← Quay lại trang sách

Đêm thứ sáu Thêm những hệ quả khác

dịch giả: vũ anh tuấn

Đêm thứ sáu

thêm những hệ quả khác

ến tận gần mười giờ sáng hôm sau người chủ quán mới lại thấy xuất hiện, và khi ấy trông ông ta giống như một người đàn ông vừa qua một cơn trụy lạc. Hơn mười một giờ mới thấy Harvey Green đi xuống. Ở hắn không có một dấu hiệu nào thể hiện, dù là nhỏ nhất, sự khác thường trong sinh họag. Râu mới được cạo nhẵn nhụi, và khuôn mặt hắn – mà mọi đường nét đều đã trơn tru, điềm tĩnh – trông như vừa trải qua một giấc ngủ ngon với một lương tâm trong sạch, và giờ đây hắn đang đón chào một ngày mới với một tâm hồn thanh thản.

Việc làm đầu tiên của Slade là đi đến sau quầy bar và uống một ly brandy loại nặng độ pha với nước, còn việc đầu tiên của Green là gọi một suất xúc xích và cà phê cho bữa sáng của ông ta. Tôi để ý đến cuộc gặp mặt giữa hai người đàn ông khi Green xuất hiện. Có một chút dè dặt bên phía Green, và sự lúng túng khó chịu về phía Slade. Không hề có lấy một bóng dáng nào của nụ cười trên cả hai khuôn mặt. Họ nói vài lời với nhau, và rồi tách ra mỗi người một nơi như có một lực đẩy từ cả hai phía. Trong suốt ngày hôm đó, tôi không còn thấy họ nói chuyện với nhau.

“Đang có chuyện trục trặc ở cối xay” một người đàn ông lịch thiệp mà tôi có việc cần giao dịch vào buổi chiều hôm đó nhận xét. Ông ta đang nói chuyện với một người đàn ông khác đang cùng ở trong văn phòng.

“Thế à? Có chuyện gì vậy?” người đàn ông kia hỏi.

“Mọi người đều đã bị nghỉ việc trưa nay, và cối xay đã đóng cửa”.

“Vì sao vậy?”

“Họ đã bị thua lỗ ngay từ đầu”.

“Họ bỏ bê việc làm ăn, có thể nói như vậy”.

“Có cả nguyên nhân do bỏ bê công việc, không còn nghi ngờ gì nữa”.

“Về phía Willy à?”

“Đúng. Người ta nói rằng cậu ấy đã hoang phí tiền bạc được giao vào tay, sau khi đã chơi bời mà không biết hổ thẹn”.

“Sự thiệt hại có lớn không?”

“Mọi người cho là lớn”.

“Bao nhiêu?”

“Đến ba mươi hoặc bốn mươi nghìn dollar. Nhưng đó là tin đồn, và dĩ nhiên, có sự phóng đại”.

“Tất nhiên. Chắc là không thiệt hại nhiều đến thế. Nhưng số tiền đó đã bị tiêu vào việc gì? Cậu ấy đã rất chơi bời, mua những con ngựa tốt, rượu chè sa đà, và những việc tương tự, nhưng những việc đó không thể tốn đến ba mươi hoặc bốn mươi nghìn dollar được”.

Vào lúc đó một con ngựa nhanh nhẹn phi nước kiệu kéo theo một cỗ xe trang nhã, trên xe có một người đàn ông, đi qua.

“Đó là một con ngựa có giá ba trăm dollar của cậu Hammond” ông ta nói.

“Hôm qua nó là của Willy Hammond. Nhưng nay thì đã có sự thay đổi quyền sở hừu, tôi đã tình cờ biết điều đó”.

“Thật vậy à?”

“Đúng thế! Người đàn ông tên là Green, người đã lai vãng ở Cedarville trong vài năm qua – sau những chuyện chẳng hay ho gì, tôi tin chắc vậy – hôm nay đã được sở hừu nó”.

“Chà! Ý thích của Willy thật là hay thay đổi. Vừa mới có được thứ mà cậu ta muốn, lại đã chán ngay sao?”

“Có vấn đề gì đó chưa được biết về vụ chuỷên nhượng này. Tôi đã nhìn thấy ông Hammond trước buổi trưa nay và ông ta trông rất thiểu não”.

“Tình trạng đáng lo ngại của cối xay hẳn đã góp phần vào đó”.

“Đúng vậy, nhưng tôi cho rằng còn có những lý do khác ngòai các lo ngại đó”.

“Đó là thói ăn chơi phóng túng, hoang phí của con trai ông ấy” ông ta nhận xét. “Điều đó cũng đủ làm cho người cha phải lo nghĩ”.

“Nói thẳng ra”, người còn lại nói “tôi e rằng anh chàng này đã có thêm một sự sa ngã nữa, cùng với thói rượu chè, và sự lười nhác”.

“Điều gì vậy?”

“Đánh bạc”.

“Không thể như vậy được!”

“Tôi không mấy nghi ngờ về điều đó. Và hơn nữa, theo tôi, con ngựa đẹp đó, mà cậu ta đã bỏ ra ba trăm dollar để mua chỉ cách đây mấy ngày, đã bị chuỷên sang tay gã Green trong xới bạc để trả nợ”.

“Nghe ông nói mà tôi cảm thấy sốc, thật không thể tin được!”

“Tiếc rằng tôi có những bằng chứng đáng tin cậy về những gì vừa nói. Gã Green đó là một kẻ cờ bạc chuyên nghiệp, người đã đến đây vì sự hấp dẫn của những khách hàng béo bở tụ tập tại quán “Lưỡi liềm và bó lúa” ngay từ khi người chủ cối xay lười biếng đó mới bắt đầu công việc gây thêm nghèo túng của ông ta, tôi không hề nghi ngờ điều đó. Điều này, cùng với việc cậu Hammond vẫn thường xuyên giao du với gã, ta cũng có đủ lý do để suy ra những ảnh hưởng rất tai hại”.

“Nếu như vậy” người đàn ông đang lắng nghe với khuôn mặt lo âu nói “thì Willy Hammond chắc hẳn không phải là nạn nhân duy nhất của gã”.

“Không, ông có thể tin như vậy. Nếu những tin đồn là chính xác, thì có bốn thanh niên nữa cũng đang sắp bị cuốn vào vòng xoáy sa ngã đó”.

Để xác nhận điều đó, tôi kể lại cuộc nói chuyện của mình với một trong những người khách thường xuyên đến phòng bar của Slade về đề tài này, và cả những gì mà tôi đã tận mắt chứng kiến trong tối qua.

Người đàn ông, mà đến lúc đó vẫn ngồi yên trong chiếc ghế, bỗng giật mình kêu lên, cứ như chính ông ta đang được nhìn thấy điều đó.

“Lạy Chúa nhân từ! Tôi chưa bao giờ hình dung ra như vậy! Còn con cái nhà nào được an tòan nữa?”

“Nó không chừa ai cả” người đàn ông lịch thiệp, và là chủ nhân văn phòng nơi chúng tôi đang ngồi, trả lời. “Nó không chừa ai cả, khi những cánh cửa dẫn đến sự sa ngã, giống như ta thấy ở quán trọ “Lưỡi liềm và bó lúa”, còn được mở ra. Không phải ông đã bỏ phiếu cho quan điểm chống lại việc hạn chế rượu trong cuộc bầu cử trước sao?”

“Tôi đã làm điều đó” ông ta trả lời “và theo nguyên tắc”.

“Những nguyên tắc của ông dựa vào đâu?” người kia hỏi.

“Dựa trên nền tảng chung của quyền tự do công dân”.

“Quyền tự do làm mọi việc, dù tốt hay xấu, chỉ theo lựa chọn của mỗi người”.

“Tôi không có ý nói vậy. Không có thể chế dân sự nào ở đất nước này có quyền nói rằng một công dân được ăn hay uống những gì”.

“Nhưng không phải mọi người, trong bất kỳ cộng đồng nào, cũng nhất trí với những luật lệ, được thông qua bởi các đại diện lập pháp của họ, nhằm hạn chế những người có y đồ xấu định xâm phạm những lợi ích chung cơ mà?”

“Ồ, đúng vậy”.

“Và ông có định cho rằng một qúan bán rượu – nơi mà nhiều thanh niên đang bị sa ngã, bị hủy hoại cả về thể chất và tinh thần – là nơi không làm điều gì ảnh hưởng đến những lợi ích chung không?”

“Nhưng phải có những nơi vui chơi giải trí cho mọi người chứ?”

“Không ai phủ nhận điều đó. Nhưng liệu những người theo đạo Thiên Chúa có thể đưa ra những điều mất phẩm cách về đạo đức để phục vụ nhu cầu giải trí không? Có cần thiết phải cung cấp chỗ ăn nghỉ và sự giải trí cho những khách qua đường, cùng với việc đưa họ vào con đường bị cám dỗ không?”

“Đúng, nhưng …sẽ là đi quá xa để đưa vào luật về những gì mà chúng ta ăn uống. Điều đó sẽ mở rộng lối cho những sự hạn chế có tinh chất cực đoan. Chúng ta cần phải nhớ hạn chế rượu là một nguyên tắc thuộc về phạm trù đạo đức. Chúng ta cần dạy dỗ con em chúng ta rằng rượu chè là thói xấu, và cho chúng tiếp xúc với cuộc sống, như những người thầy thực tế về những lề lối, phẩm cách, và biết xa lánh rượu. Nếu chúng ta làm như vậy, sự thay đổi sẽ diễn ra nhanh chóng, và trong vài năm sẽ không còn những phòng bar, vì không còn người nào thèm muốn thứ đồ uống độc hại ấy nữa!”

“Phương châm của ông, thưa ông bạn, sẽ không có mấy giá trị trong quá nhiều trường hợp, nếu sự cám dỗ luôn mời mọc con em chúng ta hầu như trong mỗi bước đi của cuộc đời. Hàng nghìn người đã sa chân, và hàng nghìn người giờ đây đang sắp sa vào đó. Con ông và con tôi đều không được bảo đảm an tòan. Chúng ta không thể biết được ngày nào hoặc giờ nào chúng có thể nhượng bộ và đầu hàng trước sự lôi kéo, và bước chân vào con đường sa ngã rộng mở. Và liệu chúng ta có đủ khôn ngoan khi ủy thác cho một số người làm cái công việc xấu xa là khuyến khích người ta kiếm lợi từ việc làm sa ngã và hủy hoại con em chúng ta hay không? Sự lưỡng lự trước một số ý kiến mơ hô về quyên tự do trong lúc mối nguy đang lơ lửng trên đầu chúng ta đang giết chết những người thân yêu và đẹp đẽ nhất của chúng ta, thưa ông! Trong lúc ta trì hõan công việc ngăn lại cơn lũ đang tàn phá những gia đình đẹp đẽ nhất của chúng ta, thì làn nước đen đang đến gân chính cổng nhà ta”.

Có một vẻ nhấn mạnh đáng chú ý được thốt ra trong câu nói cuối cùng của người đàn ông, và tôi không ngạc nhiên trước vẻ mặt lo âu, kích động của ông ta.’

“Ngài muốn nói điều gì vậy?” người đàn ông kia hỏi.

“Đơn giản là con của ông cũng đang bị nguy hiểm như con của người khác”.

“Và chỉ vậy thôi sao?”

“Người ta đã thấy chúng, tầm về khuya, trong quán “Lưỡi liềm và bó lúa”.”

“Ai nói vậy?”

“Tôi đã thấy chúng đến đó hai lần trong tuần qua”, người đàn ông đáp.

“Lạy Chúa, không!”

“Đó là sự thật, ông bạn ạ! Còn ai được an tòan nữa? nếu chúng ta che giấu nó đi, hậu quả sẽ đến đâu nếu con của chính chúng ta sẽ sa ngã vào đó?”

“Con tôi đến quán trọ ư?” người đàn ông thốt lên, vẻ bực dọc “Làm sao tôi có thể tin được? ngài có nhầm không?”

“Không. Những gì tôi kể với ông là xác thực. Và nếu chúng đi đến đó thì…”

Người đàn ông dừng lại không nói hết câu, nhưng sau đó ông ta bỗng trở nên sổi nổi.

“Chúng ta đang bắt đầu gặt hái những gì mà mình đã gieo trồng” ông ta nói và quay sang phía tôi trong khi người bạn của ông ta đã bối rối rời văn phòng. “Như tôi đã cảnh báo với họ từ ban đầu, điều đó đang xảy ra. Việc thiếu một quán trọ tốt đã được nhắc đi nhắc lại như một trong những lý do chính của sự đơn điệu ở Cedarville, và khi Slade mở quán “Lưỡi liềm và bó lúa”, ông ta đã nhận được những lời tán dương. Người đàn ông vừa mới ra khỏi đây cũng từng không tiếc lời ca ngợi người chủ quán là dám nghĩ dám lạm nhất là khi việc xây lên quán trọ mới đó đã làm cho giá đất quanh khu phố tăng lên, và tài sản của ông ta đã tăng lên vài trăm dollar. Quả thật, có lúc một số người đã nghĩ rằng Simon Slade sẽ mang lại sự thịnh vượng cho mọi người ở Cedarville. Nhưng mọi lợi lộc chỉ là sự tăng giá bất động sản chút ít, một hạt cát đối với cả quả núi, nếu so sánh với những băng hoại về đạo đức sau đó”.

Tôi đồng ý với quan điểm đó, vì chính tôi cũng đã được chứng kiến quá đủ để có cùng một kết luận.

Tối hôm ấy khi đang ngồi trong phòng bar của quán, ngay khi đèn vừa được thắp lên, tôi nhận ra người đàn ông có con được cho là đã đến quán bar này, người đã tham gia cuộc đối thọai trê, lặng lẽ bước vào và lo lắng nhìn quanh phòng. Ông ta không nói gì với ai, và sau khi yên tâm rằng người mà ông ta tìm không có ở đây, ông ta đi ra.

“Điều gì khiến ông ta đến đây, lạ nhỉ?” Slade lẩm bẩm, nửa nói với mình, nửa nói với Matthew, người phục vụ quầy bar.

“Tôi cho rằng ông ta tìm mấy cậu con trai” người phục vụ quầy bar trả lời.

“Tôi nghĩ, mấy cậu đó đã đủ lớn để biết tự bảo vệ bản thân”.

“Hẳn vậy” Matthew trả lời.

“Tối nay họ đã đến đây chưa?”

“Chưa”.

Trong lúc họ nói chuyện với nhau, hai thanh niên mà tôi đã thấy đêm hôm trước và đã được đón tiếp với những dấu hiệu và sự coi trọng đặc biệt hơn những người khách khác, bước vào.

“John” tôi nghe thấy Slade nói nhỏ với một trong hai người. “Ông già cậu va ở đây ra”.

“Không!” cậu thanh niên nhìn có vẻ giật mình, lúng túng.

“Đó là sự thật. Bởi vậy, cậu nên tránh đi”.

“Ông ấy muốn gì?”

“Tôi không biết”.

“Ông ấy đã nói gì?”

“Không nói gì cả. Ông ấy chỉ bước vào, nhìn quanh rồi đi ra”.

“Mặt ông ấy tối sầm, như đám mây trong cơn dông vậy” Matthew nhận xét.

“Phòng số bốn có còn trống không?”

“Còn”.

“Đem lên cho chúng tôi một chai rượu và mấy điếu cigar. Khi Bill Harding và Harry Lee đến, hãy bảo họ tìm chúng tôi ở đấy”.

“Được rồi” Matthew nói. “Và giờ hãy làm theo lời khuyên và tránh đi”.

Hai thanh niên vội vã rời phòng. Họ vừa đi khỏi, tôi thấy người đàn ông lúc nãy lại bước vào với bộ mặt lo lắng, khiến mọi người trong phòng đều chú ý. Ông ta đang đi tìm con. Một lần nữa, ông ta lại lo âu nhìn khắp phòng, và tỏ ra thất vọng. Lúc ông ta bước vào, Slade đã đi ra.

“Tối nay John và Wilson có đến đây không?” ông ta đi tới quầy bar và hỏi Matthew.

“Họ không có ở đây” Matthew trả lời lảnh tránh.

“Nhưng chúng đã có ghé đây không?”

“Họ có thể đã đến đây, tôi mới chỉ có mặt sau bữa ăn tối cách đây một lát”.

“Tôi cho rằng mình đã nhìn thấy chúng vào đây chỉ một vài giây trước”.

“Họ không có ở đây, thưa ngài.” Matthew lắc đầu và nói vẻ kiên quyết.

“Ông Slade đâu?”

“Ở đâu đó trong nhà”.

“Tôi muốn mời ông ấy đến đây”.

Matthew đi ra, nhưng sau đó quay lại ngay và thông báo rằng không tìm được người chủ quán ở đâu.

“Ông đảm bảo mấy đứa thanh niên đó không ở đây chứ?”

“Ông cũng thấy đó, thưa ông Harrison!”

“Hay là chúng đang ở trong phòng khách?”

“Sang đó thử xem, thưa ngài”. Matthew lạnh lùng đáp.

Người đàn ông đi qua cửa dẫn sang phòng khách, nhưng liền quay lại ngay.

“Không có ở đấy à?” Matthew hỏi. Người đàn ông lắc đầu. “Tôi không nghĩ rằng ông sẽ tim được họ ở đây” người phục vụ quầy bar nói tiếp.

Ông Harrison – như Matthew đã gọi ông ta – đứng đó suy nghĩ bối rối trong mấy phút. Ông ta không thể nhầm rằng đã thấy mấy đứa con mình đi vào quán, nhưng giờ lại không thấy chúng ở đây. Ông cảm thấy rất lúng túng. Hồi lâu sau ông ngồi xuống một chiếc ghế ở một góc xa khuất của phòng bar, rõ ràng là có ý chờ để gặp được hai đứa con mà ông ta đang tìm nếu như chúng bước vào. Ông ta ngồi đó chưa lâu, thì có thêm hai thanh niên đi vào, sự xuất hiện của họ đã lập tức thu hút được sự chú ý của ông ta. Hai thanh niên đi đến quầy bar để gọi rượu. Trong lúc Matthew đặt chiếc bình rượu cổ thon trước mặt họ, người phục vụ quầy bar cúi người qua mặt quây và nói thầm câu gì đó.

“Ở đâu?” một câu hỏi được thốt lên với vẻ ngạc nhiên, và cả hai người thanh niên liếc nhìn quanh phòng lo lắng. Hai thanh niên bắt gặp ánh mắt của ông Harrison đang chăm chú nhìn họ. Nhìn cung cách uống rượu của hai thanh niên, tôi thấy họ có vẻ không được thoải mái.

“Con người nhiễu sự ấy làm gì ở đây thế?” tôi nghe một trong hai người thì thào.

“Ông ta đi theo mấy cậu con trai, dĩ nhiên rồi”.

“Họ đã đến chưa?”

“Đều an tòan cả.” Matthew nháy mắt trả lời.

“Trong phòng số 4 chứ?”

“Ừ, cả rượu và cigar, tất cả đang chờ các cậu”.

“Tốt”.

“Tốt hơn là các cậu không nên đi qua phòng bar. Ông già của các cậu ấy đang bực bội. Ông ấy có phần nghi ngờ rằng họ đang ở trong nhà này. Tốt hơn là hãy đi ra phố, rồi quay lại và đi vào qua lối hành lang”.

Hai thanh niên làm theo lời khuyên đó và lập tức đi ra, ánh mắt của Harrison nhìn theo họ đi ra ngoài.

Trong gần nửa giờ, ông Harrison ngồi yên ở vị trí đó để quan sát được gần gì diễn ra xung quanh. Tôi sẽ rất sai lầm nếu không nhận thấy rằng, trước lúc rời cái vũng lầy của sự sa ngã này, ông ta đã hoàn toàn không thỏa mãn với những gì mà luật pháp đã làm đối với vấn đề hạn chế rượu. Thậm chí, tôi cho rằng, nếu ông ta có quyền trong tay trong vòng một giờ trên khắp cả tiểu bang sẽ không còn một cửa hàng nào được phép tiếp tục bán rượu nữa. Cú “gậy ông đập lưng ông” vừa diễn ra đã khiến ông ta được mở mắt trước thực chất của vấn đề.trong lúc ông ta còn đang có mặt ở phòng bar thì anh chàng Hammond xuất hiện. Ánh mắt của cậu ta có vẻ giận dữ và kích động. Đầu tiên, cậu ta gọi rượu brandy, và uống ừng ực như một người đã bị khát trong một thời gian dài.

“Green ở đâu?” tôi nghe cậu ta hỏi trong lúc để ly lên mặt quầy.

“Không thấy ông ấy xuất hiện từ sau bữa tối” Matthew trả lời.

“Ông ấy ở trong phòngriêng à?”

“Có thể lắm”.

“Thẩm phán Lyman đã đến đây tối nay chưa?”

“Rồi. Ông ấy phát biểu ở đây trong nửa giờ phản đối đảng có quan niệm hạn chế rượu, như thường lệ, và sau đó” Matthew hất đầu về phía cửa dẫn sang phòng khách.

Hammond đi về phía cửa đó, lúc đó, nhìn quanh phòng, cậu ta bắt gặp cái nhìn chăm chú của ông Harrison – cái nhìn lập tức khiến cho cậu ta phải dừng bước. Quay lại quầy bar, và cúi đầu qua mặt quầy, cậu ta hỏi Matthew:

“Vì sao ông ta đến đây?”

Matthew nháy mắt đầy ý nghĩa.

“Để tim mấy đứa con trai à?”

“Đúng vậy”.

“Họ đang ở đâu?”

“Trên gác”.

“Ông ta có nghi ngờ điều đó không?”

“Tôi không thể biết được. Nếu không nghĩ rằng họ giờ đang ở đây, thì ông ta đang chờ họ đến”.

“Họ có biết rằng ông ta đang tìm họ không?”

“Ồ có chứ”.

“Tất cả đều an tòan chứ?”

“Như ở trong két sắt vậy. Nếu cậu muốn gặp họ, hãy gõ cửa phòng số 4”.

Hammond đứng yên dựa người vào quầy trong vài phút rồi, không nhìn lại về phía ông Harrison đang ngồi, cậu ta đi qua cửa dẫn ra phố. Liền sau đó, ông Harrison ra về.

Cũng như đêm hôm trước, cảm thấy ghê tởm với những lời lẽ rẻ tiền, ô uế và tục tĩu không ngừng được tuôn ra, tôi rời chỗ đang ngồi trong phòng bar để ra ngòai trời cho thoáng. Bầu trời không có một gợn mây và vầng trăng gần như đã tròn đầy chiếu sáng khắp nơi bằng thứ ánh sáng rực rỡ hơn ngày thường. Tôi ngồi chưa lâu ở ngoài hiên nhà, thì cũng người đàn bà ấy, người đã có những việc làm khiến tôi chú ý hôm trước, lại xuất hiện và đi chầm chậm, lần từng bước, rõ ràng là để quan sát được rõ hơn. Lúc đến đối diện với ngôi nhà, bà ta dừng lại trong chốc lá, giống như tối hôm trước, rồi vừa tiếp tục nhìn vào quán vừa đi tiếp dọc theo phố cho đến khi khuất tầm mắt.

“Một người mẹ đáng thương!” tôi lại nhủ thầm khi nhìn thấy hình ảnh người phụ nữ đó một lần nữa. Bà ta chậm rãi đi tới, và giờ đã tới gần ngôi nhà. Sự tò mò kích thích mạnh tâm trí tôi, khiến tôi không thể kìm nổi ý muốn được nói chuyện với bà, và thế là tôi từ trong mái hiên bước ra. Người đàn bà có vẻ giật mình và lùi lại mấy bước.

“Bà đang tìm ai?” tôi hỏi một cách lịch sự.

Người đàn bà đang đứng trong tư thế được ánh trăng chiếu sáng cả khuôn mặt, cho thấy rõ mọi nét mặt. Bà ta đã qua cái thời xuân sắc từ lâu, và trên khuôn mặt của bà có những đường nét từng trải và đau khổ. Tôi thấy cặp môi bà mấp máy, nhưng phải một lát sau tôi mới nghe được lời nói.

“Ông có nhìn thấy con trai tôi tối nay không? Người ta bảo rằng nó đến đây”.

Tâm trạng của bà ta, được thể hiện trong giọng nói, đã khiến tôi thấy ớn lạnh khắp người. Tôi hiểu rằng đầu óc của người phụ nữ này đã trở nên lẩn thẩn. Tôi trả lời.

“Không, thưa bà. Tôi không thấy cậu ta”.

Giọng tôi có vẻ đáng tin cậy đối với bà ta vì bà ta tiến đến gần, và cúi nghiêng mặt về phía tôi.

“Một nơi thật đáng sợ!” bà ta thì thào, giọng khàn khàn. “và người ta bảo rằng nó đến đây. Thằng bé tội nghiệp! Nó thật là khác trước”.

“Đúng là một nơi tồi tệ” tôi nói. “Hãy đi đi” – và tôi bước về phía bà ta – “đi đi, tốt hơn là bà hãy tránh xa nó càng nhanh càng tốt”.

“Thế nhưng nếu nó có ở đây” bà ta trả lời, không nhúc nhích “tôi có thể cứu được nó, ông biết mà”.

“Tôi tin chắc bà sẽ không tìm được cậu ấy đâu, thưa bà” tôi thúc giục. “Có lẽ cậu ấy đang ở nhà rồi”.

“Ồ không, không!” và bà ta buồn bã lắc đầu. “Nó không bao giờ về nhà sau quá nửa đêm. Tôi ước gì có thể nhìn thấy được bên trong phòng bar. Tôi tin rằng nó đang ở đó”.

“Nếu bà cho tôi biết tên, tôi sẽ đi vào và tìm cậu ấy”.

Sau giây lát lưỡng lự, bà ta trả lời:

“Tên nó là Willy Hammond”.

Cái tên được thốt ra từ môi của người mẹ, với giọng buồn bã và âu yếm đến cảm động, đã khiến tôi giật thót người, gần như run lên.

“Nếu cậu ấy có mặt ở trong nhà, thưa bà” tôi nói một cách chắc chắn “tôi sẽ gặp cậu ấy giúp bà”. Rồi tôi rời người phụ nữ và đi vào phòng bar.

“Ông cho biết tôi có thể tìm gặp được cậu Hammond ở phòng nào?” Tôi hỏi người phục vụ quầy bar. Ông ta nhìn tôi tò mò, nhưng không trả lời. Câu hỏi được đưa ra khá bất ngờ cho ông ta.

“Trong phòng của Harvey Green à?” tôi hỏi tiếp.

“Tôi không rõ. Theo tôi biết, cậu ấy không ở trong nhà. Tôi thấy cậu ấy đi ra ngòai cách đây khoảng nửa giờ”.

“Phòng của Green số mấy?”

“Số 11” ông ta trả lời.

“Ở mặt trước ngôi nhà phải không?”

“Đúng thế!”

Tôi không hỏi thêm, mà đi đến phòng số 11, và gõ cửa. Nhưng không thấy ai trả lời. Tôi lắng nghe, nhưng không thể nhận thấy có tiếng động nào, dù là nhỏ nhất, ở bên trong. Tôi lại gõ cửa to hơn. Nếu tai tôi không nhầm, thì đã có tiếng tiền kim lọai rơi loảng xoảng. Vẫn không thấy có tiếng nói hay hành động nào đáp lại.

Tôi thất vọng. Căn phòng có người đang ở bên trong, tôi tin vậy. Chợt nhớ đến lời kể về những tia sáng được nhìn thấy qua rèm cửa của phòng này, tôi xuống dưới nhà và đi ra ngoài phố. Ngay phía trước nhà, tôi nhìn thấy cái bóng vật vờ của người đàn bà. Bà ta vẫn quanh quẩn trước nhà, và lại vừa mới đi qua lần nữa. Ngước nhìn lên ô cửa phòng, mà giờ tôi biết là của Green, thì thấy rõ ràng có ánh sáng đang chiếu qua tấm rèm bị rách. Quay vào trong nhà, tôi đi lên phòng số 11. Lần này tôi gõ cửa rất kiên quyết và đã nghe có tiếng người nói.

“Muốn gì thế?” câu nói từ bên trong phát ra. Tôi biết đó là giọng của Harvey Green.

Tôi càng gõ cửa mạnh hơn. Nghe có những tiếng động vội vã cùng những tiếng nói rì rầm trong giây lát, rồi cửa phòng hé mở ra và được giữ chặt bởi Green, thân hình ông ta lấp kín khe cửa đang mở, khiến tôi không thể nhìn được vào trong phòng. Nhìn thấy tôi, mặt hắn cau có tối sầm lại.

“Ông muốn gì?” hắn hỏi giọng gay gắt.

“Hammond có ở đây không? Nếu có, cậu ấy có người đợi dưới nhà”.

“Không, cậu ấy không có ở đây” hắn trả lời ngay. “Vì sao ông đi tìm cậu ấy ở đây, hả?”

“Từ thực tế, tôi cho rằng sẽ tìm thấy cậu ấy trong phòng ông “ tôi cứng giọng trả lời.

Green sắp sập cửa lại trước mặt tôi, thì có một người nào đó đặt bàn tay lên vai hắn và nói với hắn điều gì đó mà tôi nghe không rõ.

“Ai muốn gặp cậu ấy?” hắn hỏi tôi.

Mừng rơn, vì chắc hẳn Hammond đang ở trong phòng, tôi nói to hơn:

“Mẹ cậu ấy”.

Những lời nói đó như một câu “Vừng ơi mở ra” cho căn phòng. Cánh cửa đột nhiên bị đẩy bật mở, và với khuôn mặt tái nhợt, người thanh niên đã đối diện với tôi.

“Ai nói rằng mẹ tôi đang ở dưới nhà?” cậu ta hỏi.

“Tôi từ chỗ bà ấy đến đây để tìm cậu” tôi nói. “Cậu sẽ thấy bà ấy ở ngoài đường, đang đi lại trước quán trọ”.

Gần như bằng một cú nhảy, cậu ta lao qua tôi và băng xuống cầu thang chỉ với mấy sải chân. Lúc cánh cửa còn mở, tôi nhìn thấy nogài Green và Hammond, còn có người chủ quán và thẩm phán Lyman. Không cần kể đến lá bài còn lộn xộn trên mặt bàn ngay cạnh, cảnh tụ tập của những con người này cũng đã cho tôi biết họ đang làm gì trong căn phòng đó.

Để nhanh chóng thoát khỏi tình huống khó xử, tôi đi theo Hammond. Tôi gặp Hammond ở ngoài hiên, kh cậu ta từ ngoài đường vào nhà.

“Ngài đã lừa tôi” cậu ta nói một cách lạnh lùng vẻ đe dọa.

“Không” tôi trả lời. “Những điều tôi đã nói với cậu là rất thực. Nhìn xem! Bà ấy kia rồi”.

Chàng thanh niên nhảy tới, và dừng trước mặt người phụ nữ, chỉ cách mấy bước.

“Mẹ! Ôi mẹ! Sao mẹ lại đến đây?” Hammond kêu lên, hạ thấp giọng, trong khi nắm lấy cánh tay bà, rồi đứng cách xa ra. Cậu ta nói – không thô bạo, cũng không tức giận – mà với vẻ kính trọng xen lẫn nửa trách móc – và với vẻ âu yếm thể hiện rõ.

“Ồ Willy! Willy!” tôi nghe người đàn bà trả lời. “Có nó nns rằng con đến đây ban đêm, và mẹ không thể yên lòng. Ôi, họ giết con mất! Mẹ biết họ sẽ làm vậy. Đừng! Ôi…”

Tôi không nghe được gì thêm, mặc dù giọng nói van nài của bà vẫn vọng đến tai tôi. Vài giây lát sau họ đã đi khuất.

Gần hai giờ sau, khi tôi đang đi lên phòng mình, thì gặp một người đàn ông đi lướt qua bên cạnh. Tôi nhìn theo anh ta, và nhận ra người đó là chàng trai Hammon. Cậu ta đang đi đến phòng của Harvey Green.

Đánh máy:tumbleweed
Nguồn: tumbleweed - vnthuquan - Thư viện Online
Nhà xuất bản Công An Nhân Dân
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 19 tháng 11 năm 2011