← Quay lại trang sách

Chương 2

Cái tát đó chính là án tử hình của vợ tôi.

Hai ngày sau, khi Henry tới tìm tôi ngoài ruộng ngô mới trồng, tôi nhận thấy thằng bé đã lại trở nên yếu đuối. Tôi không thấy thất vọng hay ngạc nhiên; những năm tháng nằm giữa thời thiếu niên và tuổi trưởng thành là những năm tháng đầy giông tố, và những người đang trải qua quãng thời gian này luôn bị quay cuồng như chiếc chong chóng gió một số nông dân miền Trung Tây vẫn hay cắm lên nóc những silo đựng ngũ cốc của họ.

“Chúng ta không thể,” thằng bé nói. “Bố, bà ấy đang Sai Lầm. Và Shannon nói những người chết trong Sai Lầm sẽ rơi xuống Địa Ngục.”

Quỷ tha ma bắt nhà thờ Hội Giám lý và Hội Huynh đệ trẻ Giám lý đi, tôi thầm nghĩ... nhưng Kẻ Ma Quái chỉ mỉm cười. Trong mười phút tiếp theo, chúng tôi nói chuyện về tôn giáo giữa đồng ngô xanh mướt trong khi những đám mây đầu hè - những đám mây tuyệt vời nhất, bồng bềnh như những chiếc thuyền buồm - chậm chạp trôi qua trên đầu chúng tôi, kéo theo sau những cái bóng của chúng như những chiếc đuôi. Tôi giải thích với thằng bé rằng, không những không đẩy Arlette xuống Địa Ngục, chúng tôi sẽ đưa vợ tôi lên Thiên Đường. “Vì,” tôi nói, “một người đàn ông hay đàn bà bị sát hại sẽ không chết vào kỳ hạn của Chúa mà của Con Người. Ông ta... hay bà ta... đã bị cướp đi mạng sống trước khi ông ta... hay bà ta...kịp chuộc tội, vì thế tất cả các tội lỗi của họ cần phải được tha thứ. Khi con suy nghĩ theo hướng đó, mỗi vụ sát nhân đều là Cánh cổng dẫn tới Thiên đường.”

“Nhưng còn chúng ta thì sao, bố? Chúng ta sẽ không phải xuống Địa Ngục chứ?”

Tôi chỉ về phía những cánh đồng xung quanh, đầy sức sống mới mạnh mẽ. “Làm sao con có thể nói vậy được, khi con tận mắt thấy Thiên Đường khắp xung quanh chúng ta? Thế mà mẹ con đã định kéo chúng ta rời xa nó cũng kiên quyết như thiên thần với thanh kiếm rực lửa trong tay đuổi Adam và Eve khỏi Vườn Địa đàng.”

Thằng bé nhìn tôi trân trối, đầy bối rối. Tối tăm. Tôi ghét phải bôi đen con trai mình theo cách như thế, song lúc đó một phần trong tôi đã tin, và tới giờ vẫn tin rằng không phải tôi đã làm vậy với thằng bé, mà là vợ tôi.

“Và thử nghĩ xem,” tôi nói. “Nếu bà ấy tới Omaha, mẹ con sẽ tự đào cho mình một cái huyệt còn sâu hơn dưới Địa Ngục. Nếu bà ấy mang con theo, con sẽ thành một thằng bé thành thị...”

“Con sẽ không bao giờ chịu!” Thằng bé kêu lên to đến nỗi lũ quạ đang đậu trên hàng rào vỗ cánh vụt bay lên và lượn vòng ra xa lên trời cao như những mảnh giấy cháy thành than.

“Con còn trẻ và con sẽ thay đổi,” tôi nói. “Con sẽ quên hết những thứ này... con sẽ học những kiểu cách thành thị... và bắt đầu đào huyệt chôn vùi chính mình.”

Nếu con trai tôi đáp trả bằng cách nói những kẻ sát nhân không có bất cứ hy vọng nào được đi cùng các nạn nhân của chúng lên Thiên Đường, hẳn tôi đã lâm vào thế bí. Nhưng có thể vốn hiểu biết về tôn giáo của con trai tôi không rộng đến thế, mà cũng có thể thằng bé không muốn nghĩ tới điều đó. Và liệu có Địa Ngục thật không, hay chúng ta đã tự tạo ra nó cho mình trên trái đất này? Khi nhìn lại tám năm vừa qua của đời mình, tôi nghiêng về lựa chọn thứ hai.

“Bằng cách nào?” con trai tôi hỏi. “Khi nào?”

Tôi nói cho thằng bé biết.

“Và chúng ta có thể tiếp tục sống ở đây sau đó chứ?”

Tôi trả lời là có thể.

“Và mẹ sẽ không bị đau đớn chứ?”

“Không,” tôi nói. “Sẽ rất nhanh thôi.”

Con trai tôi dường như có vẻ hài lòng. Dẫu vậy, chuyện đó rất có thể đã không xảy ra, nếu không vì chính Arlette.

Chúng tôi chọn thời điểm vào một buổi tối thứ Bảy, vào khoảng giữa một tháng Sáu cũng đẹp trời như bất cứ tháng Sáu nào khác tôi còn nhớ được.Arlette thỉnh thoảng từng uống một ly rượu vang vào các buổi tối mùa hè, nhưng lúc đó hầu như thói quen này không còn được duy trì nữa. Có một lý do rất hợp lý cho việc này. Cô ta thuộc về loại người không thể uống hai ly mà không uống bốn, rồi sáu ly, rồi cả chai. Và thêm một chai nữa, nếu chai nữa đó sẵn có. “Tôi cần phải rất cẩn thận, Wilf. Tôi quá thích nó. Thật may cho tôi, sức mạnh ý chí của tôi đủ mạnh.”

Tối hôm đó, chúng tôi ngồi trước cửa, ngắm nhìn những tia sáng cuối cùng còn nấn ná lại trên các cánh đồng, lắng nghe những tiếng dế gáy reeeee ủ ê thật buồn ngủ. Henry đang ở trong phòng riêng. Con trai tôi hầu như không động đến bữa tối, và trong khi Arlette cùng tôi ngồi trước cửa trên hai chiếc ghế xích đu giống hệt nhau có đệm ngồi, tôi nghĩ tôi đã nghe thấy một tiếng động khe khẽ như tiếng ọe khan. Tôi nhớ từng nghĩ rằng khi thời khắc hành động điểm, thằng bé hẳn sẽ không thể chịu đựng qua được chuyện này. Mẹ nó sẽ thức dậy với tâm trạng cáu bẳn vào sáng hôm sau với một “dư vị” khó chịu và không hề biết cô ta đã đến sát tới mức nào việc không bao giờ được nhìn thấy thêm một buổi bình minh Nebraska nữa. Dẫu vậy, tôi tiếp tục tiến tới theo kế hoạch. Bởi vì tôi giống như một trong những con búp bê Nga[4] đó? Có thể lắm. Có thể tất cả mọi người đều thế cả. Bên trong tôi là Kẻ Ma Quái, nhưng bên trong Kẻ Ma Quái là một Người Hy Vọng. Gã này đã chết đâu đó trong khoảng giữa năm 1922 và 1930. Kẻ Ma Quái, sau khi đã gây ra xong tổn thất, đã biến mất. Không có những mưu toan và tham vọng của hắn, cuộc sống trở nên trống rỗng.

Tôi mang chai rượu theo ra ngoài cửa, nhưng khi tôi tìm cách rót đầy chiếc ly trống rỗng của vợ tôi, cô ta đưa tay lên che. “Anh không cần phải làm tôi say để có được thứ anh muốn. Tôi cũng muốn nó. Tôi đang thấy ngứa.” Cô ta dạng hai chân ra và đưa một bàn tay lên váy để chỉ ra cảm giác ngứa nằm ở đâu. Bên trong cô ta có một Người Đàn Bà Thô Tục - thậm chí là một Con Điếm - và rượu vang luôn làm cô ta trở nên buông thả.

“Dẫu sao cũng hãy uống thêm một ly nữa,” tôi nói. “Chúng ta có một thứ để ăn mừng.”

Vợ tôi nhìn tôi đầy cảnh giác. Thậm chí một ly rượu vang duy nhất cũng khiến đôi mắt cô ta ướt rượt (như thể một phần con người cô ta đang khóc than vì lượng rượu vang nó muốn và không thể có được), và trong ánh hoàng hôn trông chúng có màu cam, giống như những ô kính của một chiếc đèn bão có thắp nến ở trong.

“Sẽ không có vụ kiện tụng nào hết,” tôi nói với cô ta, “và cũng sẽ không có ly dị. Nếu Công ty Farrington có thể mua 80 mẫu đất của anh cùng với 100 mẫu của bố em, cuộc cãi vã của chúng ta coi như chấm dứt.”

Lần đầu tiên, và cũng là duy nhất trong cuộc hôn nhân sóng gió của chúng tôi, cô ta thực sự há hốc miệng ra. “Anh đang nói gì vậy? Có phải là điều tôi nghĩ anh đang nói không? Đừng đùa với tôi, Wilf!”

“Anh không đùa,” Kẻ Ma Quái nói. Hắn ta nói với vẻ chân thành đến nao lòng. “Henry và anh đã nói chuyện với nhau rất nhiều về chuyện này...”

“Đúng là hai bố con anh lúc nào cũng dính lấy nhau như hình với bóng vậy,” cô ta nói. Vợ tôi bỏ bàn tay đang che phía trên chiếc ly, và tôi tận dụng cơ hội rót đầy rượu vang vào đó. “Luôn ở trong nhà chứa cỏ khô hay ngồi trên đống gỗ, hay ngả đầu vào nhau ngoài cánh đồng sau nhà. Tôi đoán tất cả chuyện này có liên quan tới Shannon Cotterie.” Thêm một lần khịt mũi và một cái lắc đầu. Nhưng tôi nghĩ lúc đó trông vợ tôi cũng có vẻ đăm chiêu nữa. Cô ta nhâm nhi ly rượu vang thứ hai. Hai ngụm từ chiếc ly thứ hai, như thế vợ tôi vẫn có thể đặt ly xuống và quay về giường. Nếu là bốn ngụm, sẽ đồng nghĩa với việc tôi có thể đưa cho cô ta cả chai. Đó là chưa nhắc đến hai chai nữa tôi đã để sẵn cạnh.

“Không,” tôi nói. “Hai bố con anh không hề nói về Shannon.” Mặc dù tôi từng thỉnh thoảng trông thấy Henry nắm tay cô bé khi hai đứa sánh bước trên quãng đường dài hai dặm tới trường Hemingford Home. “Hai bố con anh đã trò chuyện về Omaha. Thằng bé muốn tới đó sống, anh đoán vậy.” Sẽ không ổn nếu cố đi quá xa, không ổn khi chỉ mới sau có một ly rượu vang duy nhất kèm them hai ngụm từ ly thứ hai. Arlette của tôi, cô ta về bản chất là một người đa nghi, luôn xăm xoi tìm kiếm một nguyên nhân sâu xa hơn. “Ít nhất cũng là thử qua xem có phù hợp hay không. Và Omaha cũng không quá xa Hemingford...”

“Không. Không thể như thế. Như tôi đã nói với cả hai bố con anh cả nghìn lần rồi.” Vợ tôi nhấp rượu vang, và thay vì đặt cái ly xuống như lúc trước, cô ta giữ lại nó trên tay. Ánh sáng màu cam trên đường chân trời phía tay đã sẫm lại thành một thứ màu lục pha đỏ tía như thể đang bùng cháy lên trong cái ly.

“Nếu là St. Louis thì lại khác.”

“Tôi đã từ bỏ ý tưởng đó,” vợ tôi nói. Tất nhiên, điều đó có nghĩa là cô ta đã nghĩ qua khả năng đó và thấy nó không ổn thỏa. Sau lưng tôi, hiển nhiên rồi. Tất cả đều diễn ra sau lưng tôi ngoại trừ chuyện tay luật sư của công ty. Và hẳn vợ tôi cũng đã làm chuyện đó sau lưng tôi nốt, nếu cô ta không muốn dùng nó làm cây gậy để gây áp lực với tôi.

“Em nghĩ họ sẽ mua cả lô đất không?” tôi hỏi. “Toàn bộ 180 mẫu?”

“Làm thế nào tôi biết được?” Thêm một ngụm nữa. Ly thứ hai đã cạn. Bây giờ, nếu tôi nói với vợ tôi rằng cô ta đã uống đủ và tìm cách lấy cái ly khỏi tay cô ta, chắc chắn vợ tôi sẽ từ chối giao lại nó.

“Em biết, anh không nghi ngờ gì về chuyện đó,” tôi nói. “Vì 180 mẫu đất đó cũng giống như chuyện về St. Louis. Em đã dò hỏirồi.”

Cô ta liếc mắt nhìn tôi... rồi bật cười gằn thật khó nghe. “Có thể là thế.”

“Anh chắc chúng ta có thể lùng tìm một ngôi nhà ở ngoại ô thành phố,” tôi nói. “Nơi ít nhất cũng có một hai cánh đồng trong tầm mắt để ngắm nhìn.”

“Và tại đó anh sẽ ngồi dán mông xuống một chiếc ghế xích đu treo trước cửa cả ngày, để mặc cho vợ anh làm việc kiếm sống chứ gì? Nào, hãy rót đầy vào. Nếu chúng ta đang uống mừng, vậy hãy uống mừng thôi.”

Tôi rót đầy cả hai ly. Về phần ly của tôi, chỉ phải rót thêm tí chút, vì tôi cũng mới uống có một ngụm.

“Anh nghĩ anh có thể tìm việc làm dành cho thợ cơ khí. Sửa chữa ô tô, xe tải, nhưng chủ yếu là máy nông nghiệp. Nếu anh có thể giữ cho chiếc Farmall cũ kỹ kia hoạt động” - tôi cầm ly chỉ về phía cái bóng tối đen của chiếc máy kéo đang đậu sau nhà kho - “thì anh đoán rằng anh có thể làm cho bất cứ thứ gì hoạt động được.”

“Và Henry đã thuyết phục anh tới chỗ suy nghĩ như thế.”

“Thằng bé thuyết phục anh rằng sẽ tốt hơn nhiều với anh nếu nắm lấy cơ hội được sống hạnh phúc trong thành phố thay vì ở lại đây một mình, một viễn cảnh chắc chắn rất ảm đạm.”

“Cậu con trai bày tỏ lý lẽ và ông bố lắng nghe! Sau bấy nhiêu lâu! Tạ ơn Chúa!” Vợ tôi uống cạn ly và đưa ly ra yêu cầu thêm. Cô ta nắm lấy cánh tay tôi và cúi lại gần tới mức tôi có thể ngửi thấy mùi nho chua lòm phả ra từ hơi thở của cô ta. “Tối nay anh có thể sẽ có được thứ mà anh thích đó, Wilf.” Cô ta thè cái lưỡi đỏ sậm ra áp lên giữa môi trên. “Cái thứ xấu xa đó.”

“Anh đang rất nóng lòng mong đợi nó đây,” tôi nói. Nếu tôi có thể toàn quyền làm theo ý mình, một chuyện thậm chí còn xấu xa hơn sắp sửa xảy ra trên chiếc giường chúng tôi đã cùng chia sẻ mười lăm năm qua.

“Hãy gọi Henry xuống đây,” vợ tôi nói. Giọng cô ta đã bắt đầu líu lại. “Tôi muốn chúc mừng nó vì cuối cùng cũng đã nhìn ra lẽ phải.” (Tôi đã đề cập tới chuyện động từ “cảm ơn” không hề tồn tại trong vốn từ vựng của vợ tôi chưa nhỉ? Có thể là chưa. Có thể cho tới tận lúc này tôi vẫn chưa cần phải làm điều đó). Đôi mắt vợ tôi chợt sáng lên khi một ý nghĩ lóe lên trong đầu cô ta. “Chúng ta sẽ rót cho nó một ly rượu vang! Nó đã đủ lớn rồi!” Cô ta thúc khuỷu tay vào tôi như một trong những ông già các vị vẫn thấy ngồi trên các băng ghế kê hai bên bậc cấp tòa án, huyên thuyên kể cho nhau nghe những câu chuyện đùa tục tĩu. “Nếu chúng ta có thể làm mềm lưỡi nó ra một chút, có khi tôi và anh còn biết liệu nó đã làm gì với Shannon Cotterie... cái con ranh con đó, nhưng quả là con bé có mái tóc thật đẹp, điều này thì tôi thừa nhận.”

“Trước hết hãy uống một ly nữa đã,” Kẻ Ma Quái nói.

Vợ tôi uống thêm hai ly nữa, và thế là vừa vặn cạn chai. (Chai thứ nhất.) Tới lúc ấy, cô ta đang hát bài “Avalon” bằng giọng hát rong khá nhất của mình, và đảo mắt lúng liếng cũng với bộ dạng khá nhất của một ả hát rong mà cô ta có thể thể hiện ra được. Một trải nghiệm thật kinh khủng khi phải chứng kiến, và còn kinh khủng hơn khi phải lắng nghe.

Tôi vào bếp lấy thêm một chai rượu vang nữa, và thầm tính rằng đã đến thời điểm thích hợp để gọi Henry. Mặc dù, như tôi đã nói ở trên, tôi không đặt nhiều hy vọng lắm vào thằng bé. Tôi chỉ có thể thực hiện được ý định của mình nếu con trai tôi đồng ý làm tòng phạm, và trong trái tim mình tôi tin thằng bé sẽ do dự trước việc phải làm khi thời gian cho việc nói suông đã hết và khoảnh khắc dành cho hành động thực sự tới. Nếu đúng thế, chúng tôi sẽ chỉ đơn thuần đưa vợ tôi về giường. Và đến sáng, tôi sẽ nói với cô ta rằng tôi đã đổi ý về chuyện bán trang trại bố tôi để lại.

Henry tới, và không có dấu hiệu nào trên khuôn mặt trắng bệch, thiểu não của nó cho thấy chút hy vọng thành công nào. “Bố, con không nghĩ con có thể,” con trai tôi thì thầm. “Đó là mẹ.”

“Nếu con không thể, thì có nghĩa là con không thể,” tôi nói, và trong những lời nói này không hề có chút gì của Kẻ Ma Quái. Tôi đành cam chịu; chuyện gì xảy ra thì cũng đã xảy ra. “Dù sao đi nữa, lần đầu tiên sau nhiều tháng mẹ con cũng được vui vẻ. Say mềm, nhưng vui vẻ.”

“Không chỉ hơi chếnh choáng thôi sao? Bà ấy say mềm ư?”

“Đừng ngạc nhiên; được tự do thoải mái theo ý thích của mình là điều duy nhất từng làm bà ấy vui vẻ. Tất nhiên 14 năm sống cùng mẹ con hẳn đã phải đủ dài để dạy cho con biết điều đó.”

Cau mày, con trai tôi áp một tai vào cửa trong lúc người phụ nữ đã sinh ra nó thể hiện bằng giọng hát chói tai nhưng đúng từng chữ bài “McGee Bẩn Thỉu”. Henry cau mày khi nghe thấy bài hát thô tục của tửu quán đó, có lẽ vì phần điệp khúc (“Nàng sẵn sàng giúp hắn nhét nó vào/Vì đó lại là McGee Bẩn Thỉu”), mà nhiều khả năng hơn thế là do cách vợ tôi lè nhè nhả từng từ ra. Henry đã tuyên thệ trong một kỳ cắm trại của Hội Huynh đệ trẻ Giáo lý diễn ra vào kỳ cuối tuần của Ngày Lễ Lao Động năm trước. Tôi khoan khoái chứng kiến cú sốc của thằng bé. Khi những đứa trẻ tuổi vị thành niên không quay cuồng như chong chóng gió giữa cơn gió lốc, chúng sẽ cứng nhắc chẳng kém gì các vị Thanh giáo.

“Mẹ con muốn con cùng tới với bố mẹ và uống một ly rượu vang.”

“Bố, bố biết con đã hứa với Chúa là con sẽ không bao giờ uống rượu.”

“Với mẹ con, con sẽ phải chấp nhận làm như thế. Bà ấy muốn uống mừng. Chúng ta sẽ bán mọi thứ và chuyển tới sống ở Omaha.”

“Không!”

“À... chúng ta sẽ biết thôi. Chuyện này thực sự phụ thuộc vào con đấy, con trai. Đi ra ngoài cửa đi.”

Bà mẹ chếnh choáng đứng dậy khi cô ta nhìn thấy con trai, đưa hai cánh tay quàng lấy quanh hông thằng bé, áp sát người cô ta tới mức hơi quá chặt vào người nó, và phủ kín khuôn mặt nó với những cái hôn thái quá. Những cái hôn có mùi chẳng mấy dễ chịu, khiến con trai tôi nhăn mặt. Kẻ Ma Quái, trong lúc ấy, lại rót đầy rượu vang vào ly của cô ta, vốn lúc ấy đã lại cạn sạch.

“Cuối cùng tất cả chúng ta lại ở cùng nhau! Những người đàn ông của tôi đã nhìn ra lẽ phải!” Vợ tôi giơ cao ly lên ra dấu chúc mừng, rồi dốc một phần kha khá rượu trong đó lên ngực mình. Cô ta cười phá lên rồi nháy mắt với tôi. “Nếu anh tử tế, Wilf, lát nữa anh có thể mút chúng ra khỏi vải được.”

Henry nhìn mẹ nó với vẻ bối rối ghê sợ trong lúc cô ta lảo đảo lùi trở lại ghế xích đu, vén váy lên, rồi ngồi lên ghế, thả hai chân sang hai bên. Vợ tôi nhìn thấy vẻ mặt của con trai và bật cười.

“Không cần phải ra vẻ khó tính thế. Tao đã thấy mày với Shannon Cotterie. Con nhóc ranh con, nhưng đúng là nó có mái tóc rất đẹp và khuôn mặt nhỏ nhắn dễ nhìn.” Cô ta uống nốt chỗ rượu vang còn lại rồi ợ lên. “Nếu mày vẫn chưa chạm tay được vào nó, mày quả là một thằng ngốc. Chỉ có điều tốt hơn mày nên cẩn thận. Mười bốn tuổi cũng không phải là quá trẻ để kết hôn đâu. Ngoài kia, ở vùng Trung Tâm, mười bốn tuổi không còn là quá trẻ để kết hôn với em họ của mày.” Cô ta tiếp tục cười phá lên một hồi, rồi lại chìa ly ra. Tôi rót đầy ly từ chai vang thứ hai.

“Bố, mẹ uống đủ rồi đấy.” Henry lên tiếng, đầy vẻ phê phán không kém gì một ông mục sư. Trên đầu chúng tôi, những ngôi sao đầu tiên đã bắt đầu nhấp nháy trong tầm mắt trên khoảng không gian bao la trống rỗng mà tôi đã yêu quý suốt cả cuộc đời mình.

“Ồ, bố không biết nữa,” tôi nói. “In vino veritas[5], đó là những gì Pliny Già[6] từng nói... ở một trong những cuốn sách mà mẹ con luôn dè bỉu.”

“Tay cuốc ruộng cả ngày, mũi chúi vào sách cả đêm,” Arlette nói. “Ngoại trừ khi ông ấy có được thứ gì khác từ tao.”

“Mẹ!”

“Mẹ!” vợ tôi nhại lại giễu cợt, rồi giơ ly của cô ta lên hướng về phía trang trại của Harlan Cotterie, cho dù nó nằm ở quá xa để chúng tôi có thể trông thấy ánh đèn tại đó. Chúng tôi thậm chí cùng không thể nhìn thấy ánh đèn nhà họ cho dù nó có nằm lại gần hơn một dặm nữa, vì bây giờ ngô đã mọc lên khá cao. Khi mùa hè về với Nebraska, mỗi ngôi nhà ở vùng quê trông giống như một con tàu đang rẽ sóng giữa một đại dương mênh mông màu xanh lục. “Xin nâng ly vì Shannon Cotterie và anh chàng nhóc con của cô ta, và nếu cậu con trai của tôi vẫn chẳng biết đầu ti của cô nàng màu gì, thì đó là vì nó là một thằng bé chậm rề rề.”

Con trai tôi không đáp lại, nhưng những gì tôi có thể nhìn thấy trên khuôn mặt tối sầm của nó khiến Kẻ Ma Quái hân hoan.

Vợ tôi quay sang Henry, tóm lấy cánh tay thằng bé, rồi đổ rượu vang lên cổ tay nó. Tảng lờ những tiếng càu nhàu bất bình khe khẽ của con trai mình, nhìn thẳng vào mặt nó với vẻ kiên quyết đột ngột, cô ta nói. “Có điều hãy đảm bảo chắc chắn rằng khi mày nằm xuống cùng với nó ngoài đồng ngô đằng sau chuồng gia súc, mày sẽ không phải là đứa lề mề.” Cô ta gập các ngón tay của bàn tay còn rảnh lại, rồi chĩa ngón tay giữa ra, rồi dùng nó vẽ một vòng trên váy của mình: từ đùi trái qua đùi phải, lên bên phải bụng, qua rốn, sang bụng trái, rồi quay trở lại đùi trái. “Khám phá tất cả những gì mày thích, rồi dùng cái của mày cọ xát quanh chỗ đó cho đến khi nó thấy thật khoái và xì ra, nhưng hãy cố tránh xa chỗ đó nếu không mày sẽ phát hiện ra bị khóa chặt bên trong nó cả đời đấy, giống như bố mẹ mày vậy.”

Con trai tôi đứng bật dậy và bỏ đi, vẫn không nói lấy một lời, và tôi cũng không trách thằng bé. Thậm chí cả với Arlette, đó quả là một màn trình diễn thô bỉ đến cùng cực. Chắc hẳn, con trai tôi đã thấy cô ta biến đổi trước mặt nó từ một người mẹ - một người đàn bà khó chịu nhưng thỉnh thoảng vẫn có những lúc đáng mến - trở thành một ả gái nhà thổ già đời đang dạy cách vào đời cho một khách hàng trẻ tuổi còn thiếu kinh nghiệm. Từng ấy đã đủ tệ hại, song thằng bé thực sự rất có tình cảm với cô bé nhà Cotterie, và chuyện này làm cho tình thế còn tệ hại hơn nữa. Những chàng trai còn quá trẻ không thể không đặt mối tình đầu của họ lên những cái bệ cao vời vợi, và nếu có kẻ nào đó dám cả gan diễu qua và nhổ vào tuyệt phẩm hoàn mỹ đó... cho dù người đó có là mẹ đẻ của anh ta đi chăng nữa...

Tôi thoáng nghe thấy tiếng cửa phòng con trai tôi đóng sầm lại. Cùng tiếng nức nở, rất khẽ thôi nhưng cũng đủ để nghe rõ.

“Em đã làm tổn thương cảm xúc của nó,” tôi nói.

Vợ tôi bày tỏ quan điểm rằng các cảm xúc, cũng như sự công bằng, cũng là chỗ bấu víu cuối cùng của những kẻ yếu đuối. Sau đó cô ta lại chìa ly của mình ra. Tôi rót đầy rượu vang vào ly, biết rõ đến sáng mai cô ta sẽ chẳng còn nhớ gì về những điều đã nói ra (luôn với giả thiết cô ta vẫn còn sống vào lúc đó để đón chào buổi sáng), và sẽ phủ nhận - một cách dữ dội - nếu tôi kể lại cho cô ta biết. Tôi đã từng thấy vợ tôi ở trạng thái say mèm như thế này, nhưng chưa từng chứng kiến lại suốt nhiều năm qua.

Chúng tôi kết thúc chai thứ hai (đúng ra là vợ tôi kết thúc nó) cùng nửa chai thứ ba trước khi cằm cô ta gục xuống bộ ngực loang lổ rượu vang, và cô ta bắt đầu ngáy. Phát ra sau khi đi qua phần cổ họng đang co thắt lại của vợ tôi, những tiếng ngáy đó nghe tựa như tiếng gầm gừ của một con chó xấu tính đang cáu bẳn.

Tôi đưa một cách tay vòng qua sau hai vai cô ta, luồn bàn tay vào nách vợ tôi, và đỡ cô ta đứng dậy. Vợ tôi lầm bầm phản đối, vung một bàn tay sặc sụa mùi khó ngửi lên yếu ớt tát vào tôi. “Để tôi yên. Tôi muốn ngủ.”

“Em sẽ được ngủ,” tôi nói. “Nhưng trên giường của em, chứ không phải ngoài cửa thế này.”

Tôi dìu vợ tôi - loạng choạng và tiếp tục ngáy, một mắt nhắm nghiền, mắt kia mở ra với cái nhìn đờ đẫn - qua phòng khách. Cánh cửa phòng Henry bật mở. Con trai tôi đứng trên ngưỡng cửa, khuôn mặt vô cảm, trông già hơn nhiều so với tuổi của nó. Thằng bé gật đầu với tôi. Chỉ một cử chỉ cúi xuống duy nhất của cái đầu, nhưng nó đã nói cho tôi biết tất cả những gì tôi cần biết.

Tôi đưa vợ về giường, cởi giày cho cô ta, và để mặc cô ta nằm đó ngáy với hai chân giang rộng và một tay vắt ra ngoài đệm. Tôi quay trở ra phòng khách và bắt gặp Henry đang đứng bên chiếc radio mà Arlette đã ép tôi phải mua năm trước.

“Bà ấy không thể nói như thế về Shannon,” thằng bé lẩm bẩm.

“Nhưng mẹ con sẽ nói,” tôi lên tiếng. “Bà ấy là như thế, Chúa đã tạo ra bà ấy như thế.”

“Và bà ấy không thể bắt con phải rời xa Shannon.”

“Cả điều đó nữa, mẹ con cũng sẽ làm,” tôi nói. “Nếu chúng ta để bà ấy tiếp tục.”

“Chẳng lẽ bố không thể... Bố, chẳng lẽ bố không thể thuê luật sư cho mình sao?”

“Theo con liệu bất cứ luật sư nào bố có thể thuê được với số tiền còm cõi bố có trong ngân hàng lại có thể chống lại được những luật sư Farrington sẽ tung ra để chống lại chúng ta không? Bọn họ có sức nặng ghê gớm tại hạt Hemingford; còn bố chẳng có gì để vung lên ngoài chiếc liềm mỗi khi cắt cỏ. Bọn họ muốn có 100 mẫu đất đó, và bà ấy muốn bọn họ có được chúng. Đây là cách duy nhất, nhưng con cần giúp bố. Con có giúp bố không?”

Suốt một hồi lâu con trai tôi không nói gì. Nó cúi gằm đầu xuống, và tôi có thể thấy nước mắt chảy nhỏ giọt từ mắt nó xuống tấm thảm trải sàn. Sau đó, thằng bé khẽ nói, “Có. Nhưng nếu con phải tận mắt chứng kiến nó... con không dám chắc con có thể...”

“Có một cách cho phép con vẫn giúp được bố mà không phải chứng kiến gì. Hãy đi ra nhà kho và lấy một cái bao tải.”

Thằng bé làm đúng như tôi yêu cầu. Tôi đi vào bếp và chọn lấy con dao chặt thịt sắc nhất của vợ tôi. Khi con trai tôi quay về với cái bao tải và nhìn thấy con dao, mặt nó tái nhợt đi. “Liệu nhất thiết có cần đến nó không? Chẳng lẽ bố không thể... với một cái gối...”

“Như thế sẽ quá lâu và đau đớn,” tôi nói. “Bà ấy sẽ chống cự.” Con trai tôi chấp nhận lời giải thích, như thể trước vợ mình tôi đã từng giết cả tá phụ nữ và biết rõ những gì cần phải làm. Nhưng tôi chẳng biết gì hết. Tất cả những gì tôi biết là trong tất cả những kế hoạch nửa vời của mình - hay nói cách khác là những giấc mơ ban ngày nhằm giũ bỏ cô ta - tôi luôn nhìn thấy con dao lúc này tôi đang cầm trong tay. Vậy nên sẽ là con dao đó. Hoặc con dao đó, hoặc không gì hết.

Hai bố con tôi đứng đó trước ánh sáng của những ngọn đèn dầu - ở khu Hemingford Home vẫn chưa có điện lưới, ngoại trừ dùng máy phát, cho tới tận năm 1928 - nhìn nhau, khối im lặng lớn lao của đêm tối tồn tại ngoài kia, giữa vạn vật, chỉ bị phá vỡ bởi tiếng ngáy của vợ tôi. Thế nhưng vẫn còn một sự hiện diện thứ ba nữa trong căn phòng đó: ý chí không thể tránh khỏi của cô ta, thứ tồn tại biệt lập bên ngoài bản thân con người người đàn bà này (tôi nghĩ vào lúc ấy tôi đã cảm nhận được nó; và sau tám năm vừa trải qua, tôi hoàn toàn tin chắc). Đây là một câu chuyện ma, nhưng bóng ma đã ở sẵn đó thậm chí trước khi người đàn bà nó thuộc về chết đi.

“Được thôi, bố. Chúng ta sẽ... chúng ta sẽ gửi bà ấy lên Thiên Đường.” Khuôn mặt Henry bừng sáng trước ý nghĩ này. Vào lúc này, với tôi dường như nó thật gớm ghiếc, nhất là khi tôi nghĩ tới cách mà thằng bé đã kết thúc cuộc đời nó.

“Sẽ nhanh thôi,” tôi nói. Từ khi còn là một cậu nhóc, tôi đã chọc tiết một trăm tám mươi con lợn thịt, và tôi nghĩ sẽ đúng là như thế. Nhưng tôi đã nhầm.

Cho phép tôi thuật lại thật nhanh. Vào những đêm tôi không thể nào ngủ được - và có rất nhiều đêm như thế - cảnh tượng đó lại hiện lên trở đi trở lại, từng nhát đâm, từng tiếng ho sặc, từng giọt máu, một cách chậm rãi đến tột độ, vậy nên hãy cho phép tôi kể lại thật nhanh.

Hai bố con tôi đi vào phòng ngủ, tôi đi trước, cầm trong tay con dao chặt thịt, con trai tôi theo sau với cái bao tải. Chúng tôi bước đi rón rén, nhưng thực ra chúng tôi hoàn toàn có thể vừa đi vừa đánh trống thổi kèn mà cũng không khiến vợ tôi tỉnh giấc. Tôi ra hiệu cho Henry tới đứng bên phải tôi, gần đầu cô ta. Lúc này, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng chiếc đồng hồ báo thức hiệu Big Ben đang tích tắc đều đặn trên chiếc bàn đêm hòa vào tiếng ngáy của vợ tôi, và một ý nghĩ thật kỳ cục chợt xuất hiện trong đầu tôi: hai bố con tôi giống như các bác sĩ đang chầu chực bên giường bệnh của một bệnh nhân quan trọng sắp qua đời. Nhưng tôi nghĩ về mặt nguyên tắc, các bác sĩ túc trực bên giường bệnh của người sắp chết không có cảm giác tội lỗi và sợ hãi như thế.

[4] Loại búp bê gồm nhiều con búp bê to nhỏ khác nhau có thể cho lồng vào nhau được.

[5] Người say nói thật.

[6] Gaius Plinius Secundus, hay Pliny Già (23 - 79), triết gia, nhà quân sự và tư lệnh hải quân của Đế quốc Roma.