4. Biết trước thời thế 5. Chiêu hiền đãi sĩ
“Dự đoán thời thế để quyết định lợi hại, quyền biến.”
Một thống soái hoặc tướng lĩnh nắm được thời thế là điều trọng yếu. Họ phải hành động lặng lẽ một khi hết thảy chưa ai chú ý, đến lúc thời cơ chín mùi thì họ ra tay lập tức làm nên chuyện lớn.
Vào năm Kiến An thứ 12 tức là năm Đinh Hợi.
Bên Trung Hoa có Khổng Minh vừa 27 tuổi ở tại Long Trung được Lưu Huyền Đức (Lưu Bị) mời ra giúp nước. Ngồi trong lều tranh Khổng Minh phân tích thời thế cho Lưu Bị nghe:
- Từ khi Đổng Trác phản nghịch đến nay, hào kiệt thiên hạ đều nổi dậy. Như Tào Tháo, thế còn kém Viên Thiệu mà đánh được Thiệu, thì mới biết có thiên thời mà cũng có cả mưu người nữa.
Ngày nay Tháo đã cầm được quân trăm vạn, đem thiên tử ra làm bình phong, thì không có thể nào mà tranh lại được với hắn nữa.
Tôn Quyền giữ đất Giang Đông đã trải được ba đời, đất thì hiểm mà dân thì phục, thế thì Giang Đông cũng chỉ dùng mà giúp ta. Duy chỉ còn Kinh Châu, phía Bắc có sông Hán, sông Miện, lại thu hết được lợi các biển Nam. Phía Đông thì giáp với Ngô Hội, phía Tây thì giáp với Ngô Thục, chỗ ấy là đất dụng võ, không phải người chủ giỏi không giữ nổi. Ấy là trời để dành cho tướng quân đó. Tướng quân có ý gì đến đó không? Lại còn Ích Châu, đất thật hiểm trở, ruộng cấy nghìn dặm, quả thật là một cái kho của trời. Cao Tổ ngày xưa cũng nhân nơi ấy mà dựng thành nghiệp đế. Nay Lưu Chương là chủ nước ấy, ngu si hèn yếu, dân nhiều nước giàu mà không biết trị, bao nhiêu kẻ sĩ người hiền trong nước chỉ mong mỏi được vua sáng mà thờ. Tướng quân là dòng dõi nhà vua, tín nghĩa lại tỏ ra bốn biển, biết thu dùng anh hùng, kiệt sĩ, cầu người hiền như kẻ khát nước. Như vậy, nếu mà tướng quân gồm được cả châu Kinh, châu Ích, giữ lấy nơi hiểm trở. Mé Tây thì hòa với rợ, vỗ yên các nước Di, Việt; ngoài thì kết với Tôn Quyền, trong thì sửa sang chính trị. Đợi khi nào thiên hạ có biến lớn, bấy giờ chỉ sai một thượng tướng đem quân Kinh Châu, tiến sang Uyển Lạc; tướng quân thì thân đem quân Ích Châu ra đất Tân Xuyên, thì chắc thiên hạ thế nào lại không đem giỏ cơm bầu nước đến đón tướng quân? Nếu được như thế thì nghiệp lớn mới nên, nhà Hán mới đứng dậy được. Giả sử mà Lượng (Gia Cát Lượng) có giúp được tướng quân thì đó là cái chủ nghĩa của Lượng đó. Tướng quân thử xét xem.
Nói xong, sai đứa trẻ đem một tấm địa đồ treo ra giữa nhà rồi trỏ vào mà bảo Lưu Bị rằng:
- Đây là địa đồ 54 Châu ở Tây Xuyên. Tướng quân mà muốn thành nghiệp bá, thì phía Bắc phải nhường cho Tào Tháo chiếm lấy thiên thời, phía Nam phải nhịn cho Tôn Quyền giữ lấy địa lợi. Tướng quân thì phải cố giữ lấy nhân hòa, trước lấy Kinh Châu làm nơi ở, sau lấy Tây Xuyên để dựng cơ nghiệp, cho thành cái thế chân vạc, rồi sau mới toan tính được Trung Nguyên.
Lưu Bị nghe nói chấp tay tạ mà rằng:
- Nghe lời nói Tiên sinh, Bị thực như được dãi gan mở óc, khác nào được người gạt đám mây đen cho thấy trời xanh. Nhưng Lưu Biểu ở Kinh Châu, Lưu Chương ở Ích Châu cùng là tôn thất nhà Hán. Bị sao nỡ cướp lấy?
Khổng Minh nói:
- Đêm qua tôi đã xem thiên văn, biết rằng Lưu Biểu cũng không thọ được mấy nổi nửa. Còn Lưu Chương thì không phải chủ lập được cơ nghiệp, về sau cũng thuộc về Tướng quân mà thôi.
Lưu Bị nghe nói cúi đầu lạy tạ.
Khổng Minh chưa ra khỏi nhà mà biết hết được tình thế thiên hạ chia ba về sau thế nào. Đó là biết trước thời thế vậy.
5. Chiêu hiền đãi sĩ“Dùng mưu kế, không bằng tư, tư không bằng kết, kết sao cho chặt.”
Có nhiều cách “kết”. Có nội kết, ngoại kết, sinh kết, tử kết. Trương Lương kết thân với Hạng Bá, đó là nội kết. Trương Nghi, Tô Tần kết giao, ấy là ngoại kết. Lấy đức và ân huệ đãi người, mưu phúc cho dân, mưu lợi cho nước, ấy là sinh kết. Tuyên dương người chết, ủy lạo thân thuộc của người đã hy sinh, ấy là tử kết.
Lưu Huyền Đức biết Khổng Minh là bậc kỳ tài trong thiên hạ, nên đã ba lần lặn lội đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp nước.
Đi đến lần thứ ba Lưu Huyền Đức mới gặp được Khổng Minh. Huyền Đức nói hết lời thỉnh cầu nhưng Khổng Minh vẫn từ chối.
Lưu Huyền Đức (Lưu Bị) năn nỉ mãi:
- Như tiên sinh đây là đại trượng phu, trong mình có cái tài yên được dân, thực là cầm ở trong tay cái trách nhiệm việc thiên hạ. Trước nữa là Bị đến kêu nài để tiên sinh giúp cho một người ngu, sau nữa Bị xin tiên sinh trông đến cái khổ ải của trăm họ, mà chịu phiền bỏ chốn rừng rú, nhịn hưởng thanh nhàn mà cứu đời... Bị tuy rằng tiếng hiền đức kém, nhưng xin tiên sinh chớ nỡ bỏ. Tiên sinh hạ cố mà ra núi dạy bảo thì Bị xin chắp tay cúi đầu mà nghe lời dạy.
Khổng Minh vẫn còn từ chối, cứ một niềm:
- Lượng tôi lâu nay đã quen tay cày cuốc, nản việc đời lắm, xin để cho tôi ở yên đây.
Lưu Bị mời mãi không được, khóc mà rằng:
- Tiên sinh không thương lấy Bị đã vậy, còn sinh dân bao nhiêu vạn vạn khổ ải, tiên sinh há chẳng rủ lòng thương đến hay sao?
Bị vừa nói vừa chảy hai hàng nước mắt, thấm ướt cả vạt áo.
Khổng Minh bây giờ mới tin Lưu Bị thật lòng bèn nói rằng:
- Tướng quân đã có bụng không bỏ, thì Lượng chẳng lẽ không đem hết lòng khuyển mã ra mà thờ.
Lưu Bị mừng lắm, lập tức gọi Quan Công, Trương Phi vào lạy. Khi đem dâng các đồ lễ vật vàng, lụa đủ thứ, Khổng Minh nhất định không lấy tý gì. Lưu Bị phải van lạy mãi, gọi là tấm lòng thành, không dám cho là đồ lễ đại hiền. Bấy giờ Khổng Minh mới chịu nhận.
Đêm hôm ấy cả ba anh em Lưu, Quan, Trương cùng ngủ trong nhà Gia Cát Lượng.
Hôm sau Gia Cát Quân đi xa về, Khổng Minh gọi em mà dặn rằng:
- Ta chịu ân Lưu hoàng thúc [1]ba lần đã hạ cố, không thể từ chối được. Em phải ở nhà chăm việc cày bừa, không được bỏ hoang đồng ruộng. Đợi bao giờ anh thành công nghiệp, anh lại sẽ về đây ở.
Ba anh em Lưu, Quan, Trương từ biệt Gia Cát Quân rồi cùng với Khổng Minh về Tân Giả.
Lưu Bị đãi Khổng Minh vào bậc thầy, ăn cùng một bàn, ngủ cùng một chiếu, cả ngày chỉ bàn việc lớn trong thiên hạ.
Chú thích:
[1] Lưu bị là chú của vua nên gọi là Hoàng Thúc