← Quay lại trang sách

Chương 12

Đôi Tình Nhân Du Đãng đã được tìm thấy tại nơi ẩn náu cuối cùng của chúng, Shannon bị chết vì viên đạn của tay chủ quán, Henry vì một viên đạn nó tự bắn vào đầu mình. Các thi thể đã được chuyển tới nhà xác Elko để chờ chỉ dẫn. Harlan Cotterie sẽ thu xếp cho con gái ông ta, nhưng sẽ không muốn liên quan gì tới con trai tôi. Tất nhiên là không rồi. Tôi tự mình thu xếp việc đó. Henry tới Hemingford bằng tàu hỏa hôm mười tám tháng Mười hai, và tôi đã đợi sẵn ngoài ga, cùng một cỗ xe tang màu đen từ nhà đòn Anh em Casting. Tôi liên tiếp bị chụp ảnh. Tôi bị hỏi những câu hỏi mà thậm chí tôi không buồn cố trả lời. Những hàng tít trên tờ World-Herald và cả tờ Hemingford Weekly khiêm tốn hơn đều có mặt những từ NGƯỜI BỐ ĐAU KHỔ.

Tuy nhiên, nếu đám phóng viên thấy tôi ở nhà tang lễ, khi cái hòm gỗ thông rẻ tiền được mở ra, chắc hẳn họ đã được chứng kiến sự đau khổ thực sự; hẳn khi đó họ sẽ chuyển sang cụm từ NGƯỜI BỐ GÀO KHÓC. Viên đạn con trai tôi bắn vào thái dương nó khi nó ngồi ôm lấy đầu Shannon trong lòng đã tòe ra khi xuyên qua não và lấy đi một mảnh lớn xương sọ bên trái. Nhưng đó chưa phải là điều khủng khiếp nhất. Hai mắt thằng bé đã biến mất. Môi dưới của nó bị ăn hết, vậy là toàn bộ răng lộ ra hết thành một nụ cười gằn dữ tợn. Mũi thằng bé chỉ còn là một mẩu cụt đỏ lòm. Trước khi vài tay cớm hay người của văn phòng cảnh sát trưởng tìm thấy các thi thể, lũ chuột đã mở tiệc tưng bừng bằng con trai tôi và người yêu của nó.

“Hãy chỉnh trang lại cho nó,” tôi nói vơi Herbert Casting khi tôi có thể bình tâm trở lại để nói thành lời.

“Ông James... thưa ông... những phần thương tổn là...”

“Tôi biết chúng thế nào. Hãy chỉnh trang lại cho thằng bé. Và đưa nó ra khỏi cái hòm khốn kiếp kia. Đặt nó vào chiếc quan tài đẹp nhất ông có. Tôi không quan tâm tốn kém hết bao nhiêu. Tôi có tiền.” Tôi cúi xuống, hôn lên gò má rách nát của thằng bé. Đáng ra không người bố nào phải hôn vĩnh biệt con trai mình lần cuối cùng, nhưng nếu có người bố nào đáng phải chịu số phận như thế, người đó là tôi.

Shannon và Henry đều được chôn cất bên ngoài nhà thờ Giám lý Vinh quang của Chúa tại Hemingford, Shannon hôm hai mươi hai, còn Henry vào hôm trước ngày Lễ Giáng Sinh. Nhà thờ đông nghịt người hôm đưa tang Shannon, và tiếng than khóc gần như đủ to để làm nhấc bổng mái nhà lên. Tôi biết, vì tôi đã có mặt ở đó, ít nhất là một chốc. Tôi đứng phía sau, không bị ai nhận ra, rồi quay ra ngoài ở giữa lời điếu của mục sư Thursby. Mục sư Thursby cũng chủ trì tang lễ của Henry, nhưng chắc tôi cũng chẳng cần phải nói với các vị rằng số người tham dự ít hơn nhiều. Thursby chỉ thấy có một người, nhưng vẫn còn một người nữa. Arlette cũng có mặt tại đó, ngồi cạnh tôi, vô hình và tươi cười. Cô ta thì thầm vào tai tôi.

Anh có thích cái cách mọi thứ diễn ra không, Wilf? Liệu có đáng phải như thế không?

Nếu tính cả đến chi phí tang lễ, chi phí chôn cất, chi phí cho nhà xác, cũng như khoản tiền phải bỏ ra để đưa thi thể về nhà, việc an táng cho hình hài trần thế của con trai tôi tốn hết hơn 300 đô la. Tôi đã dùng tiền vay thế chấp để trả. Tôi còn có thể làm cách nào khác đây? Khi tang lễ kết thúc, tôi quay trở về một ngôi nhà trống rỗng. Nhưng trước hết tôi mua cho mình một chai whisky mới.

Năm 1922 vẫn còn một trò bỡn cợt nữa dành cho tôi. Ngay sau hôm Giáng sinh, một cơn bão tuyết lớn từ dãy Rockies ập tới, ụp xuống đầu chúng tôi một lớp tuyết dày và những cơn gió mạnh. Khi màn đêm buông xuống, tuyết thoạt đầu chuyển thành mưa đá, sau đó thành một cơn mưa như thác đổ. Vào khoảng nửa đêm, trong lúc tôi ngồi trong phòng khách tối om, làm dịu đi bên tay cụt đang đau nhức nhối bằng những hớp nhỏ whisky, một âm thanh đổ vỡ rầm rầm vang lên từ phía sau nhà. Đó là mái nhà vừa sập xuống ở phía đó - chính là phần mái nhà tôi đã muốn dùng khoản vay thế chấp, hay ít nhất là một phần khoản này, để chữa lại. Tôi nâng ly chúc mừng nó, rồi uống thêm một hớp nữa. Khi gió lạnh bắt đầu thốc vào quanh hai vai tôi, tôi lấy áo khoác treo trên móc ở phòng ngoài mặc lên người, rồi ngồi xuống, uống thêm một chút whisky nữa. Sau đó tôi ngủ thiếp đi lúc nào không rõ. Một âm thanh đổ sập tương tự đánh thức tôi dậy lúc ba giờ sáng. Lần này đến lượt nửa trước chuồng gia súc sụp đổ. Tuy thế Achelois lại sống sót thêm lần nữa, và tối hôm sau tôi đưa nó vào trong nhà cùng với tôi. Tại sao? các vị có thể hỏi tôi như thế, và câu trả lời của tôi sẽ là, Tại sao không? Quỷ quái thật, tại sao lại không? Chúng tôi là những kẻ sống sót. Chúng tôi là những kẻ sống sót.

Vào sáng hôm Lễ Giáng sinh (mà tôi trải qua bằng cách ngồi uống whisky trong căn phòng khách lạnh ngắt của mình, với con bò cái còn sống sót làm bạn), tôi đếm lại những gì còn sót lại từ khoản vay thế chấp, và nhận ra nó bắt đầu không còn đủ để trang rải những thiệt hại cơn bão gây ra. Tôi chẳng mấy bận tâm, vì tôi đã mất hết hứng thú với cuộc sống nông trại, nhưng ý nghĩ Công ty Farrington dựng lên một lò sát sinh và làm ô nhiễm dòng suối vẫn làm tôi nghiến chặt răng lại vì phẫn nộ. Nhất là sau cái giá quá đắt tôi phải trả để ngăn không cho 100 mẫu đất ba lần đáng nguyền rủa kia không lọt vào tay bọn họ.

Tôi đột ngột nhận ra, với việc Arlette chính thức được coi là đã chết thay vì mất tích, những mẫu đất ấy giờ là của tôi. Vậy là hai ngày sau, tôi nuốt lòng tự hào xuống và tìm tới gặp Harlan Cotterie.

Người đàn ông ra mở cửa cho tôi có bộ dạng khá hơn tôi nhiều, song những cú sốc khủng khiếp của năm đó dẫu vậy vẫn để lại dấu ấn của chúng. Ông ta đã sút cân, tóc đã thưa đi, và cái áo sơ mi ông ta mặc trông thật nhàu nhĩ - cho dù vẫn không nhàu nhĩ bằng khuôn mặt ông ta, và ít nhất với cái áo người ta vẫn có thể là được. Ông ta trông như một người sáu mươi lăm tuổi chứ không phải bốn mươi lăm.

“Đừng đánh tôi,” tôi nói khi thấy ông ta siết chặt hai nắm tay lại. “Hãy nghe tôi nói đã.”

“Tôi sẽ không đánh một người chỉ còn lại một bàn tay,” ông ta nói, “nhưng tôi sẽ rất cảm ơn nếu ông ngắn gọn cho. Và chúng ta sẽ phải nói chuyện ở đây, ở ngoài thềm, vì ông sẽ không bao giờ đặt chân vào trong nhà tôi nữa.”

“Được thôi,” tôi nói. Tôi cũng đã sút cân - rất nhiều - và tôi đang rét run, nhưng không khí lạnh ngắt đem lại cảm giác thật dễ chịu cho cánh tay cụt của tôi, cũng như trên bàn tay vô hình dường như vẫn còn tồn tại bên dưới nó. “Tôi muốn bán cho ông 100 mẫu đất tốt, Harl. Khu đất Arlette đã rất muốn bán cho Công ty Farrington.”

Nghe tới đó, ông ta mỉm cười, và đôi mắt ông ta sáng lên trong hai hố mắt giờ đây trở nên sâu hoắm. “Rơi vào lúc khó khăn rồi, phải không nào? Nửa ngôi nhà và nửa chuồng gia súc của ông đã sập. Hermie Gordon nói ông đưa một con bò vào trong nhà sống với ông.” Hermie Gordon là người bưu tá của vùng này, và nổi tiếng là kẻ hay buôn chuyện.

Tôi đưa ra một cái giá thấp đến nỗi miệng Harl há hốc và hai bên lông mày ông ta nhướng lên cao. Đúng lúc ấy tôi ngửi thấy một thứ mùi bốc ra từ ngôi nhà sạch sẽ chỉn chu của gia đình Cotterie, thứ mùi này dường như hoàn toàn xa lạ với nơi ấy: mùi thực phẩm khô bị cháy. Dường như không phải Sallie Cotterie đang nấu ăn. Từng có lúc một chi tiết như thế khiến tôi quan tâm, nhưng thời đó đã qua rồi. Tất cả những gì làm tôi bận tâm vào thời điểm đó là tống khứ được 100 mẫu đất đi. Dường như cũng hợp lý khi bán rẻ chúng, vì chúng đã làm tôi phải trả giá đắt đến thế.

“Quả là dùng một xu đổi lấy một đô la,” ông ta nói. Rồi nói tiếp, với vẻ hài lòng rõ rệt: “Arlette hẳn sẽ phải lăn lộn trong mộ.”

Cô ta đã làm còn nhiều hơn chỉ lăn lộn trong đó, tôi nghĩ.

“Ông cười vì chuyện gì vậy, Wilf?”

“Không gì hết. Ngoại trừ vì một thứ, tôi không quan tâm đến khu đất đó nữa. Điều duy nhất tôi còn quan tâm là giữ cho cái lò sát sinh chết tiệt của Farrington tránh xa nó ra.”

“Thậm chí nếu ông phải mất cả trang trại của chính mình?” Ông ta gật gù như thể tôi vừa đưa ra một câu hỏi. “Tôi biết về khoản vay thế chấp ông đã thực hiện. Chẳng thể có gì bí mật trong một thị trấn nhỏ.”

“Thậm chí là vậy,” tôi đồng ý. “Hãy nhận lời đề nghị đi, Harl. Ông sẽ thật điên rồ nếu không làm thế. Dòng suối mà bọn họ sẽ làm ngập ngụa trong máu, lông và ruột lợn - nó cũng là dòng suối của ông nữa.”

“Không,” ông ta nói.

Tôi tròn mắt nhìn ông ta, quá ngạc nhiên để có thể nói được gì. Nhưng một lần nữa ông ta lại gật gù như thể tôi vừa đưa ra một câu hỏi.

“Ông nghĩ ông biết những gì ông đã gây ra cho tôi, nhưng ông chưa biết tất cả đâu. Sallie đã bỏ tôi. Cô ấy đã tới sống với bà con của mình ở McCook. Cô ấy nói có thể sẽ quay về, nói cô ấy sẽ suy nghĩ về mọi việc, nhưng tôi không nghĩ cô ấy sẽ làm thế. Vậy nên chuyện này sẽ đưa ông và tôi lên cùng một toa tàu vỡ, phải không nào? Chúng ta là hai gã đàn ông đã bắt đầu năm nay có vợ và đang kết thúc nó không còn vợ. Chúng ta là hai gã đàn ông bắt đầu năm nay với những đứa con còn sống và đang kết thúc nó với những đứa con đã chết. Khác biệt duy nhất tôi có thể thấy là tôi đã không mất đi nửa ngôi nhà và phần lớn chuồng gia súc trong cơn bão.” Ông ta trầm ngâm suy nghĩ tiếp. “Và tôi vẫn còn cả hai bàn tay. Còn cả chuyện đó nữa, tôi chắc vậy. Khi cần phải lôi của quý của tôi ra khỏi quần - nếu tôi cảm thấy cần phải làm việc đó - tôi sẽ còn quyền lựa chọn sử dụng bàn tay nào.”

“Cái gì... tại sao bà nhà lại...”

“Ồ, hãy dùng cái đầu của ông đi. Cô ấy trách cứ tôi cũng như ông về cái chết của Shannon. Cô ấy nói nếu tôi không ương ngạnh gửi Shan khỏi nhà, bây giờ con bé vẫn còn sống và đang sống với Henry tại trang trại của ông chỉ ngay cuối đường, thay vì nằm lạnh cóng trong một cái hòm dưới đất. Cô ấy nói đáng ra cô ấy đã có cháu. Cô ấy gọi tôi là một gã ngốc tự phụ, và cô ấy có lý.”

Tôi chìa cho ông ta bàn tay còn lại của mình. Ông ta gạt nó đi.

“Đừng có động vào tôi, Wilf. Ông chỉ còn lần cảnh cáo cuối cùng này về chuyện đó nữa thôi.”

Tôi đưa tay trở lại bên sườn.

“Có một điều tôi biết chắc,” ông ta nói. “Nếu tôi nhận đề nghị của ông, cho dù nó hấp dẫn đến thế, rồi đây tôi sẽ phải hối hận. Vì khu đất đó đã bị nguyền rủa. Chúng ta có thể không nhất trí với nhau trong mọi chuyện, nhưng tôi dám cược trong chuyện này thì có. Nếu ông muốn bán đất, hãy bán cho ngân hàng. Ông sẽ lấy lại được giao kèo thế chấp, cộng thêm một ít tiền mặt nữa.”

“Bọn họ sẽ lại quay sang bán ngay cho Farrington!”

“Ông phải chịu thôi” là những lời cuối cùng của ông ta trước khi đóng sập cửa lại trước mặt tôi.

Vào ngày cuối cùng của năm ấy, tôi lái xe tới Hemingford Home gặp ông Stoppenhauser tại ngân hàng. Tôi nói với ông ta tôi đã quyết định sẽ không sống ở trang trại nữa. Tôi cho ông ta hay tôi muốn bán khu đất của Arlette cho ngân hàng và dùng số tiền thu được để rút lại giao kèo vay thế chấp về. Giống như Harlan Cotterie, ông ta trả lời không. Trong khoảnh khắc, tôi chỉ biết ngồi thừ ra trên chiếc ghế đối diện với ông ta, không thể tin nổi những gì vừa nghe được.

“Tại sao không? Đó là một khu đất tốt!”

Ông ta nói với tôi rằng ông ta làm việc cho một ngân hàng, và một ngân hàng không phải là công ty bất động sản. Ông ta gọi tôi là ông James. Những ngày tôi được gọi là Wilf trong văn phòng đó đã kết thúc.

“Chỉ là...” Lố bịch là từ xuất hiện trong đầu tôi, nhưng tôi không muốn mạo hiểm xúc phạm ông ta để rồi mất đi cơ hội có thể ông ta đổi ý. Sau khi đã đi tới quyết định bán đi khu đất (và con bò nữa, tôi cũng phải tìm một người mua Achelois, có lẽ là một người lạ mặt sẵn sàng đổi nó lấy một túi đậu thần), ý tưởng đó đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực của tôi. Vậy là tôi giữ giọng nói nhẹ nhàng và cố trình bày thật bình tĩnh.

“Không chính xác là thế, ông Stoppenhauser. Ngân hàng đã mua lại khu Rideout mùa hè năm ngoái khi nó được đưa ra đấu giá. Cả khu Ba chữ M nữa.”

“Những trường hợp đó đều ở vào tình huống khác. Chúng tôi giữ một giao kèo thế chấp trên 80 mẫu đất ban đầu của ông, và hài lòng với điều đó. Việc ông muốn làm gì với một trăm mẫu bãi cỏ không làm chúng tôi quan tâm.”

“Ai đã tới gặp ông vậy?” tôi hỏi, rồi hiểu ra mình không nên làm thế. Là Lester, phải không nào? Con chó săn của Cole Farrington.”

“Tôi không hiểu ông đang nói về cái gì,” Stoppenhauser nói, nhưng tôi thấy mắt ông ta lóe lửa. “Tôi nghĩ tâm trạng đau buồn và... và vết thương ông phải chịu đựng... đã nhất thời ảnh hưởng tới khả năng suy nghĩ sáng suốt của ông.”

“Ồ không,” tôi nói, và bắt đầu phá lên cười. Đó là một âm thanh mất cân đối đến mức nguy hiểm, ngay cả với đôi tai của tôi. “Tôi chưa bao giờ suy nghĩ sáng suốt hơn trong cả đời mình, thưa ông. Hắn ta tới đây gặp ông - hắn ta hoặc một kẻ khác, tôi tin chắc Cole Farrington có đủ tiền để thuê bất cứ gã đê tiện nào ông ta muốn - và các người đã thỏa thuận với nhau. Ông là... kẻthông đồng!” Tôi cười phá lên dữ dội hơn lúc nào hết.

“Ông James, tôi sợ rằng tôi phải yêu cầu ông ra khỏi đây.”

“Có lẽ các người đã lên kế hoạch mọi chuyện từ trước,” tôi nói. “Có thể đó là lý do khiến ông lúc đầu lại bận tâm thuyết phục tôi thực hiện khoản vay thế chấp đáng nguyền rủa đó đến thế. Hoặc có thể khi Lester nghe được chuyện xảy đến với con trai tôi, hắn nhận ra một cơ hội vàng để tận dụng nỗi bất hạnh của tôi, và hối hả tìm đến gặp ông. Có thể hắn đã ngồi ngay trên chiếc ghế này và nói, “Chuyện này sẽ có lợi cho cả hai chúng ta, Stoppie - ông có được trang trại, thân chủ của tôi có được khu đất bên cạnh, và Wilf James có thể cuốn xéo xuống Địa Ngục.” Chẳng phải rất giống những gì đã xảy ra sao?”

Ông ta bấm vào một cái nút trên bàn, và lập tức cánh cửa mở ra. Đây chỉ là một ngân hàng nhỏ, quá nhỏ để thuê nhân viên bảo vệ, nhưng người thu ngân vừa cúi người vào là một anh chàng to con. Một thành viên của Nhà Rohrbacher, nếu suy ra từ ngoại hình; tôi đã đi học cùng bố anh chàng này, và Henry hẳn từng học cùng với em gái cậu ta, Mandy.

“Có rắc rối gì sao, thưa ông Stoppenhauser?” cậu ta hỏi.

“Không có gì cả nếu ông James ra khỏi đây ngay,” ông ta nói. “Cậu có thể đưa ông ta ra chứ, Kevin?”

Kevin bước vào, và khi tôi chậm chạp không đứng dậy ngay, cậu ta đưa một bàn tay tóm vào ngay trên khuỷu tay trái của tôi. Cậu ta ăn mặc như một nhân viên ngân hàng, cho tới tận dây đeo quần và nơ bướm, nhưng bàn tay đó là một bàn tay nông dân, cứng rắn và chai sạn. Cánh tay cụt vẫn còn trong quá trình hồi phục của tôi lập tức giần giật cảnh báo.

“Đi thôi, thưa ông,” anh chàng thanh niên nói.

“Đừng kéo tôi,” tôi nói. “Chỗ nối với bàn tay trước đây của tôi vẫn còn đau.”

“Vậy ông hãy đi đi.”

“Tôi đã đến trường cùng bố cậu. Ông ấy ngồi cạnh tôi và thường chép bài của tôi vào Tuần Thi Mùa Xuân.”

Cậu ta lôi tôi ra khỏi chiếc ghế nơi tôi từng được xưng hô là Wilf. Anh chàng Wilf tốt bụng, một kẻ thật ngốc nếu không thực hiện một khoản vay thế chấp. Chiếc ghế gần như lật nghiêng.

“Chúc mừng năm mới, ông James,” Stoppenhauser nói.

“Ông cũng vậy, đồ đê tiện khốn kiếp,” tôi đáp lại. Nhìn thấy vẻ choáng váng trên khuôn mặt ông ta có lẽ là điều hay ho cuối cùng đến với tôi trong đời mình. Tôi đã ngồi đây năm phút, nhai quản bút trong lúc cố nhớ ra một điều gì đó tích cực từng đến kể từ lúc ấy - một cuốn sách hay, một bữa ăn ngon, một buổi chiều khoan khoái trong công viên - nhưng không thể.

Kevin Rohrbacher đưa tôi ra qua phòng ngoài. Tôi đoán đó là động từ phù hợp; vì cách cậu ta làm không hẳn là lôi. Sàn nhà lát cẩm thạch, và tiếng bước chân của chúng tôi vang lên rõ mồn một. Các bức tường lát ván gỗ sồi sẫm màu. Ở các khung cửa sổ cao dành cho nhân viên giao dịch, hai phụ nữ đang phục vụ một nhóm nhỏ khách hàng cuối năm. Một khách hàng còn trẻ, và một người đã già, song vẻ tròn mắt kinh ngạc của cả hai thì giống hệt nhau. Nhưng không phải vẻ quan tâm chăm chú, gần như thèm khát của họ thu hút sự chú ý của hai mắt tôi; chúng bị hút vào một thứ hoàn toàn khác. Có một thanh ván gỗ sồi rộng chừng ba inch chạy ngang bên trên các cửa sổ dành cho giao dịch viên, và đang bận rộn hối hả bò qua trên đó...

“Cẩn thận con chuột kia!” tôi kêu lên, và giơ tay lên chỉ.

Người giao dịch viên trẻ hơn khẽ kêu, đưa mắt nhìn lên trên, rồi nhìn sang người đồng nghiệp lớn tuổi hơn của cô ta. Chẳng có con chuột nào hết, chỉ là bóng chiếc quạt trần vừa lướt qua. Và giờ thì tất cả mọi người đều nhìn vào tôi.

“Cứ trợn mắt ra mà nhìn thỏa thích đi!” tôi nói với họ. “Nhìn cho chán đi! Nhìn cho tới khi tròng mắt chết tiệt của các người rơi ra ngoài đi!”

Sau đó tôi đã ở ngoài được, phả ra không khí mùa đông lạnh ngắt trông giống như khói thuốc lá. “Đừng quay lại trừ khi ông có công việc phải làm,” Kevin nói. “Và trừ khi ông có thể nói năng chừng mực.”

“Bố cậu là gã lừa đảo đáng nguyền rủa tồi tệ nhất tôi từng gặp khi còn đi học,” tôi nói với anh chàng. Tôi muốn cậu ta nện tôi, nhưng cậu ta chỉ quay vào trong và để tôi lại một mình bên rìa đường, đứng trước chiếc xe tải cũ kỹ tàn tạ của tôi. Và đó là những gì xảy ra khi Wilfred Leland James tới thị trấn vào ngày cuối cùng của năm 1922.

Khi tôi về đến nhà, Achelois không còn ở trong nhà. nó đang ở ngoài sân, nằm nghiêng sang một bên và thở phì phò ra từng đám hơi trắng xóa của chính nó. Tôi có thể nhìn thấy những vết tuyết bị xới tung lên khi con bò cuống cuồng lao ra khỏi cửa, cùng một vũng nữa lớn hơn khi nó hậu đậu chạm đất và gãy cả hai chân trước. Dường như cả một con bò cái vô tội cũng không thể sống sót được ở bên cạnh tôi.

Tôi vào phòng ngoài lấy khẩu súng, sau đó vào trong nhà, muốn tìm hiểu xem - nếu có thể - nguyên nhân nào đã làm con bò sợ đến mức làm nó phải hốt hoảng chạy trốn khỏi nơi nương thân mới của mình như thế. Đó là lũ chuột, tất nhiên rồi. Ba con đang ngồi trên chiếc tủ ly Arlette rất quý hóa, nhìn tôi chằm chằm với những đôi mắt đen nghiêm nghị của chúng.

“Quay về nói với cô ta hãy để tao yên,” tôi nói với chúng. “Nói với cô ta rằng cô ta đã làm hại tao đủ rồi. Vì Chúa, hãy bảo cô ta để tao yên.”

Chúng chỉ ngồi đó nhìn tôi với cái đuôi cuộn quanh thân hình màu xám đen. Vậy là tôi giơ súng lên và bắn vào con chuột ở giữa. Viên đạn xé tung nó ra, hất những gì còn lại của nó bắn tung tóe lên tấm giấy dán tường chính Arlette đã cầu kỳ lựa chọn chừng 9 hay 10 năm trước. Khi Henry vẫn còn là một chú bé con và mọi chuyện vẫn tốt đẹp giữa ba chúng tôi.

Hai con còn lại bỏ chạy. Quay lại lối đi bí mật dưới đất của chúng, tôi không nghi ngờ gì về chuyện đó. Quay về với nữ hoàng thối rữa của chúng. Những gì chúng để lại trên cái tủ ly thuộc về cô vợ đã chết của tôi là vài bãi phân chuột cùng ba bốn mảnh của chiếc bao tải Henry đã lấy từ chuồng gia súc vào buổi tối đầu hè năm 1922 đó. Lũ chuột đã tới để giết con bò cái cuối cùng của tôi và mang cho tôi vài mảnh nhỏ trong tấm che đầu của Arlette.

Tôi ra ngoài, vuốt ve Achelois trên đầu nó. Con bò nghển cổ lên và ậm ò than vãn. Hãy chấm dứt nó đi. Ông là ông chủ, là chúa trong thế giới của tôi, vậy hãy chấm dứt nó đi.

Tôi làm đúng như vậy.

Chúc mừng năm mới.

Đó là đoạn kết của năm 1922, và cũng là đoạn kết câu chuyện của tôi; tất cả phần còn lại chỉ là vĩ thanh. Đám sứ giả đang đứng chen chúc đông nghịt trong căn phòng này - chắc hẳn ông giám đốc của khách sạn cũ đẹp đẽ này phải kêu thét lên nếu ông ta nhìn thấy chúng! - sẽ không phải chờ lâu hơn nữa để đưa ra phán quyết của chúng. Cô ta là thẩm phán, chúng là bồi thẩm đoàn, nhưng tôi sẽ là đao phủ của chính mình.

Tôi để mất trang trại, tất nhiên rồi. Không ai, kể cả Công ty Farrington, chấp nhận mua 100 mẫu đất đó cho tới khi tôi chịu bán nốt cả trang trại, và khi đám đồ tể giết lợn ấy cuối cùng xông vào cuộc, tôi bị ép phải bán ở mức giá thấp đến điên rồ. Kế hoạch của Lester đã thành công hoàn hảo. Tôi tin chắc đó là trò vè của hắn, và tôi tin chắc hắn đã bỏ túi một khoản hoa hồng.

Ồ, được rồi; kiểu gì rồi hẳn tôi cũng mất miếng đất cắm dùi đó của mình ở hạt Hemingford, cho dù tôi có đủ tiềm lực tài chính để trang trải khoản vay đi chăng nữa, và trong ý nghĩ này quả là có chút an ủi phù phiếm. Người ta nói cuộc suy thoái chúng ta đang lâm vào đã bắt đầu từ ngày Thứ Sáu Đen Tối hồi năm ngoái, nhưng người dân ở các tiểu bang như Kansas, Iowa và Nebraska biết nó đã bắt đầu từ năm 1923, khi những vụ gieo trồng còn sót lại sau những cơn bão khủng khiếp đã bị hủy hoại hoàn toàn trong đợt hạn hán diễn ra liền sau đó, một đợt hạn hán kéo dài suốt hai năm trời. Chút nông sản ít ỏi tìm được đường tới thị trường của các thành phố lớn và các phiên giao dịch nông sản tại những thị trấn nhỏ chỉ mang về những khoản thu nhập chết đói. Harlan Cotterie cầm cự được tới khoảng năm 1925, sau đó ngân hàng tịch thu trang trại của ông ta. Tôi tình cờ biết được tin đó trong lúc xem qua danh mục chào bán của ngân hàng trên tờ World-Herald. Tới năm 1925, những bản danh sách như thế có khi lấp kín cả nhiều trang báo. Các trang trại nhỏ bắt đầu biến mất, và tôi tin rằng trong một trăm năm nữa - mà có khi chỉ 75 năm thôi - tất cả sẽ biến mất. Tới năm 2030 (nếu như rồi sẽ có một năm như thế), cả phần Nebraska phía tây Omaha sẽ là một trang trại lớn. Có thể sở hữu nó sẽ là Công ty Farrington, và những kẻ kém may mắn tới mức phải sống trên miền đất ấy sẽ trải qua cả cuộc đời họ dưới bầu trời vàng vọt bẩn thỉu và phải đeo mặt nạ phòng độc để khỏi chết ngạt vì mùi xú uế của lợn chết. Và tất cả các dòng suối sẽ đỏ ngầu vì máu chảy ra từ các lò mổ.

Tới năm 2030, sẽ chỉ còn lũ chuột cảm thấy hạnh phúc.

Đó là đổi một xu lấy một đô la, Harlan nói như thế vào ngày tôi đề nghị bán cho ông ta khu đất của Arlette, và cuối cùng tôi buộc phải bán cho Cole Farrington để đổi lấy một phần còn ít hơn thế của một đô la. Luật sư Andrew Lester mang các giấy tờ tới khu nhà cho thuê phòng ở thành phố Hemingford nơi tôi đang sống lúc đó, và ông ta mỉm cười khi tôi ký vào chúng. Tất nhiên là thế rồi. Những kẻ mạnh thế luôn thắng. Tôi quả là ngốc khi nghĩ với mình có thể có gì đó khác đi. Tôi là một gã ngốc, và tất cả những ai tôi từng yêu quý đều phải trả giá vì điều đó. Thỉnh thoảng tôi lại tự hỏi liệu Sallie Cotterie rồi có quay trở lại với Harlan, hay ông ta có tới với bà ở McCook sau khi mất đi trang trại hay không. Tôi không biết, nhưng tôi nghĩ cái chết của Shannon hẳn đã làm kết thúc cuộc hôn nhân trước đó vốn hạnh phúc. Thuốc độc luôn lan ra như mực trong nước vậy.

Trong khi tôi viết những dòng này, lúc chuột đã bắt đầu từ chân tường của căn phòng di chuyển lại gần. Hàng rào hình vuông lúc trước giờ đã trở thành một vòng tròn đang khép lại. Chúng biết đây chỉ là đoạn tiếp theo, và không điều gì tới tiếp theo một hành động không thể vãn hồi còn có chút gì quan trọng. Song tôi sẽ vẫn hoàn tất nó. Và chúng sẽ không thể có được tôi chừng nào tôi còn sống; chiến thắng nho nhỏ cuối cùng sẽ thuộc về tôi. Chiếc áo khoác cũ màu nâu của tôi đang được treo lên lưng tựa của chiếc ghế tôi đang ngồi. Khẩu súng ngắn ở trong túi áo. Khi tôi đã kết thúc vài trang cuối cùng của bản thú tội này, tôi sẽ dùng đến nó. Người ta nói những kẻ tự sát và giết người phải xuống Địa Ngục. Nếu vậy, tôi sẽ biết rõ đường đi lối lại, vì tôi vốn đã ở đó trong suốt tám năm qua rồi.

Tôi tới Omaha, và nếu đó thực sự là một thành phố của những gã ngốc như tôi từng tuyên bố, vậy thì trước hết tôi là một công dân kiểu mẫu. Tôi bắt tay vào uống dần đi 100 mẫu đất của Arlette, và cho dù đó chỉ còn là xu lẻ của đô la, tôi cũng phải mất đến hai năm. Khi không uống, tôi tới thăm những nơi Henry đã đi qua trong những tháng cuối cùng của đời nó: cửa hàng tạp hóa và trạm xăng ở Lyme Biska với hình Cô Gái Mũ Xanh trên nóc (đến lúc đó đã dóng cửa với một tấm biển treo trên cánh cửa bị đóng ván gỗ có ghi NGÂN HÀNG RAO BÁN), cửa hàng cầm đồ ở phố Dodge (nơi tôi bắt chước con trai mình và mua khẩu súng ngắn lúc này đang nằm trong túi áo khoác của tôi), chi nhánh Omaha của First Agricultural Bank. Cô nàng nhân viên giao dịch xinh xắn vẫn còn làm việc ở đó, cho dù họ của cô ta giờ không còn là Penmark nữa.

“Khi tôi đưa tiền cho cậu ấy, cậu ấy đã nói cảm ơn,” cô gái kể với tôi. “Có thể cậu ta đã đi vào con đường sai lầm, nhưng ai đó đã dạy dỗ cậu ấy rất tử tế. Ông có biết cậu ấy không?”

“Không,” tôi nói, “nhưng tôi biết gia đình cậu ta.”

Tất nhiên tôi có tìm tới St. Eusebia, nhưng không tìm cách vào trong hỏi chuyện về Shannon Cotterie với bà quản lý hay xơ bề trên, cho dù danh hiệu chính thức của bà ta có là gì đi nữa. Đó là một khối nhà lạnh lùng thù địch, những khối đá dày và những khe cửa sổ hẹp thể hiện hoàn hảo những gì mà dường như giới tu sĩ của giáo hội cảm nhận về phụ nữ trong trái tim họ. Dõi theo vài cô gái mang thai lén lút bước ra với đôi mắt cúi gằm và đôi vai co ro đã nói cho tôi biết tất cả những gì tôi cần phải biết vì sao Shan lại sẵn sàng rời khỏi nơi đó.

Cũng thật lạ, tôi cảm thấy gần gũi nhất với con trai mình trong một con hẻm. Nó là con hẻm nằm cạnh Hiệu thuốc và sô đa trên phố Gallantin (chuyên kẹo Schraff's[35] và kẹo mềm đặc biệt nhà làm), cách St. Eusebia hai khối nhà. Tại đây có một cái vỏ thùng, có lẽ còn quá mới để có thể là cái Henry từng ngồi lên trong lúc thằng bé đợi một cô gái đủ táo tợn để đổi thông tin lấy thuốc lá, nhưng tôi có thể vờ tin là vậy, và tôi đã làm như thế. Những trò giả bộ như vậy dễ hơn khi tôi đã say, và phần lớn những ngày tôi tìm đến phố Gallatin, quả thực tôi đều khá say. Đôi lúc tôi giả bộ rằng lúc này lại là năm 1922, và chính tôi là người đang chờ đợi Victoria Stevenson. Nếu cô gái tới, tôi sẽ đổi cả cây thuốc lá cho cô ta để cô ta chịu thực hiện một lời nhắn: Khi một thanh niên tự xưng là Hank xuất hiện ở đây hỏi thăm về Shan Cotterie, hãy bảo cậu ta biến đi. Bảo cậu ta hãy đi chỗ khác. Nói với cậu ta rằng bố cậu ta cần cậu ta quay về trang trại, rằng rất có thể với hai người cùng nhau làm việc, họ sẽ cứu được nó.

Nhưng cô gái ấy đã ở ngoài tầm với của tôi. Cô Victoria duy nhất tôi gặp là phiên bản sau này, người phụ nữ với ba đứa con kháu khỉnh và danh xưng đáng kính trọng bà Hallett. Đến lúc ấy tôi đã thôi không còn uống nữa, tôi đã có việc làm ở nhà máy may Bilt-Rite Clothing, và đã làm quen trở lại với dao cạo và xà phòng cạo râu. Vì lớp vỏ đáng kính trọng này, cô gái đã khá sẵn lòng tiếp chuyện tôi. Tôi cho cô ta biết tôi là ai chỉ vì - nếu tôi cần phải trung thực đến cùng - nói dối ở đây chẳng ích lợi gì. Tôi có thể thấy trong đôi mắt hơi mở to ra của cô gái rằng cô ta đã nhận ra nét tương đồng giữa hai bố con tôi.

“Phải, nhưng cậu ấy thật dễ mến,” cô gái nói. “Và thật điên cuồng vì yêu. Cháu lấy làm tiếc cho Shan nữa. Cô ấy là một cô gái thật tuyệt. Cứ như một bi kịch[36] của Shakespeare vậy, phải không ông?”

Chỉ có điều cô ta phát âm từ đó thành trad-a-gee, và sau lần ấy tôi không còn quay lại con hẻm trên phố Gallatin lần nào nữa, vì với tôi vụ sát hại Arlette đã làm nhiễm độc cả cố gắng của bà mẹ trẻ vô tội ở Omaha này khi cô gái muốn tỏ ra thông cảm. Cô ta nghĩ cái chết của Henry và Shannon giống như một trad-a-gee của Shakespeare. Cô ta nghĩ những cái chết ấy thật lãng mạn. Liệu cô ta có còn nghĩ vậy nữa hay không, tôi tự hỏi, nếu cô ta nghe thấy tiếng vợ tôi kêu thét lên lần cuối từ bên trong cái bao tải sũng máu? Hay nhìn qua khuôn mặt không còn mắt, không còn môi của con trai tôi?

Tôi đã trải qua hai công việc trong những năm tôi sống tại Thành phố Cửa ngõ[37], cũng còn được biết đến dưới cái tên Thành phố của những Tên ngốc. Các vị sẽ nói tất nhiên tôi phải có công việc; nếu không thế chắc hẳn tôi đã phải sống ngoài đường. Nhưng có những con người lương thiện hơn tôi đã tiếp tục uống rượu ngay cả khi họ muốn ngừng lại, có những người đàng hoàng hơn tôi đã phải kết thúc trong cảnh ngủ dưới vòm cửa. Tôi cho rằng tôi có thể nói sau những năm tháng đã mất của mình, tôi từng thử nỗ lực thêm lần nữa để sống một cuộc sống thật sự. Có những lúc tôi thành thực tin vào điều đó, nhưng khi nằm trên giường buổi tối (và lắng nghe lũ chuột lích rích trong các bức tường - chúng vẫn luôn là những kẻ đồng hành không bao giờ rời xa tôi), tôi luôn biết rõ sự thật: tôi vẫn đang cố để thắng cuộc. Thậm chí ngay cả sau những cái chết của Henry và Shannon, ngay cả sau khi đã mất đi bàn tay, tôi vẫn đang cố đánh bại cái xác ở dưới giếng. Cô ta và đám sủng thần của cô ta.

John Hanrahan là quản đốc kho hàng tại nhà máy Bilt-Rite. Ông ta không muốn thuê một người chỉ có một bàn tay, nhưng tôi đã nài xin được làm thử, và khi tôi chứng minh cho ông ta thấy tôi có thể đẩy một xe hàng chất đầy áo sơ mi hay quần yếm chẳng kém bất cứ ai trong đám nhân công dưới quyền ông ta, viên quản đốc nhận tôi vào làm. Tôi đã đẩy những xe hàng đó trong 14 tháng, và thường xuyên phải tập tễnh quay về căn nhà trọ nơi tôi sống với lưng và cánh tay cụt đau như bị lửa thiêu. Song tôi không bao giờ phàn nàn, và thậm chí tôi còn tìm ra được đủ thời gian để học may. Việc này tôi làm vào giờ nghỉ trưa (trên thực tế kéo dài 15 phút) và trong giờ nghỉ ca chiều. Trong khi những người khác quay trở lại chỗ bốc xếp hàng hút thuốc và kể những câu chuyện tục tĩu, tôi tự học cách may nối, đầu tiên là trên những bao tải đựng hàng đã qua sử dụng, rồi sau đó là trên những chiếc quần yếm, vốn là mặt hàng chủ đạo của công ty. Hóa ra tôi lại có khiếu cho việc này, thậm chí tôi còn có thể khâu khóa kéo, một kỹ năng không dễ dàng chút nào trên một dây chuyền may công nghiệp. Tôi dùng cánh tay cụt ép lên món đồ để giữ nó cố định trong lúc bàn chân tôi vận hành bàn đạp điện.

May được trả công khá hơn bốc xếp hàng, và cũng dễ chịu hơn cho cái lưng của tôi, nhưng khu xưởng may tối om giống như những hang động, và sau chừng bốn tháng tôi bắt đầu nhìn thấy chuột trên những đống vải bò mới tinh chất cao như núi và lấp ló trong bóng tối bên dưới những chiếc xe đẩy được dùng để chuyển vải vào và sau đó đưa sản phẩm ra.

Vài lần tôi chỉ cho đồng nghiệp của mình chú ý tới những kẻ gặm nhấm ăn hại đó. Họ đều nói không trông thấy chúng. Có thể họ không thấy thật. Tôi nghĩ nhiều khả năng hơn thế là họ sợ xưởng may có thể bị đóng cửa tạm thời để đội bắt chuột tới thực hiện nhiệm vụ. Các thợ may như thế có thể bị mất ba ngày lương, thậm chí là một tuần. Với những người có gia đình, điều đó cũng có nghĩa là thảm họa. Với họ, sẽ dễ dàng hơn là nói lại với ông Hanrahan rằng tôi đã quáng mắt. Tôi hiểu điều đó. Và khi họ bắt đầu gọi tôi là Wilf Điên thì sao? Chuyện này tôi cũng có thể hiểu được. Và đó không phải là nguyên nhân tại sao tôi rời bỏ công việc đó.

Tôi bỏ việc vì lũ chuột cứ tiếp tục kéo đến.

Tôi đã để dành được một ít tiền, và chuẩn bị tinh thần sống dựa vào khoản này trong lúc tìm một công việc mới, song tôi đã không phải làm như vậy. Chỉ ba ngày sau khi rời khỏi Bilt-Rite, tôi thấy một rao vặt trên báo tìm thủ thư tại Thư viện Công cộng Omaha - cần có thư giới thiệu hoặc chứng chỉ. Tôi không có chứng chỉ nào, nhưng tôi đã là người mê đọc sách cả đời, và nếu những biến cố xảy ra trong năm 1922 đã dạy được tôi điều gì, thì đó là cách qua mặt người khác. Tôi giả mạo thư giới thiệu từ một vài thư viện công cộng ở Kansas City và Springfield, Missouri, và có được công việc. Tôi cảm thấy chắc chắn ông Quales rồi sẽ kiểm tra lại các thư giới thiệu và phát hiện ra chúng là giả mạo, vậy là tôi nỗ lực để trở thành thủ thư xuất sắc nhất nước Mỹ, và tôi làm việc rất nhanh. Khi cấp trên mới của tôi bắt tôi đối chứng với trò lừa đảo của mình, tôi sẽ trông đợi vào sự rộng lượng của ông ta và hy vọng vào tình huống tốt nhất. Song chẳng có cuộc đối chất nào xảy ra cả. Tôi đã giữ được việc làm của mình tại Thư viện Công cộng Omaha trong bốn năm. Nói về mặt lý thuyết, lúc này tôi vẫn đang nắm giữ công việc đó, cho dù đã một tuần nay tôi không có mặt tại chỗ làm và vẫn chưa gọi điện báo ốm.

Lũ chuột, các vị thấy đấy. Chúng cũng đã tìm thấy tôi ở đó. Tôi bắt đầu thấy chúng ngồi trên các chồng sách cũ ở phòng đóng sách, hay chạy dọc trên các tầng giá sách cao nhất, nhìn xuống tôi ra vẻ đã biết. Tuần trước, trong Phòng Tham khảo, tôi lấy ra một tập Bách khoa toàn thư Anh cho một độc giả lớn tuổi (đó là cuốn Ra-St, chắc chắn có chứa đầu mục cho Rattus norvegicus[38], ấy là chưa kể tới slaughterhouse[39]) và thấy một khuôn mặt đói khát màu xám đen nhìn chằm chằm vào tôi từ trong ô để sách đã trống. Đó chính là con chuột đã cắn đầu vú của con bò Achelois tội nghiệp. Tôi không biết làm thế nào lại có thể như thế được - tôi tin chắc đã giết chết nó - nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, tôi đã nhận ra nó. Làm sao tôi có thể không nhận ra chứ? Có một mảnh bao tải, một mảnh bao tải thấm máu, mắc vào bộ ria của nó.

Là cái bao chụp trên tóc cô ta!

Tôi mang tập Bách khoa toàn thư Anh ra cho bà lão đã yêu cầu nó (bà lão khoác một chiếc khăn lông chồn, và đôi mắt bé tí màu đen của con vật đó lạnh lẽo nhìn tôi). Sau đó tôi chỉ đơn giản đi ra ngoài thư viện. Tôi lang thang trên phố nhiều giờ liền, và cuối cùng tìm đến đây, khách sạn Magnolia. Và tôi đã ở đây suốt từ lúc đó, sử dụng số tiền tôi đã dành dụm được với công việc thủ thư - một công việc giờ đây cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa - và viết ra bản thú tội của mình, một điều rất có ý nghĩa. Tôi...

Một trong số chúng vừa cắn vào mắt cá chân tôi. Như thể để nói Kết thúc đi, sắp hết thời gian rồi. Một ít máu đã bắt đầu thấm ra tất của tôi. Điều đó không làm tôi bận tâm, không chút nào. Tôi đã nhìn thấy nhiều máu hơn thế trong đời mình; vào năm 1922 còn có cả một căn phòng ngập đầy thứ chất lỏng đó.

Và bây giờ tôi nghĩ tôi nghe thấy... có phải đó là trí tưởng tượng của tôi không nhỉ?

Không.

Có ai đó vừa tới gặp tôi.

Tôi đã nút đường ống lại, nhưng lũ chuột vẫn thoát ra ngoài được. Tôi đã lấp kín giếng, song cô ta vẫn tìm được đường chui lên. Và lần này tôi không nghĩ cô ta chỉ có một mình. Tôi nghĩ tôi nghe thấy thêm hai loại tiếng bước chân nữa, chứ không phải một. Hay là...

Ba? Chẳng lẽ là ba? Không lẽ cô gái đáng lẽ đã có thể trở thành con dâu của tôi trong một thế giới tốt đẹp hơn cũng đi cùng với họ?

Tôi nghĩ là có. Ba xác chết đang tiến lên theo lối đi, khuôn mặt của họ (những gì còn lại) biến dạng vì những vết chuột gặm. Khuôn mặt Arlette còn xô lệch sang một bên... vì cú đá của một con bò giãy chết.

Thêm một cú cắn nữa vào mắt cá.

Rồi thêm một cú nữa!

Làm thế nào ban quản lý khách sạn có thể...

Ôi! Thêm một lần nữa. Nhưng chúng sẽ không có được tôi. Và cả những vị khách của tôi cũng không, cho dù lúc này tôi có thể thấy quả đấm cửa đang xoay, và tôi có thể ngửi thấy họ, những mảnh thịt còn dính lại trên xương họ tỏa ra mùi hôi thối của chết chóc chết chóc

Khẩu súng

Chúa ơi, nó ở đâu

dừng lại

ÔI HÃY LÀM CHÚNG THÔI KHÔNG CẮN TÔI!

[35] Một công ty kẹo do William F.Schraff thành lập năm 1861 ở Boston.

[36] Nguyên tác tiếng Anh: tragedy.

[37] Gateway City, biệt danh của Omaha.

[38] Tên khoa học latinh của chuột.

[39] Lò sát sinh.