THẤT THẬP NHỊ HUYỀN MƯU 1. Lùi để tiến tới 2. Hành động bí mật 3. Chủ động quyền biến (72 mưu của Quỷ Cốc tiên sinh)-1. Lùi để tiến tới
“Người giỏi dùng binh trong thiên hạ xưa nay tất phải biết lượng định quyền biến, phải biết phân biệt nặng nhẹ, mạnh yếu.”
Những bậc tướng tài sáng suốt thường không ngại việc chủ động rút lui để tránh né khi quân địch mạnh, tạm lùi lại để chờ thời cơ khác thuận lợi hơn cho việc tấn công. Đó là mưu “lùi để tiến tới”.
Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam chói lọi tấm gương sáng những cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược vào thế kỷ thứ 13, đời nhà Trần. Không chỉ là thể hiện lòng yêu nước, quyết chiến đến cùng, mà quân dân ta trong những cuộc kháng chiến này còn bộc lộ rõ những mưu lược sáng suốt đáng cho đời sau học hỏi. Chủ trương đúng đắn nhất của các nhà chỉ huy quân sự trong các cuộc kháng chiến này chính là chủ trương biết “lùi để tiến tới”.
Tháng 8 năm 1284, đại quân của nhà Nguyên gồm hàng chục vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy kéo sang nước ta để thực hiện ý đồ xâm lược đã từng thất bại một lần trước đó.
Chỉ huy quân đội ta lúc bấy giờ là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Cùng với sự nhất trí của triều đình nhà Trần, ông đã nhanh chóng nhận ra ngay sức mạnh hùng hổ ban đầu của địch quân và thấy rõ sự bất tương phân về lực lượng so với quân ta. Trong trường hợp này, địch mạnh ta yếu, nếu chủ trương quyết tử ngay rõ ràng là một chủ trương dại dột và chắc chắn phải dẫn đến thảm bại.
Vì vậy, Hưng Đạo Vương đã hạ lệnh cho các tướng sĩ phải nghiêm chỉnh chấp hành quân lệnh, vừa đánh vừa lui để bảo tồn lực lượng, không ai được tự ý quyết tử.
Quân ta tự biết sự thua kém về lực lượng của mình nên vừa đánh vừa lùi, cuối cùng rút khỏi Thăng Long và lui vào Thanh Hóa. Quân địch ráo riết truy tìm bộ chỉ huy của ta nhưng không kết quả, đành phải rút về đóng ở Thăng Long.
Chủ trương sáng suốt của quân ta còn thể hiện một cách cụ thể trong nội dung chiếu lệnh mà vua Trần cho công bố trước khi rút khỏi Thăng Long. Trong đó ghi rõ: “Các quận huyện trong nước khi có giặc đến phải cố sức đánh, nếu sức không chống nổi thì cho được phép tránh vào rừng núi, không được đầu hàng.”
Cho phép quân đội của mình được quyền tránh giặc, ngày nay có thể coi là chuyện thường, nhưng vào thời đó quả là một thái độ sáng suốt ít người có được. Ta vẫn biết trong quân lệnh ngày xưa, tướng thua trận trở về đều phải nộp đầu chịu tội, bất kể là thua vì lý do gì. Bởi người ta cho rằng đánh nhau với giặc bao giờ cũng phải liều chết để thắng, kẻ bại trận trở về bị cho là “tham sống sợ chết” và không xứng đáng cầm quân nữa.
Ngoài ra, triều đình còn hạ lệnh cho dân chúng cũng rút lui khỏi các vùng bị giặc tiến đánh, thực hiện chủ trương “đồng không nhà trống”, những gì không mang theo được đều phải phá hủy, không để lọt vào tay giặc.
Với chủ trương đó, quân giặc không thể cướp lấy lương thực từ trong nhân dân, mà phải sống chủ yếu nhờ vào số lương thực của chúng đưa sang. Ngoài ra, quân dân ta ở các địa phương thường xuyên tập kích, đánh lẻ vào các điểm đóng quân của chúng, làm cho bọn chúng lúc nào cũng phải căng thẳng đề phòng không hề được ngơi nghỉ, và tổn thất quân số dần dần.
Những điều đó đều nằm trong dự tính của các nhà chỉ huy quân ta. Hơn thế nữa, với sự khác biệt về khí hậu, phong thổ, quân Nguyên dần dần mắc phải nhiều chứng bệnh thời khí cũng như suy giảm sức khỏe nghiêm trọng. Đến giữa năm 1285 thì sách lược của quân ta đạt đến hiệu quả cao điểm và thời cơ chín mùi cho việc phản công.
Ngày 7 tháng 6 năm 1285, đại quân do vua Trần Nhân Tông đích thân chỉ huy từ Thanh Hóa kéo ra đánh tan quân địch ở Trường Yên. Ngày 10 tháng 6, Thoát Hoan rút chạy, đến sông Như Nguyệt (sông Cầu) thì gặp quân của Trần Quốc Toản truy đuổi đến. Giặc hốt hoảng không đánh mà chạy thẳng đến sông Thương, Vạn Kiếp thì lọt ổ phục kích của đại quân Hưng Đạo Vương. Giặc bắt cầu phao qua sông nhưng chưa kịp sang hết thì bị quân ta xông ra đánh. Chúng tranh nhau qua sông làm đứt cầu phao, rơi xuống nước chết đuối rất nhiều.
Thoát Hoan tháo chạy thoát thân, đến Vĩnh Bình (Lạng Sơn) lại gặp quân ta phục kích. Hết nước, vị danh tướng này của quân giặc phải chui vào trốn trong ống đồng để quân lính khiêng chạy thoát thân.
Quân của Toa Đô và Ô Mã Nhi từ Thanh Hóa kéo ra vì chưa biết tin Thoát Hoan đại bại, lại bị quân ta đón đánh thua một trận tơi bời ở Tây Kết. Toa Đô mất đầu, Ô Mã Nhi thoát thân chạy ra biển. Quân đội xâm lược hùng mạnh của giặc Nguyên giờ đây bị đánh đến tả tơi không còn dám nghĩ đến chuyện kháng cự mà chỉ có chạy và chạy... Số tù binh bị ta bắt giữ lên đến hơn 50.000 người.
Nhờ nhận định chính xác tình thế, đánh giá đúng tương quan lực lượng và quyết định đúng đắn sách lược “lùi để tiến tới”, quân dân ta đã làm nên kỳ tích là chiến thắng một quân đội viễn chinh được xem là hùng mạnh hơn mình rất nhiều lần.
Tháng 12 năm 1287, quân Nguyên lại tiếp tục thực hiện ý đồ xâm lược lần thứ ba. Chúng chia quân thành ba đạo, từ ba mặt cùng tiến đánh vào nước ta. Ngoài hai mũi tiến công bằng bộ binh và kỵ binh từ Quảng Tây, Vân Nam sang, lần này chúng còn tạo thêm một mũi tiến công bằng thủy binh từ ngoài biển theo sông Bạch Đằng tiến vào.
Đạo quân chủ lực, vẫn do Thoát Hoan chỉ huy, tiến vào vùng Lạng Sơn và đạo quân từ Vân Nam theo sông Hồng tiến sang do tướng A Lỗ chỉ huy. Trên cả hai mặt trận này, quân ta theo kế hoạch của Trần Quốc Tuấn vừa chặn đánh để kiềm chế và tiêu hao sinh lực địch, vừa tổ chức rút lui để bảo toàn lực lượng.
Thủy binh địch do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp thống lĩnh cùng với đoàn thuyền tải lương do Trương Văn Hổ phụ trách từ Khâm Châu (Quảng Đông) vượt biển tiến về phía cửa sông Bạch Đằng.
Thủy binh ta do phó tướng Trần Khánh Dư chỉ huy, chặn đánh ở một số nơi nhưng bị tổn thất phải rút lui. Ô Mã Nhi chủ quan chỉ huy đội chiến thuyền vượt lên trước, theo sông Bạch Đằng tiến nhanh về Vạn Kiếp để hội quân với Thoát Hoan, còn đoàn thuyền tải lương thì tiến vào sau. Trần Khánh Dư liền bố trí quân mai phục ở Vân Đồn (Cẩm Phả, Quảng Ninh) đón đánh tiêu diệt toàn bộ đoàn thuyền tải lương gồm 70 chiếc của địch.
Chiến thắng Vân Đồn là một đòn giáng mạnh vào kế hoạch xâm lược của quân Nguyên, làm thất bại ngay từ đầu kế hoạch hậu cần của chúng, dồn quân địch vào những khó khăn không thể khắc phục được về mặt lương thực.
Tại Vạn Kiếp, Thoát Hoan dừng quân lại một thời gian để xây dựng vùng này thành một khu quân sự trọng yếu. Một bộ phận binh lực được lệnh ở lại đấy, chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu và lập trại chứa lương thực. Sau đó, Thoát Hoan mới tiến về phía Thăng Long.
Quân ta vừa đánh cản địch, vừa tiếp tục rút lui.
Cuối tháng 1 năm 1288, quân Nguyên vượt sông Hồng tiến công thành Thăng Long. Triều đình và quân ta lại tạm thời rút khỏi kinh thành, lui dần đến vùng hạ lưu sông Hồng.
Thoát Hoan huy động quân thủy, bộ đuổi theo ráo riết, nhưng không làm sao bắt được vua Trần và bộ chỉ huy quân ta. Chúng điên cuồng quật lăng mộ vua Trần Thái Tông, đốt phá làng mạc, tàn sát nhân dân.
Nhưng tội ác của giặc càng chất cao thì quân dân ta càng sôi sục chí căm thù và càng siết chặt hàng ngũ dưới lá cờ cứu nước của triều đình.
Không tiêu diệt được quân chủ lực của ta, không bắt được bộ máy đầu não chỉ huy cuộc kháng chiến, chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của địch đã bắt đầu bị phá sản. Thoát Hoan đành phải trở về Thăng Long, lo củng cố vùng chiếm đóng. Nhưng khắp nơi, nhân dân cất giấu lương thực, thực hiện sách lược “vườn không nhà trống” để bao vây, cô lập quân thù và triệt mất nguồn cướp lương thực của chúng. Chẳng bao lâu, nạn thiếu lương thực trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đời sống của hàng chục vạn quân xâm lược.
Trong lúc đó, các đội dân binh có mặt ở mọi nơi phối hợp chặt chẽ với các lực lượng phân tán của quân đội triều đình, không ngừng tập kích các doanh trại và căn cứ của địch, chặn đánh các cuộc hành quân của chúng. Những hoạt động du kích có hiệu quả của quân dân ta làm cho địch quân bị tiêu hao dần và phạm vi chiếm đóng của chúng cũng bị thu hẹp lại.
Do kinh nghiệm thất bại lần trước, Thoát Hoan thấy đại bản doanh của hắn ở Thăng Long đang đứng trước nguy cơ bị bao vây và bị tiến công.
Tháng 3 năm 1288, hắn ra lệnh đốt phá kinh thành Thăng Long rồi rút quân về Vạn Kiếp.
Nhưng khu căn cứ Vạn Kiếp mà hắn đã tốn hao bao công sức để xây dựng cũng không còn là nơi an toàn của chúng nữa.
Lương thiếu, quân số hao hụt, tinh thần binh sĩ rã rời, lại thêm bị quân ta tập kích liên tục, nguy cơ diệt vong ngày càng đến gần. Thoát Hoan lo sợ và tức tối như phát điên, nhưng cũng không tìm được con đường thoát nào khác ngoài cách sớm rút lui để khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn. Hắn quyết định chia quân làm hai đạo, theo hai đường thủy, bộ rút về nước. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy đạo quân thủy được lệnh rút lui trước bằng đường sông Bạch Đằng. Thoát Hoan tự chỉ huy đạo quân bộ theo đường Lạng Sơn về nước.
Nhưng mọi hành động của quân thù dù tính toán tinh khôn đến đâu cũng không thoát khỏi tai mắt của nhân dân và sự xét đoán tinh tường của nhà quân sự thiên tài Trần Quốc Tuấn. Những cạm bẫy lớn, những mạng lưới diệt thù đã được giăng sẵn trên các ngã đường rút lui của chúng. Quân dân ta quyết không cho quân thù trốn thoát, bắt chúng phải đền tội ngay trên đất nước mà chúng đã gây ra biết bao tang tóc, đau thương và tàn phá.
Sông Bạch Đằng được Trần Quốc Tuấn chọn làm một trận địa mai phục đại qui mô để chôn vùi đạo quân thủy của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp.
Đầu tháng 4 năm 1288, đạo quân thủy của địch bắt đầu rút, trên bờ có kỵ binh đi hộ tống. Quân dân ta phá cầu đường và chặn đánh liên tục, buộc đội kỵ binh phải quay trở lại Vạn Kiếp. Đoàn thuyền của Ô Mã Nhi nối đuôi nhau thận trọng theo sông Đá Bạc tiến ra sông Bạch Đằng.
Sáng ngày 9 tháng 4 đoàn thuyền địch bắt đầu tiến vào sông Bạch Đằng.
Một đội chiến thuyền của ta được lệnh tiến lên khiêu chiến rồi giả thua rút chạy. Ô Mã Nhi liền ra lệnh đuổi theo. Lúc bấy giờ, nước thủy triều đang xuống. Khi đoàn thuyền địch vừa lọt vào trận địa mai phục thì quân ta bất ngờ tiến công mạnh vào đội hình của địch, dồn chúng về phía bãi cọc đã chôn sẵn dưới đáy sông. Chiến thuyền của địch vừa to vừa nặng, lại đang lao nhanh theo dòng nước nên khi đâm phải những cọc gỗ có bịt sắt, một số bị tan vỡ và bị đánh đắm [1]
Ngay lúc quân địch đang rối loạn thì quân thủy, quân bộ của ta từ hai bên bờ đổ ra đánh rất quyết liệt. Quân ta lao những bè lửa đã chuẩn bị sẵn vào đốt cháy thuyền giặc. Đại quân của vua Trần cũng kịp thời đến tiếp ứng. Cuộc chiến đấu xảy ra ác liệt từ mờ sáng đến chiều tối. Với ý chí quyết chiến quyết thắng và tinh thần chiến đấu dũng mãnh, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân thủy của địch. Các tướng giặc như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ..., đều bị bắt sống. Quân ta thu được hơn 400 chiến thuyền và vô số quân giặc bị vùi xác dưới đáy sông Bạch Đằng.
Đạo quân bộ của Thoát Hoan rút lui qua vùng Lạng Sơn, tuy không bị tiêu diệt hoàn toàn nhưng cũng không thoát khỏi số phận thất bại thảm hại. Trên đường rút chạy của chúng, quân dân ta đã chiếm lĩnh các địa hình lợi hại, chặn đánh liên tục, những hố bẩy ngựa đã quật ngã vô số kỵ binh địch, từ trong rừng thẳm, núi cao, những mũi tên độc luôn luôn phóng về phía kẻ thù. Biết bao hành động yêu nước cùng với những sáng tạo phong phú của quần chúng đã góp phần quan trọng vào việc tiêu diệt sinh lực địch. Quân Nguyên bị truy kích, tập kích liên tục và bị tổn thương nặng nề, xác giặc nằm rải rác ra trên đoạn đường dài gần trăm dặm. Thoát Hoan phải mở con đường máu mới chạy thoát được về nước.
Cuộc xâm lược của quân Nguyên bị đập tan hoàn toàn, quân ta toàn thắng.
Một lần nữa, nhờ biết “lùi để tiến tới”, quân dân ta đã đánh tan được một quân đội mạnh hơn mình rất nhiều lần.
Chú thích:
[1] Điều khá lý thú và cũng có thể xem là kỳ lạ ở đây là, cũng trên sông Bạch Đằng, vào năm 938, nghĩa là trước đó 350 năm, dưới sự chỉ huy của Ngô Quyền, quân dân ta cũng đã từng đánh ta quân Nam Hán bằng một chiến thuật tương tự: chôn cọc gỗ bịt sắt dưới đáy sông!
2. Hành động bí mật“Đạo âm [1]của thánh hiền, đạo dương của kẻ ngu, đạo của thánh nhân ẩn giấu rất kỹ.”
Tướng soái khôn ngoan thường tạo nên những cái giả để mê hoặc đối phương, ngấm ngầm hành động để giáng cho đối phương những đòn bất ngờ trí mạng.
Thời Xuân Thu bên Trung Quốc, quan tướng quốc nước Tề là Điền Hòa đem đại tướng là Điền Kỵ và Đoàn Bằng kéo quân thẳng tới phía Nam nước Lỗ. Khi quân Tề và quân Lỗ đóng đồn giáp nhau. Điền Hòa không thấy Ngô Khởi (tướng nước Lỗ) mới mật sai người dò xem Ngô Khởi làm gì, thì thấy Ngô Khởi đang cùng với một người hèn hạ nhất trong đám quân sĩ ấy trải chiếu xuống đất mà ngồi, chia canh cùng ăn.
Sứ giả về báo, Điền Hòa cười mà nói rằng:
- Tướng có tôn nghiêm thì quân mới sợ, quân có sợ thì mới cố sức đánh. Nay Ngô Khởi hành động như thế, còn dùng quân thế nào được. Ta chẳng lo gì!
Điền Hòa lại sai Trương Sửu giả cách sang xin giảng hòa để dò thám xem cách chiến thủ của Ngô Khởi ra làm sao. Ngô Khởi đem quân tinh nhuệ giấu ở phía sau, rồi dàn những quân già yếu ra, lại giả cách cung kính mà tiếp đãi Trương Sửu. Sửu nói:
- Tôi nghe đồn tướng quân giết vợ để cầu tướng, có phải thế không?
Ngô Khởi giả cách sợ hãi mà đáp rằng:
- Tôi dẫu hèn mạt cũng đã học ở cửa Thánh, khi nào dám làm những việc bất nhân tình như vậy! Nội nhân [2] tôi nhân khi mất vì bệnh, lại gặp có việc quân lữ, người ta nghe tin đồn bậy, chứ không phải là thực.
Trương Sửu nói:
- Nếu tướng quân còn nghĩ đến tình họ Điền thì xin cùng với tướng quân giảng hòa.
Ngô Khởi nói:
- Tôi đây là thư sinh, có đâu dám chống nhau với họ Điền, nếu cho giảng hòa thì chúng tôi thật mãn nguyện lắm.
Ngô Khởi mời Trương Sửu ở lại trong quân, uống rượu vui trong ba ngày rồi mới cho về, tuyệt nhiên không nói gì đến việc binh. Khi Trương sửu sắp đi, Ngô Khởi lại dặn đi dặn lại để nhờ Trương Sửu nói hộ cho việc giảng hòa.
Trương Sửu cáo từ lui về. Ngô Khởi tức khắc điều binh khiển tướng, chia làm ba toán quân lên đường theo sau. Điền Hòa được tin Trương Sửu về nói, có ý khinh quân Ngô Khởi là già yếu, không lo gì cả. Bỗng nghe tiếng trống vang rền ở ngoài cửa trận, quân Lỗ thình lình kéo đến. Điền Hòa kinh sợ, ngựa không kịp đóng yên, xe không kịp thắng ngựa, quân sĩ đều náo loạn. Điền Kỵ đem bộ binh ra nghênh chiến. Đoàn Bằng truyền cho quân sĩ sửa soạn tiếp ứng. Chẳng ngờ hai toán quân Lỗ do Tiết Liễu và Thân Tướng chỉ huy ở hai bên tả hữu xông vào giáp chiến. Quân Tề thua to, người chết như rạ. Quân Lỗ đuổi mãi đến đất Bình Lục (đất nước Tề) mới trở về. Lỗ Mục Công bằng lòng lắm, cho Ngô Khởi làm Thượng Khanh.
Điền Hòa trách Trương Sửu về tội làm hỏng việc. Trương Sửu nói:
- Tôi chỉ thấy như thế, nào ngờ bị Ngô Khởi đánh lừa.
Điền Hòa thở dài mà nói rằng:
- Ngô Khởi dùng binh chẳng khác gì Tôn Vũ và Nhương Thư thuở xưa. Nếu nước Lỗ cứ dùng hắn mãi thì nước Tề ta khó yên.
Ngô Khởi với Điền Hòa cả hai đều dụng công giấu cái ý thật của mình. Một bên muốn đánh mà giả vờ đi giảng hòa để dò biết tình thế địch quân. Một bên đang chuẩn bị đánh mà giả ý muốn hòa, đã luyện quân dũng mãnh mà giả cách chỉ có quân già yếu.
Đều là có mưu lược, mà Ngô Khởi mưu sâu hơn, lại thực hiện khéo léo hơn nên đã chẳng bị Điền Hòa che mắt mà ngược lại còn đánh lừa được Điền Hòa để giành chiến thắng.
Chú thích:
[1]Âm là bí mật, sâu kín, ẩn tàng.
[2]Tiếng để gọi người vơ
** 3. Chủ động quyền biến“Sự việc quý ở chỗ mình chủ động, nếu để đối phương giành được thế chủ động thì hỏng.”
Người chủ động mới dành được thế mạnh. Đôi khi phải chủ động bỏ mối lợi nhỏ để tránh được cái hại lớn; chấp nhận cái hại nhỏ để dành mối lợi lớn. Chủ động thì mới có thời gian cân nhắc, tính toán lợi hại, mới sáng suốt trong mọi quyết định. Do đó sẽ thắng lợi.
Trong lịch sử Việt Nam có ghi: “Lý Thường Kiệt chủ động tiến công thành Ung Châu nước Tống”. Đó là một gương sáng về mưu lược “chủ động quyền biến”.
Năm 1072, vua Lý Thánh Tông từ trần, thái tử Càn Đức lên nối ngôi mới có 7 tuổi, tức là vua Lý Nhân Tông. Nhà Tống coi đó là một thời cơ tốt, càng xúc tiến mạnh mẽ việc chuẩn bị xâm lược nước ta.
Âm mưu xâm lược của quân Tống ngày càng rõ ràng. Bên kia biên giới, những căn cứ xâm lược của kẻ thù mà trung tâm là thành Ung Châu, đang như những mũi dao nhọn chĩa vào thân thể của dân tộc ta.
Với cương vị Phụ Quốc Thái úy nắm tất cả binh quyền trong triều, Lý Thường Kiệt là người trực tiếp đảm nhiệm sứ mệnh tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống xâm lược.
Lý Thường Kiệt thấy không thể ngồi yên để quân Tống đến xâm lược mà phải chủ động tiến công trước; đẩy kẻ thù vào thế bị động ngày từ đầu và giành những điều kiện có lợi nhất cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông nói: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc.” Quán triệt tư tưởng tiến công để tự vệ, Lý Thường Kiệt chủ trương tổ chức một cuộc tập kích thẳng sang đất Tống nhằm tiêu diệt các căn cứ xâm lược của kẻ thù, rồi nhanh chóng quay về bố trí phòng thủ đất nước. Mục tiêu của cuộc tấn công là các trại ở biên giới của quân Tống, cửa biển Khâm Châu, Liêm Châu và chủ yếu là thành Ung Châu.
Có khoảng từ 6 đến 10 vạn quân được huy động cho cuộc tập kích táo bạo đó. Lực lượng này chia làm hai đạo quân, theo hai đường thủy, bộ tiến công sang đất Tống. Đạo quân bộ gồm quân lính các dân tộc thiểu số, do các tù trưởng chỉ huy.
Đạo quân này tập trung sẵn ở một số địa điểm dọc theo đường biên giới phía Đông Bắc, rồi bất ngờ tiến công các trại biên giới của quân Tống. Đạo quân chủ lực do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, tập trung ở châu Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh) dùng thuyền vượt biển đổ bộ lên chiếm lấy Khâm Châu, Liêm Châu rồi cùng phối hợp tiến công thành Ung Châu.
Chiến dịch tập kích được Lý Thường Kiệt bố trí một cách chủ động, linh hoạt, thể hiện sâu sắc tư tưởng chỉ đạo chiến lược tích cực, lấy tiến công để tự vệ, lấy chiến tranh ngăn ngừa chiến tranh.
Ngày 27 tháng 10 năm 1075, cuộc tiến công của quân ta bắt đầu bằng trận đánh vào trại Cổ Vạn. Đạo quân của các tù trưởng thiểu số chia thành nhiều mũi vượt biên giới tiến đánh các trại quân Tống. Đạo quân chủ lực của Lý Thường Kiệt vượt biển đánh chiếm cửa biển Khâm Châu, Liêm Châu. Quân ta tiến công bất ngờ, mãnh liệt.
Trong khi tiến vào đất Tống, Lý Thường Kiệt lại ra sức tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Trung Quốc. Ông sai yết bảng khắp nơi, tuyên bố cho nhân dân Trung Quốc biết rõ mục đích của cuộc tiến công là để tự vệ; để ngăn chặn âm mưu xâm lược đã được sắp xếp từ lâu của chính quyền nhà Tống chứ không có mục đích phá hại dân thường.
Trên các mặt trận, quân Tống bị thất bại liên tiếp. Hai đạo quân ta từ hai hướng hình thành hai gọng kìm tiến lên vây hãm thành Ung Châu.
Ung Châu là một thành lũy kiên cố. Quân Tống do tướng Tô Giám chỉ huy lại kiên quyết cố thủ để chờ tiếp viện từ phía Bắc xuống. Cuợc chiến đấu ở thành Ung Châu diễn ra rất gay gắt, quyết liệt. Quân ta khép chặt vòng vây và tiến công dữ dội, trong lúc một bộ phận binh lực theo lệnh Lý Thường Kiệt tiến lên mai phục ở ải Côn Lôn (phía bắc Ung Châu) để ngăn chặn và tiêu diệt viện binh địch. Quả nhiên, triều đình nhà Tống sai Trương Thủ Tiết mang quân cứu viện đến và bị quân ta chặn đánh tan tành vào ngày 11 tháng 2 năm 1076.
Sau 42 ngày công phá rất dũng mãnh và mưu trí, ngày 1 tháng 3 năm 1076, quân ta chiếm được thành Ung Châu. Lý Thường Kiệt ra lệnh phá thành trì và lấy đá lấp sông để ngăn chặn sự vận chuyển của địch bằng đường thủy. Ông lại cho quân tiến đến Tân Châu để tiêu hủy các kho tàng lương thực vùng Tả Giang của quân Tống.
Mục tiêu của cuộc tập kích đã hoàn thành thắng lợi. Tháng 4 năm 1076 quân ta nhanh chóng rút về nước, trong lúc vua tôi nhà Tống đang bàn bạc cách đối phó và chưa kịp điều đại quân xuống phía Nam.
(Trích Lịch sử Việt Nam)