, hay chuyện trò và làm vui lòng những người chung quanh. Bởi vậy, mọi người đều bàn tán khi Slade xây lên ngôi nhà này, nơi được ông ta trang bị sang trọng hơn bất cứ quán nào khác ở đây. Thẩm phán Hammond, thẩm phán Lyman, luật sư Wilson, và tất cả những ai có máu mặt ở đây đã lập tức trở thành khách quen của quán trọ mới, và những người khác cũng làm như vậy. Bởi thế, chắc ngài đã hình dung được vì sao Simon đã đạt được kết quả đó”.

“Ban đầu,” tôi nói “quán trọ mới đã được cho là sẽ làm nên những điều kỳ diệu cho Cedarville”.

“Đúng” người đàn ông cười, trả lời “và nó đã làm được như vậy”.

“Theo khía cạnh nào?”

“Ồ nhiều chứ. Nó đã làm cho một số người giàu hơn, và một số nghèo đi”.

“Ai là người bị nghèo đi?”

“Hàng tá người. Người ta thường đổ cho số phận khi thấy một người chủ quán trọ thu hút được đông đảo tửu khách, và giàu nên, trong khi có nhiều người khác bị nghèo đi”.

“Điều đó xảy ra như thế nào?” tôi muốn được nghe người đàn ông vốn là một khách hàng của quán bar này giải thích thêm.

“Người chủ quán trọ không làm tăng thêm sự giàu có chung. Ông ta không làm ra cái gì. Ông ta nhận lấy tiền của khách hàng, nhưng không trao cho họ thứ gì có giá trị để đổi lại. Ông ta cứ giàu lên, còn họ thì cứ nghèo đi vì sự trao đổi đó. Không phải như vậy sao?”

Tôi sẵn lòng đồng ý với quan điểm đó, và hỏi

“Ai là người bị nghèo đi một cách đáng chú ý?”

“Thẩm phán Hammond, chẳng hạn”.

“Ra thế! Tôi ngỡ sự tăng giá bất động sản của ông ta, do ảnh hưởng từ việc xây lên quán trọ này, là rất lớn, khiến ông ấy thu về được nhiều tiền rồi”.

“Đã có sự tăng giá nhẹ của những bất động sản nằm dọc theo phố này sau khi quán “Lưỡi liềm và bó lúa” được khai trương, và thẩm phán Hammond đã kiếm được lợi từ điều đó. Những bữa tiệc ăn mừng ồn ào cũng được tổ chức, nhưng tôi tin rằng số lợi nhuận không nhiều”.

“Vậy điều gì đã khiến cho ông thẩm phán nghèo đi?”

“Việc mở ra quán trọ này, như tôi đã nói”.

“Nó ảnh hưởng đến ông ta như thế nào?”

“Ông ta nằm trong số những người ủng hộ nhiệt liệt nhất của Slade, ngay khi ông ta thấy có sự tăng giá đất xây nhà, đã gọi ông ấy là một trong những người đàn ông dám nghĩ dám làm nhất ở Cedarville, một người đỡ đầu của khu vực, và nhiều điều tương tựnhư thế. Để khuyến khích thêm khách hàng,ông ta đến quán uống rượu đều đặn hàng ngày, và hô hào mọi người làm theo. Trong số những người làm theo có Willy, con trai ông ta. Tôi phải nói rằng, trong phạm vi hai chục dặm quanh đây, không có một thanh niên nào tốt hơn Willy, cũng không ai có được tương lai nhiều triển vọng như cậu ấy, lúc “cái bẫy người” này được mở ra” – ông ta hạ thấp giọng xuống và nhìn xung quanh khi ám chỉ quán trọ của Slade – “và đến nay không ai sa ngã một cách bất cẩn hơn cậu ấy, khi đã quá muộn, cha cậu ấy mới nhận ra rằng con mình đã bị hư hỏng, và giao du với nhiều kẻ xấu. Đó là những lý do đã khiến ông ta mua lại cối xay trước đây của Slade, và biến nó thành một nhà máy và một xưởng chưng cất rượu. Dĩ nhiên, ông ta đã phải bỏ ra rất nhiều chi phí để xây thêm nhà xưởng, máy móc và hệ thống chưng cất. Ông ta hy vọng sẽ kiếm được nhiều tiền, nhất là qua xưởng chưng cất rượu, và sẽ giành lại được Willy bằng cách đưa cậu ấy tham gia và quan tâm đến công việc này. Để Willy thực sự gắn bó với công việc, ông ta đã giao cho cậu con trai hai mươi nghìn dollar tiền vốn của mình và cùng với cậu ấy kinh doanh theo nguyên tắc cổ phần, nhằm khiến cho cậu ấy phải luôn bận bịu với công việc”.

“Những điều đó, thưa ngài” người đàn ông nhấn mạnh thêm “đã thất bại. Hôm qua tôi nghe tin rằng cả cối xay và xưởng chưng rượu đã ngưng hoạt động và được rao bán”.

“Họ đã không kiếm được nhiều tiền như dự kiến à?”

“Không, không thể làm được điều đó với sự quản lý của Willy Hammond. Cậu ta có quan hệ với quá nhiều kẻ xấu – những người bám theo Willy vì cậu ấy có nhiều tiền, và tiêu xài như nước. Đến một nữa thời gian cậu ấy vắng mặt ở cối xay, và khi có mặt ở đó thì cũng chỉ làm việc một cách hờ hững. Tôi đã nghe nói – và cũng không mấy nghi ngờ - rằng cậu ta đã lãng phí hết hai mươi nghìn dollar, và còn nhiều hơn thế”.

“Làm thế nào có thể như vậy?”

“Đúng, mọi người nói như thế, và không phải là không có căn cứ. Có một người đàn ông, tên là Green, đã ở đây hầu như hết cả thời gian trong bốn hoặc năm năm qua. Ông ta không làm gì cả, và có vẻ như không có bạn bè nào ở quanh đây. Không ai biết được ông ta từ đâu đến và ông ta cũng không nói về điều đó. Người đàn ông này làm quen với Willy Hammond sau khi cậu ta đến đây và bám ngay lấy cậu ấy. Họ, như được thấy, đã nhanh chóng kết thân kể từ đó, và cùng nhau đi cưỡi ngựa, đi săn hay đi câu cá hầu như hàng ngày, và cứ đến tối lại rủ nhau ra một chỗ riêng. Một số người rỉ tai nhau rằng Green, người đàn ông đó, thưa ngài, là một tay cờ bạc, và tôi cũng tin là như vậy. Bởi thế, không có gì khó hiểu về việc Willy đã làm gì với số tiền của cậu ta, và của cha cậu ta”.

Tôi đồng ý với ý kiến đó.

“Và nếu Green là một tay cờ bạc” tôi nói “ông ta hẳn đã giàu lên theo hệ quả từ việc mở ra một quán trọ mới và hấp dẫn hơn ở Cedarville”.

“Đúng vậy, và Cedarville đã nghèo đi để ông ta giàu lên. Tôi chưa bao giờ nghe thấy nói ông ta mua dù chỉ một tấc đất, hay làm việc gì đóng góp cho lĩnh vực sản xuất gì cả. Ông ta chỉ là một kẻ hút máu”.

“Còn tồi tệ hơn cả việc bòn rút tiền” tôi nhận xét, “ông ta làm tha hóa những nạn nhân trong khi lấy đi tiền của họ”.

“Quả thế!”

“Willy Hammond có lẽ không phải nạn nhân duy nhất của ông ta” tôi nói.

“Tôi cũng cho là vậy. Tôi đã thường đến quán bar này hàng đêm trong mấy năm – một sự thừa nhận đáng tiếc đối với một người đàn ông” ông ta nói thêm với một chút ngượng ngùng, “và tôi đã thấy nhiều điều tương tự diễn ra quanh mình. Trong số những người khách thường xuyên, có ít nhất nửa tá là những thanh niên đến từ các gia đình rất nề nếp, họ đã được nuôi dạy và học hành tử tế. Thế nhưng việc họ đến đây không được những bạn bè, hoặc ít nhất là một số bạn bè, biết đến, tôi biết chắc vậy. Họ không uống nhiều, mà thường chỉ một hai ly. Đến khoảng gần chín giờ, thường là trước đó một giờ, ta sẽ thấy từng người một lặng lẽ rời phòng bar, đi qua phòng khách, có cả Green và Slade đi theo. Vào bất cứ lúc nào trong đêm, cho đến một hai giờ sáng, và đôi lúc đến ba giờ, người ta cũng có thể thấy ánh sáng chiếu qua kẽ hở của một tấm rèm che một chiếc cửa sổ nhất định, mà tôi được biết là thuộc về căn phòng của Harvey Green. Qua những hiện tượng như vậy, ngài có thể đưa ra kết luận của chính mình. Tôi cho rằng đây là một vấn đề rất nghiêm trọng”.

“Vì sao Slade đi cùng những thanh niên đó?” tôi hỏi. “Ông có nghĩ ông ta cũng đánh bac không?”

“Tôi sẽ sai lầm nếu ông ta không phải là kẻ cò mồi cho Harvey Green”.

“Thật tồi tệ. Ông ta không thể trở thành đốn mạt như vậy được!”

“Nghề chủ quán trọ là một môi trường xấu xa, thưa ngài”.

“Tôi công nhận ông nói đúng”.

“Và đã gần bảy năm kể từ khi ông ta bắt đầu tiếp thu được những điều từ môi trường đó. Rất nhiều điều cả tốt và xấu có thể đã được rút ra sau bảy năm, nhất là với những người muốn quan tâm học hỏi”.

“Đúng vậy!”

“Và cũng đúng trong trường hợp này. Simon Slade giờ không còn là người đàn ông của bảy năm trước. Bất cứ ai cũng có thể thấy điều đó chỉ với nửa cái nhìn. Ông ta đã trở nên ích kỷ, tham lam, cẩu thả và cáu bẳn. Khó có thể có một sự khác biệt giữa những người đàn ông lớn hơn như giữa người chủ quán trọ Simon Slade, và người thợ xay Simon Slade”.

“Và thói rượu chè nữa chứ?” tôi nói.

“Ông ta bắt đầu uống hơi quá nhiều” người đàn ông trả lời. “Trong trường hợp đó, năm năm nữa ông ta khó có thể còn phong lưu được như hiện nay”.

“Ông ta đã lên tới đỉnh điểm rồi, một số người trong chúng tôi nghĩ vậy”.

“Điều gì đã dẫn đến ý kiến đó?”

“Ông ta đã bắt đầu sao nhãng ngôi nhà của mình, đó là một”.

“Một dấu hiệu xấu”.

“Và còn một dấu hiệu nữa. Trước đây, ông ta thường bỏ ngay tiền ra mua với giá hời khi gặp được những bất động sản phải bán đổ bán tháo. Trong ba hoặc bốn tháng qua, đã có một số cơ hội quan trọng như vậy đã đến, nhưng Simon Slade đã không hề có ý định mua. Ngược lại, tuần trước ông ta đã bán đi một ngôi nhà và mảnh đất ở thị trấn để lấy năm trăm dollar, rẻ hơn giá mà ông ta đã mua một năm trước, và thấp hơn so với giá trị thực tế của nó”.

“Vì sao thế?” tôi hỏi.

“À! Đó vẫn còn là câu hỏi. Ông ta cần tiền, mặc dù ông ta không cho ai biết là tiền đó để làm gì, tôi chỉ biết thế”.

“Ông nghĩ gì về điều đó?”

“Chắn hắn, ông ta và Green đã cùng nhau hợp tác để kiếm chác, nhưng bản chất của tay cờ bạc lọc lõi đó đã không chừa ra ngay cả người bạn của mình. Họ đã bắt đầu trở nên mâu thuẫn với nhau”.

“Ông nghĩ vậy à?”

“Tôi tin vậy, và nếu tôi dự đoán đúng, Simon Slade sẽ bị nghèo đi so với hiện nay trong vòng một năm nữa”.

Đến đây thì cuộc trò chuyện của chúng tôi bị gián đoạn. Có người mời ông bạn hay chuyện của tôi một chầu rượu, và ông ta để lại tôi ngồi lại không một chút miễn cưỡng, và cũng không chào hỏi câu nào.

Tối hôm đó, tôi ăn một bữa được phục vụ khác hẳn với bữa ăn trong lần đầu tôi đến quán “Lưỡi liềm và bó lúa”. Tấm khăn trải bàn không chỉ vấy bẩn, mà bẩn gớm ghiếc, những chiếc đĩa, chén cáu bẩn và nhớp nhúa, dao và nĩa ăn xỉn màu, còn đồ ăn thì được chế biến thành những miếng to tướng. Hai cô gái người Ireland trông béo nhẫy phục vụ bàn ăn, nhưng bữa ăn thiếu sự hiện diện của hai vợ chồng người chủ qúan. Tôi đã rất đói lúc chuông báo bữa ăn vang lên, nhưng cái cảm giác thèm ăn của dạ dày cũng mau chóng bị biến mất trong bầu không khí của phòng ăn, và tôi là người đầu tiên rời bàn ăn.

Ngay sau đó, đèn được thắp lên, nhiều người bắt đầu kéo đến phòng bar rộng rãi, nơi có những chỗ ngồi thoải mái, cùng với những chiếc bàn, những tờ báo, bàn chơi cờ thỏ và cáo, quân cờ domino…

Việc đầu tiên của hầu hết mọi người khi bước vào là gọi một ly rượu, và đôi khi có người uống đến hai, ba ly liền trong vòng nửa giờ theo sự mời mọc của những tửu khách đến sau.

Hầu hết những khách vừa đến đều là những người mà tôi chưa quen. Tôi nhìn từng khuôn mặt để tìm xem có ai là người đã biết từ trước hay không, và thấy một khuôn mặt quen quen. Khi tôi đang lục tìm trí nhớ để cố nhận ra người đó, thì lúc ấy bỗng có người gọi ông ta là “Thẩm phán”.

Khuôn mặt quả có nhiều thay đổi, nhưng giờ tôi đã nhận ra thẩm phán Lyman. Năm năm đã huỷ hoại khuôn mặt đó một cách ghê gớm. Dường như kích thước của nó đã tăng lên gấp đôi, và mọi nét tinh tế đều đã biến đâu mất. Cặp mi mắt dày và lồi lên chỉ hé mở trên đôi mắt sệ xuống, cặp môi và hai gò má to mập tạo cho khuôn mặt ông ta đầy vẻ hưởng lạc. Những gì đẹp đẽ của một đấng nam nhi đã phải nhường chỗ cho bản năng thấp hèn. Ông ta nói năng lớn giọng, vẻ huyênh hoang, giáo điều – chủ yếu về những đề tài chính trị - nhưng chỉ dựa theo trí nhớ, mà ai cũng thấy là những điều ông ta nói có rất ít cơ sở thực tế. Và ông ta, như thường lệ, nói bên ly rượu, rằng mình đã được chọn làm một đại biểu tại Quốc hội trong cuộc bầu cử lần trước, nhờ vào phiếu bầu của những người chống lại việc hạn chế rượu.

Thẩm phán Lyman, cùng với một nhóm người quanh ông ta, đã gặp phải chỉ trích mạnh mẽ của những người thuộc một đảng có quan điểm phản đối tệ nghiện rượu và đã phản đối sự bầu chọn của ông ta trong suốt hai năm, và trong cuộc vận động bầu cử sau đó, họ đã xuất bản và cho phổ biến một tài liệu nói về sinh hoạt cá nhân, tư cách và đạo đức của ông ta, và dĩ nhiên, điều đó đã không nâng cao thanh danh cho ông ta đối với những người có tư cách.

Và không có gì ngạc nhiên khi ông ta cho rằng hạn chế rượu là quan điểm sai lầm, và khi những người có quan điểm như vậy tìm cách tác động vào cuộc bầu cử, thì quyền tự do của mọi người đang bị đe doạ, và ông ta gọi những nguời có quan điểm hạn chế rượu là những kẻ ích kỷ và đạo đức giả.

“Điều tiếp theo” ông ta nói to, giọng cảnh báo, khiến cho mọi người trong phòng đều chú ý “sẽ là những bộ luật cho phép phạt tiền bất cứ ai nhai hoặc hút thuốc lá (trước đây, người ta còn nhai, chứ không chỉ hút thuốc lá như ngày nay). Xâm phạm đến những sự tự do nhỏ nhất của con người, và quyên đó không còn được bảo đảm nữa. Những luật như vậy, đi ngược lại cuộc đấu tranh của những thế hệ đáng kính trước đây, là sự chống lại những quyền đó, và được những người còn tệ hại hơn cả cuồng tín nghĩ ra”.

“Ngài đã nói đúng, thưa thẩm phán, đúng một lần trong đời, nếu (một tiếng cười hic) trước đây ngày chưa bao giờ đúng!” một người trông dáng vẻ bệ rạc, đang đứng gần thẩm phán Lyman, vỗ vai ông ta vẻ thân mật và nói. “Không biết rồi họ sẽ còn làm những gì nữa. Đó là về ông chú Josh Wilson của tôi, người đã trông coi quản lý nhà tế bần được mười năm. Họ sẽ cho ông ấy thôi việc khi có được địa vị cao hơn ở địa hạt Bolton”.

“Vậy ư? Điều đó quả là quan trọng, Harry!” Lyman nói. “Chúng ta không nên để họ leo lên được địa vị cao hiểu. Mọi người đều có một bổn phận phải thực hiện đối với địa hạt của mình trong vấn đề này, và mỗi người đều phải thực hiện bổn phận đó. Nhưng họ đã làm điều gì chống lại ông chú của ông? Ông ấy đã làm gì để bảo vệ chính mình?”

“Họ không làm gì chống lại ông ấy cả, tôi tin vậy. Họ chỉ cho biết rằng sẽ không cần đến một nhà tế bần trong địa hạt nữa”.

“Gì thế? Họ sẽ để mặc cho những người nghèo khốn khổ chết đói à?” một người hỏi.

“Ồ không! (hic)” ông tan he răng cười tinh quái, bí hiểm và trả lời “không phải vậy. Mà vì không cần đến những nhà tế bần nữa, ít ra là họ đã nói như thế, và tôi ngờ rằng có lẽ còn điều gì đó phía sau, vì tôi chưa bao giờ thấy người nào khi đến nhà tế bần mà không nói rằng cái nghèo của ông ta là do rượu gây ra. Nhưng ông biết đấy, tôi ủng hộ việc giữ lại nhà tế bần. Dù sao, ngài cũng sẽ thêm được một lá phiếu trong kỳ bầu cử tới!”. Và bàn tay to lớn của người đàn ông lại vỗ vào vai Lyman. “Hoan hô rượu! Đó cũng là phiếu bầu! Harry Grimes không bao giờ bỏ rơi bạn bè”.

“Ông là một người bạn trung thãnh!” Lyman trả lời. “Ông đừng lo gì về nhà tế bần và ông chú Josh. Họ sẽ vẫn ổn thổi”.

“Nhưng hãy nhìn đây, thẩm phán Lyman” người đàn ông nói. “Không chỉ là nhà tế bần, mà còn nhà tù` ở phía trước”.

“Như thế nào?”

“Nhiều người nói vậy, và tôi cho rằng cũng không xa thực tế là mấy. Nguyên nhân gì đã khiến cho nhiêu người đàn ông phải vào tù? Ngài có thể kể cho chúng tôi đôi điều vê chuyện đó, thưa ngài thẩm phán, vì ngài chắc hẳn đã nhiều lần tham gia xét xử các vụ án. Chẳng phải đã có những người phải ra tòa vì rượu sao?”

Nhưng thẩm phán Lyman không trả lời.

“Im lặng là đồng ý (hic)”, Grimes nói tiếp. “Và người ta còn nói, họ đang có lợi thế, và tự tin sẽ đánh bại được chúng ta – tòa án cũng sẽ được viện đến. Bởi vậy, ngài thấy đó, thưa thẩm phán, quan điểm tự do của ngài đang bị đe dọa. Phải nỗ lực lên đi, ông bạn, nếu không, ông sẽ thua cuộc đấy!”

Không rõ thẩm phán Lyman nghĩ gi khi nghe cách nói chuyện đó, ông ta vốn là chính khách và người vận động tranh cử có kinh nghiệm, nên rất biết kiềm chế cảm xúc khi cần thiết. Harry Grimes cũng là một cử tri, và một lá phiếu cũng có thể quyết định sự thắng hay bại trong một cuộc bầu cử.

“Một trong những thủ đọan của họ” ông ta mỉm cười và nói. “Nhưng tôi có đủ kinh nghiệm để thấy được điểm yếu của lý lẽ đó. Nghèo khổ và tội ác bắt nguồn từ những trái tim lầm lạc, và chúng đã được hình thành từ lâu trước khi người ta sa vào nghiện ngập. Thật dễ dàng để đưa ra kết quả, chỉ cần nhìn vào những nguyên nhân, và lần theo những ảnh hưởng của chúng”.

“Rượu và sa ngã (hic). Chúng không phải là nguyên nhân và hậu quả sao?” Grimes hỏi.

“Đôi lúc chúng là như vậy” câu trả lời miễn cưỡng.

“Ồ, Green đấy à?” ông thẩm phán kêu lên khi thấy Harvey Green đi vào, với những bước đi lặng lẽ giống như của loài mèo. Ông ta, rõ ràng vui mừng vì đã có cơ hội thóat ra khỏi cuộc nói chuyện với người bạn quen thuộc và cũng là cử tri của ông ta.

Tôi quay sang nhìn người đàn ông, và để ý kỹ khuôn mặt của ông ta. Khuôn mặt đó vẫn không thay đổi. Vẫn cái nhìn lạnh lùng, nham hiểm, vẫn cái miệng lừa lọc, giờ càng trở nên cứng rắn và nhiều đường uốn éo, vẫn nụ cười nhe răng, vẫn những nếp nhăn thể hiện tâm địa đen tối và ích kỷ của hắn. Nếu hắn đã sa đà trong rượu chè năm năm qua, thì điều đó cũng không làm máu trong người hắn có thể đồi bại hơn, hay ấm thêm được một độ nào.

“Ông có thấy Hammond buổi tối nay không?” Thẩm phán Lyman hỏi.

“Tôi nhìn thấy cậu ấy cách đây một vài giờ” Green trả lời.

“Cậu ấy có thích con ngựa mới không?”

“Cậu ấy rất thích nó”.

“Giá của nó là bao nhiêu?”

“Ba trăm dollar”.

“Thế à!”

Thẩm phán Lyman đứng lên và cùng với Green đi sát bên nhau ngang qua phòng.

“Tôi có chuyện muốn nói với ông”, tôi nghe thấy Lyman nói.

Và sau đó hai người cùng đi ra ngòai. Tôi không nhìn thấy lại họ trong tối hôm đó.

Không lâu sau, Willy Hammond đến. Trông sự thay đổi của cậu ta mới đáng buồn làm sao! Willy đi tới quầy bar và tôi nghe thấy cậu ta hỏi Matthew về thẩm phán Lyman. Câu trả lời của ông ta rất nhỏ nên tôi không nghe thấy.

Với một động tác hấp tập, vội vã, Willy với tay lên phía những bình rượu cổ ton để trên giá phía sau Matthew, người phục vụ quầy bar lập tức lấy xuống một bình rượu brandy. Cậu ta rót từ đó ra một chiếc ly to, đến nửa ly, rồi uống cạn một hơi, mà không pha thêm nước.

Sau đó, cậu ta hỏi thêm mấy câu nữa, mà tôi không nghe rõ, nhưng những biểu hiện cho thấy tâm lý cậu ta đang bị kích động mạnh mẽ. Để trả lời Willy, Matthew hướng mắt lên phía trên đầu, có lẽ ra hiệu về một căn phòng nào đó ở trong ngôi nhà. Rồi chàng trai đi theo hướng đó, qua phòng khách.

“Có chuyện gì với Willy Hammond tối nay thế?” một người hỏi người phục vụ quầy bar. “Cậu ấy đang vội vàng đi tìm ai thế?”

“Cậu ấy tìm gặp thẩm phán Lyman” Matthew trả lời.

“Ồ!”

“Tôi đóan họ đang có chuyện bất hòa” người đó nhận xét.

“Rất tiếc là tôi không rõ”.

Lúc đó có hai người thanh niên, ăn mặc lịch sự, mặt mũi trông sáng sủa, bước vào, đứng uống rượu ở quầy bar và chuyện trò thân mật một lát với người phục vụ quây, rồi lặng lẽ biến mất qua lối cửa dẫn sang phòng khách. Tôi bắt gặp lại ánh mắt của người đàn ông đã nói chuyện với tôi hồi chiều, và cái nháy mắt đầy ý nghĩa của ông ta nhắc tôi nhớ lại những ám chỉ về một trong những căn phòng trên gác là nơi tụ tập đánh bạc đêm đêm, và một số thanh niên đầy triển vọng của thị trấn đã bị lôi cuốn, qua quầy bar, vào sự sa ngã. Một cảm giác rùng mình lan khắp những dây thần kinh trên người tôi.

Những cuộc trò chuyện được tiếp tục, với những lời lẽ thô bỉ, tục tĩu, khiến tôi cảm thấy ghê tởm và bỏ đi ra ngòai. Trời đêm quang đãng, không khí dịu nhẹ, và ánh trăng đang trải khắp nơi. Tôi bước đi ngoài hiên nhà, trầm ngâm suy nghĩ về những gì vừa được nghe và được thấy, trong khi những khách hàng vẫn tiếp tục kéo đến quầy bar. Chỉ có một vài người ở lại. Phần lớn những người khác chỉ ghé vào, uống một ly rượu, rồi đ ira, như để tránh phải tiếp xúc lâu với không khí trong phòng.

Chẳng bao lâu sau khi đi ra ngòai hiên, tôi nhận ra một người phụ nữ đứng tuổi đang chầm chậm đi tới, khi đi qua quán trọ, bà ta dừng lại và nhìn qua cửa vào trong phòng bar. Tuy nhiên, thời gian dừng lại chỉ một thóang. Chưa đầy mười phút sau, bà ta trở lại, và lần này đứng nhìn lâu hơn, rồi chầm chậm vừa đi tiếp vừa ngoái lại nhìn vào trong phòng cho đến lúc không còn nhìn thấy nữa mới thôi. Tôi đang ngẫm nghĩ về người phụ nữ này, thì bất chợt ngước mắt nhìn lên và nhận ra bà ta đang đi cách đó chỉ vài bước. Tôi súyt giật mình khi nhận thấy, không còn nghi ngờ gì nữa, đó là một người phụ nữ có trái tim đau khổ đang đi tìm đứa con của mình bị sa vào con đường lầm lạc. Khi nhìn thấy tôi, bà ta đi tiếp, nhưng có vẻ miễn cưỡng. Đi được một đọan ngắn, bà ta quay lại lần nữa, và lần này, người phụ nữ đó tiến đến gần ngôi nhà hơn để quan sát được rõ hơn mọi thứ trong phòng bar. Điều đó khiến bà ta có vẻ thỏa mãn. Rồi bà ta trỏ lui với những bước đi nhanh hơn, và không còn thấy xuất hiện trở lại tối hôm đó.

Ôi! Đó chính là một lời tố cáo đầy sức thuyết phục đối với sự cám dỗ của một quán trọ! Tim tôi chợt nhói lên khi nghĩ vê những bà mẹ còn chưa được biết tới đã và đang phải mang cùng nỗi đau như vậy. Vào đêm hôm đó, tôi không thể xua đi được hình ảnh về người phụ nữ buồn rầu trên lúc đã nằm xuống gối, thậm chí hình dáng của bà ta ám ảnh tôi ngay cả trong giấc mơ.

Đánh máy:tumbleweed
Nguồn: tumbleweed - vnthuquan - Thư viện Online
Nhà xuất bản Công An Nhân Dân
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 19 tháng 11 năm 2011