← Quay lại trang sách

Chương 11

Cuộc sống lẩn trốn của chúng bắt đầu.

Arlette thì thầm về cuộc sống đó còn nhiều hơn những gì tôi muốn biết, và tôi không có tâm trí đâu để viết lại dưới đây nhiều hơn vài chi tiết chính yếu. Nếu các vị muốn biết nhiều hơn, hãy viết cho Thư viện Công cộng Omaha. Với một khoản phí, họ sẽ gửi cho các vị bản sao những câu chuyện có liên quan tới Đôi Tình Nhân Du Đãng, cái tên được dùng để gọi hai đứa (và cũng là cái tên chúng dùng để gọi chính mình). Các vị thậm chí có thể tìm thấy những câu chuyện có liên quan từ báo chí ở chính nơi các vị sống, nếu các vị không sống tại Omaha; đoạn kết của câu chuyện này được coi là đủ thương tâm để đảm bảo có chỗ trên mặt báo khắp toàn quốc.

Hank Đẹp Trai và Shannon Dịu Dàng, tờ World Herald đã gọi hai đứa như thế. Trong các bức ảnh, trông chúng trẻ đến mức khó lòng tin nổi (Và tất nhiên thực tế đúng là như vậy.) Tôi không muốn nhìn vào những bức ảnh đó, nhưng tôi đã nhìn. Luôn có nhiều hơn một cách để bị chuột cắn, phải không nào?

Chiếc xe ăn cắp bị nổ lốp ở một vùng đồi cát tại Nebraska. Hai gã đàn ông đi bộ tới gần trong lúc Henry đang thay lốp dự phòng. Một trong hai gã rút một khẩu súng ngắn ra từ trong bao đựng hắn dấu dưới áo khoác - thứ vẫn được gọi là “búa đinh của du đãng” vào những ngày của thời Viễn Tây Hoang Dã - và chĩa thẳng vào đôi tình nhân đang chạy trốn. Henry không có bất cứ cơ hội nào để rút súng của thằng bé ra; khẩu súng đang nằm trong túi áo khoác, và nếu nó tìm cách lấy súng, hầu như chắc chắn con trai tôi đã bị giết chết. Vậy là kẻ cướp lại bị cướp. Henry và Shannon bước đi tay trong tay tới ngôi nhà của một gia đình nông dân gần đó dưới trời mùa thu lạnh lẽo, và khi người nông dân ra cửa hỏi ông ta có thể giúp được gì, Henry chĩa súng vào ngực người đàn ông này và nói nó muốn chiếc ô tô và toàn bộ tiền mặt của ông ta.

Cô gái đi cùng thằng bé, người nông dân kể lại với một phóng viên, đứng ngoài cửa đưa mắt nhìn đi chỗ khác. Ông ta nói ông nghĩ rằng cô bé lúc đó đang khóc. Người nông dân nói ông thấy ái ngại cho cô gái, vì trông cô vẫn còn bé nhỏ như một cô bé con, nhưng lại bụng mang dạ chửa như một người phụ nữ trưởng thành, và lại lang thang cùng một kẻ liều mạng trẻ tuổi đang hướng tới một kết cục chẳng tốt đẹp gì.

Cô gái có tìm cách ngăn cậu con trai lại không? người phóng viên hỏi. Có cố gắng thuyết phục cậu ta từ bỏ ý định không?

Không, người nông dân trả lời. Cô gái chỉ đứng đó, quay lưng lại, như thể nghĩ rằng nếu cô không nhìn thấy gì, thì việc đó coi như không hề xảy ra. Chiếc xe hiệu Reo cũ kỹ xộc xệch của người nông dân được tìm thấy bị bỏ lại gần trạm xe lửa McCook, với một lời nhắn để lại trên ghế: Xin trả lại ông chiếc xe, chúng tôi sẽ gửi lại số tiền đã cướp khi chúng tôi có thể. Chúng tôi chỉ lấy của ông vì chúng tôi đang lâm vào cảnh khốn cùng. Rất xin lỗi ông, “Đôi Tình Nhân Du Đãng.” Cái tên đó là ý tưởng của ai vậy? Nhiều khả năng là của Shannon; lời nhắn do cô bé viết. Hai đứa chỉ dùng biệt danh đó vì chúng không muốn để lộ tên thật, nhưng các huyền thoại được tạo ra từ những chi tiết nhỏ nhặt như vậy đó.

Một hay hai ngày sau, một vụ cướp xảy ra tại ngân hàng nhỏ Frontier Bank ở Arapahoe, Colorado. Kẻ cướp - đội mũ lưỡi trai kéo sụp xuống thấp và một chiếc khăn bịt kín mũi miệng - chỉ có một mình. Hắn cướp được chưa tới 100 đô la và tẩu thoát trên một chiếc Hupmobile đã được báo bị đánh cắp tại McCook. Ngày hôm sau, tại The First Bank of Cheyenne Wells (cũng là ngân hàng duy nhất tại Cheyenne Wells), người thanh niên trẻ đi cùng một cô gái trẻ. Cô gái cũng buộc khăn che mặt, nhưng không thể dấu được việc mình đang có thai. Hai người tẩu thoát mang theo 400 đô la và lái xe hết tốc độ rời khỏi thị trấn, hướng về phía tây. Một chốt kiểm soát được thiết lập trên đường đi Denver, nhưng Henry đã khôn ngoan và tiếp tục gặp may. Hai đứa rẽ xuống phía nam không lâu sau khi rời khỏi Cheyenne Wells, băng qua các con đường đất và đường mòn dành cho gia súc.

Một tuần sau, một đôi trai gái trẻ xưng tên Harry và Susan Freeman lên tàu đi San Francisco tại Colorado Springs. Tại sao hai đứa lại đột ngột xuống tàu tại Grand Junction tôi không biết và Arlette cũng không nó - có lẽ chúng đã thấy điều gì đó khiến chúng cảnh giác, tôi đoán là vậy. Tất cả những gì tôi biết là chúng cướp một ngân hàng tại đó, rồi một ngân hàng nữa ở Ogden, Utah. Có lẽ đó là cách để chúng tích lũy tiền cho một cuộc sống mới. Và ở Ogden, khi một người đàn ông tìm cách chặn Henry lại ở ngoài ngân hàng, Henry đã bắn vào ngực anh ta. Người đàn ông tuy thế vẫn tóm được Henry, và Shannon đẩy anh ta ngã lộn xuống bậc thềm bằng đá granit. Hai đứa trốn thoát. Người đàn ông bị Henry bắn qua đời hai ngày sau trong bệnh viện. Đôi Tình Nhân Du Đãng đã trở thành những kẻ sát nhân. Ở Utah, những kẻ bị buộc tội giết người sẽ bị treo cổ.

Khi đó là vào khoảng gần Lễ Tạ ơn, mặc dù tôi không rõ là trước hay sau. Cảnh sát ở phía tây dãy Rockie đã nhận được bản mô tả nhân dạng hai đứa và đang tiến hành truy nã. Lúc đó tôi đã bị con chuột nấp trong tủ quần áo cắn - tôi nghĩ là vậy - hoặc sắp bị. Arlette nói với tôi chúng đã chết, nhưng không phải thế; có nghĩa là hai đứa vẫn còn sống khi cô ta và đám tùy tùng vương giả của cô ta tới gặp tôi. Có thể cô ta đã nói dối hay tiên đoán. Với tôi, cả hai đều như nhau.

Điểm dừng cuối trước đoạn kết của chúng là Deeth, Nevada. Hôm ấy là một ngày lạnh cắt da cắt thịt cuối tháng Mười một hoặc đầu tháng Mười hai, bầu trời trắng xóa và bắt đầu có tuyết rơi. Hai đứa chỉ muốn gọi trứng và cà phê tại quán ăn duy nhất của thị trấn, song vận may của chúng đã gần cạn. Chủ cửa hàng vốn là người ở Elkhorn, Nebraska, và mặc dù anh ta không còn ở quê nhà từ nhiều năm qua, mẹ anh ta vẫn đều đặn gửi cho con trai các số báo World Herald theo từng tập dày cộm. Anh ta vừa mới nhận được một tập báo như thế vài ngày trước, và nhận ra Đôi Tình Nhân Du Đãng ở Omaha đang ngồi tại một bàn trong quán của mình.

Thay vì gọi điện cho cảnh sát (hay báo cho các bảo vệ ở khu mỏ đồng kế bên, một giải pháp chắc chắn sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn), anh ta quyết định vào vai công dân phụng sự công lý. Anh ta lấy một khẩu súng ngắn cao bồi cũ kỹ cục mịch từ dưới quầy bán hàng ra, chĩa vào hai đứa, và yêu cầu chúng - theo đúng truyền thống Viễn Tây nguyên chất nhất - giơ tay lên trời. Henry không làm theo. Thằng bé đứng dậy khỏi bàn, bước về phía tay chủ quán và nói: “Đừng làm thế, anh bạn, chúng tôi không hề có ý hại anh, chúng tôi sẽ trả tiền rồi đi.”

Anh chàng chủ quán bóp cò và khẩu súng cổ lỗ không nổ. Henry giật nó khỏi tay anh ta, đập vỡ, nhìn vào ổ đạn rồi phá lên cười. “Tin tốt đây!” nó nói với Shannon. “Những viên đạn này đã ở trong súng lâu đến mức xanh lè cả ra rồi.”

Con trai tôi để 2 đô la lên quầy - để trả tiền bữa ăn của hai đứa - rồi sau đó phạm phải một sai lầm khủng khiếp. Tới hôm nay, tôi tin mọi chuyện hẳn rồi sẽ kết thúc không hay cho chúng bất chấp chuyện gì đã xảy ra, vậy nhưng tôi vẫn ước gì tôi có thể gọi cho nó vọng qua những năm tháng đó: Đừng để khẩu súng xuống trong khi vẫn còn đạn. Đừng làm thế, con trai! Xanh lè hay không, hãy cho những viên đạn ấy vào túi con! Nhưng chỉ có những người chết mới có thể nói vọng qua thời gian; điều đó thì giờ đây tôi đã biết, và từ trải nghiệm của chính bản thân mình.

Khi hai đứa rời đi (tay trong tay, Arlette thì thầm vào vành tai đang nóng bỏng của tôi), tay chủ quán vồ lấy khẩu súng trên mặt quầy, giữ lấy nó bằng cả hai bàn tay, và siết cò lần nữa. Lần này súng nổ, và cho dù rất có thể anh ta nhắm vào Henry, viên đạn lại bắn trúng vào phần dưới lưng Shannon Cotterie. Cô bé kêu thét lên và nhào về phía trước qua cửa ra màn tuyết đang rơi bên ngoài. Henry đỡ kịp cô bé trước khi cô ngã và dìu bạn gái ra chiếc xe cuối cùng chúng đánh cắp, lại là một chiếc Ford khác. Anh chàng chủ quán cố tìm cách bắn thằng bé qua cửa sổ, và lần này khẩu súng cổ lỗ nổ tung trên tay anh ta. Một mảnh kim loại chém văng đi mắt bên trái của anh chàng. Tôi chẳng bao giờ thấy ái ngại về chuyện này. Tôi không phải là người dễ tha thứ như Charles Griner.

Bị thương nặng - có lẽ trên thực tế đã hấp hối - Shannon chuyển dạ trong khi Henry lái xe qua tuyết rơi dày về phía Elko, cách đó ba mươi dặm về phía tây nam, có lẽ vì nghĩ nó có thể tìm được một bác sĩ ở đó. Tôi không biết ở đó có bác sĩ hay không, nhưng chắc chắn tại đây có một đồn cảnh sát, và tay chủ quán gọi điện đến đó trong khi những gì còn lại từ nhãn cầu của anh ta vẫn đang khô dần trên má anh chàng. Hai cảnh sát địa phương cùng bôn người của Đội Tuần tra Tiểu Bang Nevada đợi sẵn Henry và Shannon ở ngoài rìa thị trấn, nhưng Henry và Shannon không bao giờ trông thấy họ. Giữa Deeth và Elko là 30 dặm đường, và Henry chỉ đi qua được 28 dặm.

Vừa vào tới địa giới thị trấn (nhưng vẫn còn cách xa bên rìa của nó), chút vận may cuối cùng của Henry cũng cạn nốt. Với Shannon đang gào thét và ôm bụng trong lúc cô bé chảy máu dầm dề ra khắp ghế ngồi, chắc hẳn thằng bé đã lái xe rất nhanh - quá nhanh. Hoặc có thể nó đâm phải một ổ gà trên đường. Dù thế nào đi nữa, chiếc Ford bị trượt xuống rãnh và sa lầy. Hai đứa ngồi đó giữa chốn đồng không mông quạnh trống trơn trong khi cơn gió mỗi lúc một mạnh thêm thổi tuyết bay tung tóe khắp xung quanh chúng, và lúc đó Henry đã nghĩ gì? Rằng việc mà nó và tôi đã làm ở Nebraska đã dẫn nó và cô gái nó yêu tới nơi này ở Nevada. Arlette không nói với tôi điều này, nhưng cô ta cũng chẳng cần phải nói. Tôi biết.

Thằng bé thoáng thấy bóng dáng một ngôi nhà qua làn tuyết rơi dày, và đỡ Shannon ra khỏi xe. Cô bé gắng gượng đi được vài bước trong cơn gió, rồi không thể gắng thêm được nữa. Cô gái biết làm môn nượng dác và đáng ra đã có thể trở thành nữ sinh đầu tiên tốt nghiệp trường sư phạm Omaha ngả đầu lên vai người bạn trai trẻ tuổi của mình và nói, “Em không thể đi xa hơn nữa đâu, anh yêu, để em xuống đất đi.”

“Đứa bé thế nào rồi?” con trai tôi hỏi cô bé.

“Đứa bé đã chết, và em cũng muốn chết,” cô gái nói. “Em không chịu nổi đau đớn nữa. Thật khủng khiếp quá. Em yêu anh, anh yêu, nhưng hãy để em xuống đất đi.”

Thay vì làm thế, thằng bé mang bạn gái nó tới chỗ ngôi nhà vừa lờ mờ hiện ra như một bóng ma, hóa ra chỗ này cũng chỉ là một chái nhà chẳng khác là mấy ngôi lán gần Boys Town, nơi có hình một chai Royal Crown Cola vẽ lên tường đã phai màu. Trong nhà có lò sưởi, nhưng không có củi. Thằng bé ra ngoài vơ lấy ít gỗ vụn trước khi chúng bị tuyết vùi lấp, rồi quay vào trong nhà. Shannon đã bất tỉnh. Henry nhóm lò lên, rồi sau đó đặt đầu cô bé lên lòng mình. Shannon Cotterie đã chết trước khi đống củi nhỏ thằng bé vừa nhóm kịp bắt lửa, và giờ chỉ còn lại mình Henry, ngồi trong một chái nhà tồi tàn, nơi trước nó từng có một tá cao bồi bẩn thỉu ngả lưng, thường trong trạng thái say khướt hơn là tỉnh táo. Con trai tôi ngồi đó, vuốt ve mái tóc Shannon trong khi gió rít lên bên ngoài, và mái thiếc của chái nhà run rẩy.

Tất cả những việc này Arlette đã kể cho tôi nghe vào một ngày khi hai đứa trẻ bị số mệnh kết án đó vẫn còn sống. Cô ta kể cho tôi nghe tất cả trong lúc những con chuột bò lổm ngổm xung quanh tôi, và mùi thối rữa ghê tởm của cô ta đặc quánh lại trong mũi tôi, còn bên cánh tay nhiễm trùng sưng phồng của tôi đau như có lửa thiêu.

Tôi cầu xin cô ta hãy giết tôi đi, hãy mở toang cuống họng tôi ra như tôi đã làm với cô ta, và cô ta không đồng ý.

Đó là sự báo thù của cô ta.

Có lẽ đã có thêm hai ngày nữa trôi qua khi có người tìm đến trang trại gặp tôi, thậm chí là ba, song tôi không tin thế. Tôi nghĩ chỉ là một ngày. Tôi không tin tôi có thể trụ thêm được hai hay ba ngày mà không được cứu giúp. Tôi đã ngừng ăn, và gần như không uống gì nữa. Dẫu vậy, tôi vẫn đủ sức rời khỏi giường và lê bước ra cửa khi tiếng đấm cửa vang lên. Một phần trong tôi nghĩ đó có thể là Henry, bởi vì một phần trong tôi vẫn dám hy vọng cuộc viếng thăm của Arlette chỉ là một ảo giác xuất hiện trong cơn mê sảng... và cho dù nếu nó đúng là có thật đi nữa, rằng cô ta đã nói dối.

Người đến là cảnh sát trưởng Jones. Hai đầu gối tôi khuỵu xuống khi tôi nhìn thấy ông ta, và tôi đổ vật ra trước. Nếu ông ta không đỡ tôi, hẳn tôi đã ngã sấp xuống trước cửa. Tôi cố nói cho ông ta biết về Henry và Shannon - rằng Shannon sắp bị bắn, rằng hai đứa sắp tới một chái nhà ở ngoại ô Elko, và rằng ông ta, cảnh sát trưởng Jones, cần gọi cho ai đó và ngăn cản bi kịch lại trước khi nó xảy ra. Tất cả được nói ra một cách lộn xộn, nhưng ông ta nghe được những cái tên.

“Con trai ông đã bỏ trốn với cô bé, được rồi,” Jones nói. “Nhưng nếu Harl tới và kể cho ông biết tất cả chuyện đó, tại sao ông ấy lại để ông lại trong tình trạng thế này? Cái gì đã cắn ông?”

“Chuột,” tôi cố nói.

Ông ta đưa một cánh tay vòng quanh người tôi và nửa dìu nửa mang tôi xuống các bậc thềm ra phía chiếc xe của ông ta. Con gà trống George nằm cứng đờ dưới sân bên cạnh đống củi, và những con bò đang rống lên. Lần cuối cùng tôi cho chúng ăn là khi nào nhỉ? Tôi chẳng còn nhớ nữa.

“Cảnh sát trưởng, ông cần phải...”

Nhưng ông ta ngăn tôi lại. Ông ta nghĩ tôi đang mê sảng, mà sao lại không chứ? Ông ta có thể cảm thấy cơn sốt nóng hầm hập đang phả ra từ người tôi, nhìn thấy nó đỏ lựng trên mặt tôi. Hẳn lúc đó ông ta có cảm giác như đang bê một cái lò. “Ông cần giữ sức. Và ông cũng cần biết ơn Arlette, bởi vì tôi sẽ chẳng bao giờ ghé qua chỗ này nếu không vì cô ta.”

“Chết rồi,” tôi lắp bắp.

“Phải. Cô ta đã chết, được rồi.”

Vậy là sau đó tôi nói với ông ta rằng tôi đã giết vợ, và ôi, nhẹ nhõm làm sao. Một đường ống tắc nghẽn bên trong đầu tôi đã được mở thông một cách thần kỳ, và con ma ám ảnh mắc kẹt trong đó cuối cùng cũng thoát đi.

Ông cảnh sát trưởng lẳng tôi vào trong xe như một bao lúa mì. “Chúng ta sẽ nói chuyện về Arlette, nhưng bây giờ tôi phải đưa ông tới bệnh viện Thiên thần Nhân ái, và tôi sẽ rất cảm ơn nếu ông không nôn mửa ra trong xe của tôi.”

Trong khi ông ta lái xe rời khỏi sân, để lại đằng sau con gà trống đã chết và đám bò cái đang ậm ò (và cả lũ chuột nữa! đừng quên chúng! phải rồi!), tôi cố nói với ông ta lần nữa rằng rất có thể vẫn chưa quá muộn cho Henry và Shannon, rằng có thể vẫn kịp cứu hai đứa. Tôi nghe thấy mình đang nói đây là những điều có thể xảy ra, như thể tôi là Bóng Ma Đêm Giáng Sinh Sắp Tới trong chuyện của Dickens. Rồi tôi ngất đi. Khi tôi tỉnh lại, lúc ấy đã là ngày 2 tháng Mười hai, và báo chí miền Tây đang đăng tin “ĐÔI TÌNH NHÂN DU ĐÃNG THOÁT KHỎI TAY CẢNH SÁT ELKO, LẠI TẨU THOÁT. Hai đứa trẻ đã không thoát được, nhưng vẫn chưa ai biết. Ngoại trừ Arlette, tất nhiên rồi. Và tôi nữa.

Người bác sĩ cho rằng chứng hoại thư chưa lan tới phần cánh tay của tôi, và đánh cược mạng sống của tôi bằng cách chỉ cắt bỏ bàn tay trái. Một cuộc đánh cược ông ta đã dành phần thắng. Năm ngày sau khi được cảnh sát trưởng Jones đưa tới bệnh viện Thiên thần Nhân ái ở thành phố Hemingford, tôi nằm xanh xao hốc hác như một bóng ma trên giường bệnh, sút đi tới hai mươi lăm cân Anh và mất bàn tay trái, nhưng vẫn còn sống.

Jones tới thăm tôi, khuôn mặt ông ta đượm vẻ nghiêm trọng. Tôi đợi ông ta thông báo bắt tôi vì tội sát hại vợ, sau đó còng bàn tay còn lại của tôi vào cọc giường. Song chuyện đó chẳng bao giờ xảy ra. Thay vì làm thế, ông ta nói với tôi ông ta thông cảm tới mức nào trước mất mát của tôi. Mất mát của tôi! Gã ngốc đó thì biết gì về mất mát?

Tại sao tôi lại ngồi trong căn phòng khách sạn tồi tàn này (nhưng không chỉ có một mình!) thay vì nằm dưới huyệt mộ dành cho một kẻ sát nhân? Tôi sẽ trả lời cho các vị hay với hai từ: mẹ tôi.

Giống như cảnh sát trưởng Jones, bà có thói quen gia giảm cho những cuộc trò chuyện của mình bằng các câu hỏi tu từ. Với ông ta, đây là một công cụ giao tiếp ông ta đã thu thập được sau cả một đời làm việc trong lực lượng thực thi pháp luật - ông ta hỏi những câu hỏi bâng quơ ngớ ngẩn, sau đó quan sát đối tượng ông ta đang đối thoại để tìm kiếm bất cứ phản ứng tội lỗi nào: một cái nhăn mặt, cau mày, một cái nhướng mắt thoáng qua. Với mẹ tôi, đó chỉ là một thói quen khi nói mà bà đã thừa hưởng từ chính mẫu thân của mình, một người Anh, rồi truyền lại cho tôi. Tôi đã mất hết bất cứ chút giọng Anh mơ hồ nào tôi từng có, nhưng chưa bao giờ để mất cách mẹ tôi chuyển những lời trình bày thành các câu hỏi. Tốt hơn bây giờ con nên vào trong nhà, phải không nào?bà sẽ nói như thế. Hoặc Bố con lại quên mất bữa trưa của ông ấy rồi; con sẽ phải mang nó tới cho ông ấy, đúng không?Thậm chí cả những gì quan sát được về thời tiết cũng được thể hiện ra thành câu hỏi: Thêm một ngày mưa nữa, phải không nào?

Mặc dù tôi đang sốt cao và rất yếu khi cảnh sát trưởng Jones tới trước cửa nhà tôi vào ngày cuối tháng Mười một ấy, tôi vẫn chưa mê sảng. Tôi còn nhớ rất rõ cuộc trò chuyện giữa hai chúng tôi, theo cách một người có thể nhớ lại những hình ảnh trong một cơn ác mộng đặc biệt sống động.

Ông cũng cần biết ơn Arlette, bởi vì tôi sẽ chẳng bao giờ ghé qua chỗ này nếu không vì cô ta, ông cảnh sát trưởng lúc ấy đã nói thế.

Chết rồi, tôi đáp.

Cảnh sát trưởng Jones: Cô ta đã chết, được rồi.

Và sau đó, tôi đã nói đúng như tôi học được khi còn ngồi trên đầu gối mẹ tôi: Tôi đã giết cô ta, phải không?

Cảnh sát trưởng Jones đã coi cách diễn đạt tu từ đó của mẹ tôi (và của chính ông ta nữa, đừng quên) là một câu hỏi thực sự. Nhiều năm sau đó - tại nhà máy nơi tôi tìm thấy việc làm sau khi mất trang trại - tôi nghe một quản đốc mắng nhiếc một nhân viên bàn giấy vì gửi một đơn hàng tới Des Moines thay vì Davenport trước khi anh này nhận được vận đơn từ văn phòng phía trước.Nhưng chúng ta luôn gửi các đơn hàng ngày thứ Tư tới Des Moines, anh chàng nhân viên sắp bị sa thải phản kháng lại. Tôi chỉ đơn giản là cho rằng...

Cho rằng đã biến cả cậu và tôi thành đồ ngốc, tay quản đốc đáp lại. Tôi đoán đó là một cách diễn đạt chẳng mới mẻ gì, nhưng đó là lần đầu tiên tôi nghe thấy nó. Và liệu có gì đáng ngạc nhiên nếu tôi nghĩ tới cảnh sát trưởng Jones khi nghe thấy những lời ấy? Thói quen biến những lời trình bày thành câu hỏi của mẹ tôi đã cứu tôi thoát khỏi ghế điện. Tôi đã không bao giờ bị một bồi thẩm đoàn kết án vì vụ sát hại vợ mình.

Nghĩa là cho tới lúc này.

Chúng đang ở đây cùng với tôi, nhiều hơn nhiều so với con số mười hai, xếp hàng dưới chân tường khắp quanh phòng, quan sát tôi với những con mắt bóng nhoáng như thoa dầu của chúng. Nếu một cô phục vụ phòng mang ga trải giường mới bước vào và thấy ban bồi thẩm lông lá này, chắc hẳn cô ta sẽ phải co rúm người lại bỏ chạy, nhưng sẽ chẳng có người phục vụ phòng nào tới; tôi đã treo tấm biển KHÔNG QUẤY RẦY ngoài cửa từ hai hôm trước, và nó vẫn nằm nguyên chỗ cũ từ lúc đó. Tôi đã không ra ngoài. Tôi có thể gọi đồ ăn từ dưới nhà hàng cuối phố, tôi đoán vậy, song tôi ngờ rằng thức ăn sẽ làm chúng chồm tới. Dù sao tôi cũng không đói, vậy nên đây cũng không phải là thiếu thốn gì lớn lắm. Cho tới lúc này, chúng, các bồi thẩm của tôi, đã tỏ ra nhẫn nại, nhưng tôi ngờ rằng chúng sẽ không còn như vậy được lâu nữa. Giống như bất cứ bồi thẩm đoàn nào, chúng đang bồn chồn chờ đợi lời chứng hoàn tất để có thể đưa ra lời tuyên án, nhận phần thù lao (mà trong trường hợp này sẽ được trả bằng thịt) và quay về nhà với gia đình chúng. Vậy nên tôi cần phải kết thúc. Sẽ không lâu nữa. Phần khó khăn nhất đã xong.

Những gì cảnh sát trưởng Jones nói khi ông ta ngồi bên giường tôi trong bệnh viện là, “Ông đã thấy điều đó trong mắt tôi, tôi đoán vậy. Có đúng không?”

Tôi vẫn còn rất yếu, nhưng đã đủ bình phục để biết thận trọng. “Thấy gì cơ, ông cảnh sát trưởng?”

“Điều tôi tới để báo cho ông biết. Ông không nhớ gì nữa, phải không nào? Được thôi, tôi cũng không ngạc nhiên. Ông lúc đó là một người Mỹ đang ốm, Wilf. Tôi đã tin chắc ông sắp chết, và còn nghĩ không khéo ông sẽ chết trước khi tôi kịp đưa ông vào thành phố. Tôi đoán Chúa vẫn chưa xong việc với ông, phải vậy không?”

Còn một việc vẫn chưa kết thúc với tôi, nhưng tôi không nghĩ nó có gì can dự tới Chúa.

“Có phải là Henry không? Có phải ông tới báo cho tôi biết gì đó về Henry không?”

“Không,” ông ta nói, “tôi đến để báo về Arlette. Một tin xấu, xấu nhất có thể, nhưng ông không thể trách bản thân. Hoàn toàn không giống như chuyện ông đánh đập đuổi cô ta ra khỏi nhà bằng một cây gậy.” Ông ta cúi người ra trước. “Ông có lẽ đã nghĩ tôi không thích ông, Wilf, nhưng không phải vậy. Có vài người trong vùng này không ưa gì ông - và chúng ta biết họ là ai, phải không? - nhưng đừng gộp tôi vào với những người đó chỉ vì tôi phải cân nhắc tới lợi ích của họ. Ông đã làm tôi bực mình một vài lần, và tôi tin ông đáng ra vẫn là bạn tốt với Harl Cotterie nếu ông quản lý con trai mình nghiêm khắc hơn, song tôi vẫn luôn tôn trọng ông.”

Tôi nghi ngờ chuyện này, nhưng vẫn im lặng.

“Còn về những gì đã xảy đến với Arlette, tôi sẽ nhắc lại, vì đáng phải nhắc lại: ông không thể trách bản thân.”

Tôi không thể ư? Tôi nghĩ đó quả là một kết luận lạ đời có thể rút ra được, ngay cả với một nhân viên chấp pháp chưa bao giờ có thể làm người ta lẫn với Sherlock Holmes.

“Henry đang gặp rắc rối, nếu một vài thông báo tôi nhận được là đúng,” ông ta nói với giọng nặng nề, “và cậu ta đang lôi Shan Cotterie vào chỗ nước sôi lửa bỏng với mình. Rất có thể chúng sẽ bị bỏng. Như thế đã là quá đủ để lo lắng với ông, ngay cả khi không phải chịu trách nhiệm về cái chết của vợ mình đi nữa. Ông không cần phải...”

“Hãy kể cho tôi biết,” tôi nói.

Hai ngày trước khi ông ta ghé qua nhà tôi - có thể đúng là ngày con chuột cắn tôi, mà cũng có thể không phải, song vào khoảng đó - một nông dân đang trên đường tới Lyme Biska mang theo số nông sản cuối cùng của anh ta đã nhìn thấy ba con chó hoang dành giật nhau thứ gì đó cách con đường chừng hai mươi mét về phía bắc. Có lẽ anh ta đã đi tiếp nếu không đồng thời phát hiện thấy một chiếc giày da bóng của nữ giới và một đôi giày hở gót màu hồng nằm dưới rãnh. Anh ta dừng lại, lấy súng ra bắn để xua lũ chó hoang đi, rồi tiến vào trong cánh đồng để xem con mồi chúng vừa tranh nhau. Anh ta tìm thấy bộ xương của một phụ nữ với những mảnh trang phục rách nát và vài mẩu thịt còn dính vào. Những gì còn lại từ mái tóc của người phụ nữ có màu nâu nhạt, một sắc màu mà mái tóc nâu vàng của Arlette có thể biến thành sau nhiều tháng phơi ngoài trời.

“Hai trong số răng hàm đã bị mất,” Jones nói. “Arlette có bị mất hai răng hàm không?”

“Có,” tôi nói dối. “Bị mất sau một lần nhiễm trùng lợi.”

“Khi tôi tới ngay sau hôm cô ấy bỏ nhà đi, con trai ông có nói cô ấy mang theo mấy món nữ trang giá trị.”

“Phải.” Những món nữ trang ấy giờ đang ở dưới giếng.

“Khi tôi hỏi liệu cô ấy có mang theo tiền hay không, ông đã nhắc tới 200 đô la. Đúng vậy không?”

À, phải rồi. Món tiền tưởng tượng Arlette đã lấy đi từ ngăn kéo của tôi. “Đúng thế.”

Ông ta gật đầu. “Thế đấy, vậy là rõ rồi, vậy là rõ rồi. Vài món nữ trang và một ít tiền. Điều đó lý giải tất cả, ông có thấy thế không?”

“Tôi không thấy...”

“Bởi vì ông không nhìn nhận theo góc độ của một người thực thi pháp luật. Vợ ông đã bị cướp trên đường, có vậy thôi. Một kẻ lưu manh nào đó phát hiện ra một phụ nữ đang vẫy xe đi nhờ giữa Hemingford và Lyme Biska, cho cô ta lên xe, giết cô ta, cướp hết tiền và nữ trang, rồi mang xác vợ ông ra cánh đồng gần nhất ném đi đủ xa để không thể trông thấy được từ trên đường.” Từ khuôn mặt dài thượt của ông ta, tôi có thể thấy ông ta đang nghĩ nhiều khả năng người phụ nữ đã bị hiếp bên cạnh bị cướp, và có khi việc thi thể của cô ta không còn đủ để có thể nói chắc được việc này lại hóa hay.

“Vậy thì có lẽ là thế,” tôi nói, và bằng cách nào đó tôi đã có thể giữ được khuôn mặt nghiêm chỉnh cho tới khi ông ta ra về. Sau đó tôi lăn người úp xuống, và cho dù đã khiến phần tay cụt bị đau khi làm thế, tôi bắt đầu phá lên cười. Tôi úp mặt xuống gối, nhưng thậm chí như vậy cũng không thể làm im được hết tiếng cười. Khi bà y tá - một người đàn bà già nua xấu xí - tới và thấy nước mắt loang ra khắp trên mặt tôi, bà ta đoán (điều đã biến cả hai chúng ta thành đồ ngốc) rằng tôi vừa khóc. Bà ta đã mềm lòng, một điều tôi hẳn đã nghĩ không thể xảy ra, và cho tôi thêm một viên morphin nữa. Nói cho cùng, tôi là người chồng đang đau khổ và người cha phiền muộn. Tôi đáng được an ủi.

Và các vị có biết tại sao tôi lại cười không? Liệu có phải đó là thái độ cảm thông ngốc nghếch của Jones? Hay sự xuất hiện may mắn của một thi thể đàn bà rất có thể đã bị gã bạn đường nam giới của cô ta giết chết trong lúc cả hai đang say khướt? Là cả hai, nhưng chủ yếu là vì chiếc giày. Người nông dân nọ đã chỉ dừng lại kiểm tra xem đám chó hoang tranh nhau cái gì vì anh ta thấy một chiếc giày da bóng nữ giới dưới rãnh. Nhưng khi cảnh sát trưởng Jones hỏi về giày dép tại nhà tôi vào mùa hè trước đó, tôi đã nói với ông ta rằng đôi giày vải của Arlette là đôi đã biến mất. Gã ngốc đã quên khuấy mất.

Và ông ta đã chẳng bao giờ nhớ ra chi tiết này.

Khi tôi quay trở về trang trại, gần như toàn bộ gia súc gia cầm của tôi đã chết. Kẻ sống sót duy nhất là Achelois, nó nhìn tôi với đôi mắt đói ăn đầy oán trách và ậm ò phàn nàn. Tôi cho nó ăn một cách trìu mến như thể các vị cho một con vật nuôi làm cảnh ăn vậy, mà quả thực con bò cái cũng chỉ còn là như thế. Các vị còn có thể gọi theo cách nào được nữa một con vật giờ đây không thể đóng góp gì cho nguồn sống của gia chủ?

Từng có thời khi Harlan, với sự giúp đỡ của vợ ông ta, hẳn sẽ chăm sóc cho lũ vật nuôi thay tôi khi tôi ở trong bệnh viện; đó là cách những người láng giềng như chúng tôi cư xử với nhau ở vùng Trung Tây. Nhưng ngay cả khi tiếng kêu ai oán của những con bò cái sắp chết tôi nuôi bắt đầu vọng qua cánh đồng tới tai ông ta trong lúc ông ta ngồi vào bàn ăn bữa tối, ông ta vẫn tránh xa. Nếu tôi ở vào vị trí của ông ta, có lẽ tôi cũng đã hành động tương tự. Trong mắt Harl Cotterie (và của thiên hạ), con trai tôi đã không chỉ hài lòng với việc làm hại đời con gái ông ta; thằng bé đã lần mò theo cô gái tới tận nơi đáng ra là chốn ẩn thân của cô gái, bắt cóc cô bé đi, và ép buộc cô sống cuộc đời tội lỗi. Hoàn toàn có thể hình dung ra những câu chuyện về “Đôi Tình Nhân Du Đãng” đã gặm nhấm ông bố cô gái như thế nào! Như acid! Vậy đấy!

Tuần tiếp theo - vào quãng thời gian việc trang trí đón mừng Lễ Giáng sinh bắt đầu ở các khu trang trại và dọc theo phố chính của Hemingford Home - cảnh sát trưởng Jones lại tìm tới trang trại. Một cái liếc mắt nhìn qua khuôn mặt ông ta cho tôi biết ông ta đem đến tin gì, và tôi bắt đầu lắc đầu. “Không. Không thêm nữa. Tôi sẽ không nghe. Tôi không thể. Hãy đi đi.”

Tôi trở vào trong nhà, cố gắng đóng cửa chắn không cho ông ta vào, nhưng tôi vừa yếu hơn lại chỉ còn một bàn tay, và ông ta dễ dàng dùng sức mở được đường vào cho mình. “Bình tĩnh nào, Wilf,” ông ta nói. “Ông sẽ vượt qua được chuyện này.” Như thể ông ta biết mình đang nói về cái gì vậy.

Ông ta nhìn vào tủ bếp với cái cốc vại uống bia bằng sứ có vẽ hình trang trí đặt trên nóc, tìm thấy chai whisky đã gần cạn đến mức đáng buồn của tôi, rồi đổ chỗ rượu còn lại vào cái cốc, sau đó đưa nó cho tôi. “Bác sĩ chắc sẽ không tán thành,” ông ta nói, “nhưng ông ấy không có ở đây và ông sắp cần tới thứ này.”