Người thứ ba Eddie gặp trên thiên đường.
Một cơn gió bất chợt nhấc Eddie bổng lên và ông quay vòng vòng giống như chiếc đồng hồ quả quít ở một đầu của dây móc. Khói nổ bùng lên bao trùm ông, nó nuốt chửng thân xác ông vào luồng các màu sắc. Bầu trời dường như dồn lại cho tới khi ông cảm thấy được nó chạm vào da ông giống như tấm chăn trùm lại. Rồi nó bắn ra và nổ tung thành màu ngọc bích. Các vì sao xuất hiện, hàng triệu vì sao, giống như muối rắc ngang qua bầu trời xanh xanh.
Eddie chớp mắt. Bây giờ ông ở trên dãy núi, nhưng dãy núi hết sức khác thường, một dãy núi kéo dài bất tận với những đỉnh phủ tuyết, đá lởm chởm và những sườn màu tía hầu như thẳng đứng. Ở trong lòng giữa hai đỉnh núi là một cái hồ đen rộng. Trăng phản chiếu sáng ngời trên mặt hồ.
Xuôi theo dãy núi dài, Eddie thấy một nguồn sáng lung linh đầy màu sắc cứ vài giây lại thay đổi nhịp nhàng. Ông bước theo hướng đó - và nhận ra tuyết ngập sâu đến mắt cá chân của ông. Ông nhấc bàn chân lên và lắc mạnh. Những bông tuyết rụng ra, lấp lánh như vàng. Khi ông chạm vào chúng, chúng không lạnh cũng chẳng ướt.
Eddie nghĩ, Bây giờ tôi đang ở đâu? Một lần nữa, ông ta kiểm tra cơ thể mình, ấn vào vai, ngực và vào bụng mình. Các cơ tay của ông vẫn còn chắc, nhưng các bộ phận ở giữa lùng nhùng và nhão nhoẹt. Ông chần chừ, rồi siết chặt đầu gối trái. Nó rung lên đau đớn, và Eddie nhăn mặt. Ông hy vọng việc từ giã viên đại úy có thể khiến cho vết thương ông sẽ hết. Thay vào đó, dường như ông đã trở thành người đàn ông của chính ông khi ông còn ở dưới thế gian, có sẹo, béo mập và tất cả. Tại sao thiên đường làm cho người ta hồi tưởng lại sự tan rã của chính mình?
Ông theo những ánh đèn lung linh chiếu xuống dải đất hẹp trên dẫy núi. Phong cảnh yên bình và lặng lẽ, trông rất ngoạn mục, gần giống như ông đã mường tượng thiên đường như thế nào. Trong một lúc ông tự hỏi không biết mình bằng cách nào đã kết thúc cuộc đời, không biết viên đại úy có sai hay không, không biết ông có còn gặp ai nữa hay không. Ông đã đi qua miền tuyết phủ bờ đá để tới một khu quang đãng có những tia sáng phát ra. Ông lại chớp mắt - lần này ông không tin vào mắt mình.
Ở đó, trong cánh đồng phủ đầy tuyết, một tòa nhà trông giống như một toa chở hàng phủ ngoài một lớp thép không gỉ và bên trên là cái mái màu đỏ. Một bảng hiệu ở trên cao nhấp nháy từ: “ĂN”.
Một quán ăn.
Eddie đã trải qua nhiều giờ ở những nơi như thế này. Tất cả chúng đều trông giống nhau - các quán có tường phía sau cao, các mặt trên của các quầy bóng loáng, một dãy các cửa sổ có ô vuông nhỏ ở ngang phía trước, làm cho các thực khách trông có vẻ như những hành khách trong một toa xe lửa. Eddie bây giờ có thể nhận ra những hình ảnh qua những cái cửa sổ đó, người ta nói chuyện và đang diễn tả bằng điệu bộ. Ông đi lên bậc tam cấp tuyết phủ tới cửa có ô vuông kép. Ông nhìn săm soi vào bên trong.
Một cặp vợ chồng lớn tuổi đang ngồi ở bên phải ông, ăn bánh nhân táo; họ không thấy ông. Những khách hàng khác ngồi ở ghế xoay tại quầy bằng đá cẩm thạch hoặc bên trong các quầy có các móc treo áo khoác. Họ dường như đến từ các thập niên khác nhau: Eddie thấy một phụ nữ mặc chiếc áo đầm cao cổ vào thập niên 1930 và một thanh niên có mái tóc dài vào thập niên 1960 với biểu tượng hòa bình được xăm trên cánh tay. Nhiều khách hàng quen thuộc của quán trông có vẻ như bị thương. Một người đàn ông da đen mặc áo sơ mi làm việc bị cụt một cánh tay. Một cô gái ở tuổi mới lớn bị một vết thương dài và sâu trên mặt. Không người nào trong số họ để ý khi Eddie gõ nhẹ vào cửa sổ. Ông thấy các người đầu bếp đội mũ bằng giấy trắng và các đĩa thức ăn đang bốc khói trên quầy chờ sẵn để phục vụ - thức ăn có màu sắc hết sức mỡ màng: nước xốt đỏ đậm, kem bơ vàng. Ông đưa mắt tới quầy cuối cùng ở góc bên phải. Ông thấy ớn lạnh.
Ông chưa từng thấy những gì ông đã nhìn thấy.
♣ ♣ ♣
Ông nghe mình thì thầm, “Không”. Ông quay ra. Ông hít vào những hơi dài. Tim ông đập thình thịch. Ông choáng váng và quay lại nhìn, rồi đập thật mạnh vào các ô cửa.
Eddie kêu lên, “Không! Không! Không!” Ông đập mạnh cho tới khi ông biết chắc kính cửa phải bể. “Không!” Ông tiếp tục kêu lên cho tới khi ông nói được lời ông muốn, một từ mà ông đã không nói đến hàng thập niên, cuối cùng phát thành tiếng trong họng ông. Thế rồi ông gào lên từ đó - ông hét lên từ đó to đến nỗi đầu ông lùng bùng. Nhưng bóng người bên trong quầy vẫn cúi xuống, rõ ràng một bàn tay để trên bàn, bàn tay kia cầm điếu xì gà, cái bóng ấy chẳng bao giờ ngước nhìn lên cho dù Eddie gào lên bao nhiêu lần đi nữa, hết lần này đến lần khác:
“Ba! Ba! Ba!”
Hôm nay là sinh nhật của Eddie
Hành lang trơ trọi và tối mờ mờ của bệnh viện V.A, mẹ của Eddie mở hộp bánh màu trắng và sắp lại các cây nến trên cái bánh ấy cho đều, mỗi bên 12 cây nến. Những người còn lại - cha của Eddie, Joe, Marguerite, Micky Shea - đứng vây quanh bà, nhìn bà làm.
Bà nói nhỏ, “Có người nào có diêm không?”
Họ vỗ nhẹ vào túi của mình. Mickey móc ra một bao diêm từ áo vét của anh ta, làm rớt hai điếu thuốc rời xuống sàn nhà. Mẹ của Eddie đốt các cây nến. Thang máy hạ xuống hành lang phát ra tiếng kinh coong. Một chiếc cáng có bánh xe xuất hiện.
Bà nói, “Xong xuôi rồi, chúng ta đi”.
Các ngọn nến nhỏ cháy bập bùng khi họ đi cùng với nhau. Nhóm người ấy đi vào phòng của Eddie, vừa đi vừa hát một cách êm ái, “Happy birthday to you, happy birthday to-”
Người lính ở chiếc giường kế bên tỉnh dậy kêu lên, “Quỉ quái gì vậy?” Anh ta nhận ra anh ta ở đâu và hạ người xuống, lúng túng. Khi bị ngắt ngang, bài hát ấy dường như hết sức khó tiếp tục bắt trở lại được, và chỉ giọng của mẹ Eddie là còn tiếp tục ngân lên một mình.
“Happy birthday dear Ed-die...” (Mừng sinh nhật Eddie thân yêu) rồi nhanh hơn, “happybirthdaytoyou”.
Eddie chống người lên gối. Các vết bỏng của anh được băng bó.
Chân anh ta bị bó bột. Có một cặp nạng dựng bên giường. Anh nhìn vào khuôn mặt của những người này và anh khao khát được chạy thoát.
Joe hắng giọng, anh ta nói, “May quá, này, mày trông khá tốt đấy”.
Những người khác cũng đồng ý ngay. Tốt. Phải. Rất tốt.
Marguerite thì thầm, “Mẹ anh mang đến một cái bánh”.
Mẹ Eddie bước tới, như thể là tới phiên bà. Bà giơ ra hộp bánh bằng bìa cứng.
Eddie lẩm bẩm, “Cám ơn, Má”.
Bà rảo mắt. “Giờ chúng ta đặt cái hộp bánh này ở đâu?”
Mickey kéo một cái ghế. Joe dọn một mặt bàn nhỏ. Marguerite dời chỗ cặp nạng. Chỉ cha của anh không lay động gì vì cảm động. Ông đứng tựa vào tường phía sau, áo vét trên cánh tay ông, ông nhìn chằm chằm vào chân của Eddie, cái chân được bó bột từ đùi tới mắt cá.
Eddie bắt gặp ánh mắt của ông. Cha của anh nhìn xuống và bàn tay ông mần mò trên bậu cửa sổ. Eddie siết chặt mọi cơ bắp của cơ thể và cố hết sức mình nén những giọt nước mắt.
♣ ♣ ♣
Tất cả các cha mẹ đều làm hư hỏng con cái của họ. Không cách nào cứu chữa được. Tuổi trẻ, giống như tấm kính tinh khôi, dính phải những dấu tay của những người sử dụng nó. Một số cha mẹ làm hoen ố, những người khác làm rạn nứt, một số ít người làm tan vỡ tuổi thơ ấu hoàn toàn thành những mảnh vỡ có nhiều góc cạnh không sao hàn gắn lại được.
Sự hư hỏng ấy do cha của Eddie gây ra ngay từ đầu, sự hư hỏng do bị bỏ bê. Khi còn bé, Eddie hiếm khi được người đàn ông ấy bồng ẵm và khi là một đứa trẻ, anh ta hầu như bị túm lấy bằng cánh tay ít yêu thương, nhiều bực mình. Mẹ của Eddie thể hiện sự dịu dàng; còn cha của cậu thì ở đó để ra hình phạt.
Vào những ngày thứ bảy, cha của Eddie dẫn cậu ra cầu tàu. Eddie rời khỏi căn hộ với những ảo tưởng về vòng xoay ngựa gỗ và những cục kẹo hạt bông, nhưng sau khoảng một giờ, cha của cậu sẽ tìm một bộ mặt quen thuộc và nói, “Trông thằng bé cho tôi nhá?” Cho tới khi cha cậu trở lại, thường đã xế chiều, say mèm, Eddie thường được người biểu diễn nhào lộn hoặc một người huấn luyện thú canh giữ.
Mặc dù vậy, Eddie đã để ra không biết bao nhiêu giờ của tuổi trẻ để chờ đợi sự quan tâm của cha mình trên lối đi lót ván ở dọc bãi biển, ngồi trên các đường ray hoặc mặc quần cụt ngồi xổm trên đầu cái tủ dụng cụ ở xưởng sửa chữa. Cậu thường nói, “Con giúp được, con có thể giúp được!” nhưng chỉ có một việc cậu được giao là bò lê dưới vòng đu quay Ferris vào buổi sáng, trước khi công viên giải trí mở cửa, để lượm những đồng tiền cắc rơi ra khỏi túi của những người khách tới chơi vào tối hôm trước.
Mỗi tuần, cha cậu chơi bài ít nhất là bốn buổi chiều. Trên cái bàn ấy có tiền, có các chai rượu, có thuốc lá và có các phép tắc. Phép tắc đối với Eddie đơn giản là: Đừng quấy rầy. Khi cậu cố đứng bên cha mình và nhìn vào những lá bài của ông, ông liền bỏ điếu xì gà xuống và quát lên như sấm, vả vào mặt Eddie bằng mu bàn tay. Ông ta bảo, “Đừng thở vào tao”. Eddie bật lên khóc và mẹ của Eddie kéo cậu vào lòng, nhìn trừng trừng chồng mình. Eddie chẳng bao giờ đến gần như thế nữa.
Những đêm khác, khi canh bạc bị đen và các chai rượu cạn sạch, mẹ của cậu đã ngủ, cha cậu trút cơn thịnh nộ lên phòng ngủ của Eddie và Joe. Ông ta lục lọi những đồ chơi rẻ tiền, ném chúng lên tường. Thế rồi ông bắt những đứa con trai của mình nằm úp mặt xuống nệm khi ông rút dây lưng của mình ra và quất vào mông đít chúng, hét lên là chúng lãng phí tiền bạc của mình vào những thứ linh tinh. Eddie thường cầu sao cho mẹ cậu thức dậy, nhưng ngay cả những lúc bà thức dậy, cha của cậu cảnh cáo bà “đừng can thiệp vào”. Nhìn thấy bà ở phòng trước, cậu túm lấy áo của bà, nhưng làm vậy chẳng những chỉ vô ích mà còn làm cho sự việc tồi tệ hơn.
Vì thế nên những bàn tay in dấu trên tấm kính thời thơ ấu của Eddie mang tính khắc nghiệt, nhẫn tâm với những cơn tức giận tía tai đỏ mặt, và Eddie đã đi qua những năm tháng tuổi thơ của mình bằng đánh đập, roi vọt. Tiếp đến là cái hư hỏng thứ hai cho Eddie sau sự bỏ bê. Sự hư hỏng của bạo lực. Nó đã ăn sâu vào tâm hồn cậu đến nỗi cậu có thể biết ngay từ những tiếng chân đi dẫm thật mạnh xuống lối đi ở đàng trước là cậu sắp phải chịu khổ sở đến dường nào.
Qua tất cả hoàn cảnh ấy, mặc dù như thế, nhưng chính Eddie vẫn quí mến cha của mình, vì những đứa con trai sẽ quí mến cha của chúng cho dù bị đối xử thậm tệ nhất. Chính là cách chúng học được về sự trung thành, hiếu thảo. Trước khi ta có thể hiến thân mình cho Chúa hoặc cho một người phụ nữ, một cậu con trai sẽ hiến mình cho cha mình, thậm chí ngu dại, thậm chí không sao giải thích được.
♣ ♣ ♣
Và thỉnh thoảng, như thể để nuôi dưỡng những cục than hồng trong đám lửa sắp tàn, cha của Eddie để cho nếp nhăn kiêu hãnh làm rạn nứt cái vẻ mặt bên ngoài vô tâm của ông. Tại sân bóng bầu dục cạnh sân trường ở đường 14, cha của cậu đứng sau hàng rào nhìn Eddie chơi. Nếu Eddie ném bóng ra sân ngoài, thì cha cậu gật đầu, và khi thấy ông gật đầu thì Eddie nhảy lao tới gần các khu vực chạy ghi điểm. Những lần khác, khi Eddie về nhà sau khi đánh nhau ở ngoài đường, cha của cậu để ý thấy các khớp đốt ngón tay bị trầy xước hoặc môi bị dập. Ông sẽ hỏi, “Chuyện gì xảy ra với thằng kia?” và Eddie sẽ nói mình đã cho nó biết tay. Điều này cũng nhận được sự tán thành của người cha. Khi Eddie tấn công những đứa trẻ chọc tức anh của cậu - thì mẹ của cậu gọi chúng là “bọn du côn” - Joe bị xấu hổ và nấp vào trong phòng, nhưng cha của Eddie nói, “Đừng bao giờ quan tâm tới thái độ của Joe. Con là một đứa mạnh mẽ. Hãy là người bảo vệ anh của con. Đừng để đứa nào đụng đến nó”.
Khi Eddie bắt đầu học cấp hai, trong kỳ hè cậu đã bắt chước giờ giấc làm việc của cha mình, thức dậy trước khi mặt trời mọc, làm việc tại công viên giải trí cho tới lúc sẩm tối. Trước hết, cậu tập điều khiển các tàu lượn đơn giản hơn, cách sử dụng cần thắng, cho các toa xe lửa dừng nhẹ nhàng. Trong vài năm sau, cậu làm việc trong xưởng sửa chữa. Cha của cậu sẽ kiểm tra cậu về các vấn đề bảo trì. Ông giao cho cậu một cái tay lái bị hư và nói, “Sửa nó đi”. Ông chỉ một dây xích bị rối và nói, “Sửa nó đi”. Ông mang lại một cái đệm chắn bị han gỉ và ít giấy nhám, rồi nói, “Sửa sang nó đi”. Và cứ mỗi lần, sắp hoàn thành nhiệm vụ, Eddie đưa món ấy lại cho cha mình và nói, “Sửa xong rồi”.
Vào buổi tối họ quây quần tại bàn ăn, mẹ anh mập và mồ hôi nhễ nhãi do nấu ăn bên bếp lò, Joe, anh của cậu, nói chuyện suốt, tóc và da của anh ta bốc ra mùi nước biển. Joe đã trở thành một tay bơi lội giỏi và anh ta làm việc tại hồ bơi của Ruby Pier vào mùa hè. Joe nói về tất cả những người anh ta gặp ở đó, những bộ quần áo bơi, tiền nong của họ. Cha của Eddie không có ấn tượng gì cả. Eddie nghe lỏm được điều ông nói với mẹ mình về Joe. Ông nói, “Thằng bé đó chưa đủ dày dạn về bất cứ cái gì trừ nước”.
Tuy nhiên, Eddie ghen tị với cái mà cậu nhìn thấy ở anh mình vào những buổi chiều tối, nước da rám nắng và sạch sẽ. Các móng tay của Eddie cũng như của cha cậu bị bám dầu mỡ, và tại bàn ăn Eddie thường khơi chúng ra bằng móng tay cái để cố loại bỏ các vết dơ. Có lần cậu bắt gặp ánh mắt của cha mình khi ông nhìn và ông nhe răng cười.
Ông nói, “Những ngón tay ấy cho thấy con đã làm công việc của một ngày vất vả” và ông vẫn để các ngón tay bẩn trước khi nắm lấy ly bia.
Ở điểm này - đã là một thiếu niên dầy dạn - Eddie chỉ gật đầu lại. Cậu chẳng thể nào hiểu được là khi cậu bắt đầu học các trình tự về đèn tín hiệu cho xe lửa với cha mình, cậu phải loại bỏ lời nói hoặc tình cảm tự nhiên. Tất cả như đã ăn sâu vào trong con người. Sự từ chối tình cảm. Sự hư hỏng là ở đấy.
♣ ♣ ♣
Và rồi một đêm, cuộc nói chuyện hoàn toàn dừng lại. Đó là thời kỳ sau chiến tranh, khi Eddie đã được xuất viện, cái chân bó bột đã được tháo ra và anh trở về nhà ở đường Beachwood. Cha anh đang uống rượu tại quán rượu không xa và ông về nhà trễ cốt để xem Eddie có ngủ trên giường hay không. Cảnh tăm tối của chiến tranh đã khiến cho con người của Eddie thay đổi. Anh ta ở mãi trong nhà. Anh ta ít nói, ngay cả đối với Marguerite. Anh ta bỏ ra hàng giờ nhìn đăm chiêu ra ngoài cửa sổ nhà bếp, xem đường tàu lượn, xoa cái đầu gối bị đau của mình. Mẹ của anh thì thầm là “cần phải có thời gian”, nhưng cha anh mỗi ngày một thêm bị kích động. Ông ta không hiểu được sự chán nản ở trong anh. Còn đối với anh, nó là yếu điểm.
Ông la lên, “Thức dậy và đi kiếm việc làm”.
Eddie cựa quậy. Cha anh ta lại hét lên.
“Thức dậy... và đi kiếm việc!”
Ông già loạng choạng, nhưng ông cũng đi tới chỗ Eddie và thúc anh ta. “Thức dậy và đi kiếm việc! Thức dậy và đi kiếm việc! Thức dậy... và... Đi kiếm việc!”
Eddie giơ các khuỷu tay lên.
“Thức dậy và đi kiếm việc! Thức dậy và -”
Eddie hét lên, “ĐỦ RỒI!” sự bực mình dồn tới chân, quên cả cơn đau ở đầu gối. Anh ta nhìn trừng trừng cha anh, chỉ cách mặt ông vài inch. Anh ta có thể ngửi thấy hơi thở nồng nặc mùi rượu và thuốc lá.
Ông già liếc vào chân của Eddie. Giọng của ông hạ xuống thành tiếng làu bàu. “Thấy chưa? Mày... không... đau... lắm”.
Ông loạng choạng tung ra một cú đấm, nhưng theo bản năng Eddie tránh được và túm lấy cánh tay ông giữa lúc đang vung lên. Hai mắt của ông già mở to. Đây là lần đầu tiên Eddie tự bảo vệ mình, lần đầu tiên anh ta cưỡng lại không chịu nhận sự trừng phạt như thể anh đáng phải chịu. Cha của anh nhìn vào cái nắm đấm siết chặt của anh, không định hướng vào đâu, hai lỗ mũi của ông loe ra và hàm răng nghiến chặt, ông lảo đảo lùi lại và giật mạnh cánh tay còn để không của anh ta. Ông nhìn trừng trừng vào Eddie với ánh mắt của một người đang nhìn chiếc xe lửa chạy biến đi.
Ông không bao giờ nói chuyện với đứa con trai của mình nữa.
Đây là dấu tay cuối cùng còn để lại trên tấm kính của Eddie. Sự im lặng. Nó đã ám ảnh những năm tháng còn lại của họ. Cha anh im lặng khi Eddie về nhà, lặng thinh khi Eddie chọn nghề lái xe tắc xi, im lặng tại đám cưới của Eddie, im lặng khi Eddie đến thăm mẹ mình. Bà khẩn khoản và ứa nước mắt van xin chồng mình đổi ý, bỏ qua chuyện đó, nhưng nghiến chặt hàm răng, cha của Eddie cứ nhất định nói với bà những gì ông đã nói với những người khác khi họ đưa ra những yêu cầu tương tự như bà: “Thằng con trai đó đã giơ tay lên đánh tôi”. Và đó là sự kết thúc của câu chuyện.
Tất cả các cha mẹ đều làm con cái hư hỏng. Đây là cuộc sống chung của họ. Bỏ bê. Bạo lực. Im lặng. Và bây giờ, ở một nơi nào đó ngoài cái chết, Eddie loạng choạng tựa vào bức tường bằng thép không gỉ và té vào một ụ tuyết, lại day dứt vì sự từ chối tình thương của một người đàn ông, hầu như không cắt nghĩa được, ông vẫn còn khao khát, người cha đã bỏ bê ông, ngay cả ở thiên đường. Cha của chính ông. Sự hư hỏng đã ăn sâu vào rồi.
♣ ♣ ♣
Giọng của một phụ nữ nói, “Đừng tức giận. Ông ta không thể nghe được anh”.
Eddie ngẩng đầu lên. Một bà già đứng trước mặt ông trong mưa tuyết. Mặt bà hốc hác với hai má hóp vào, son môi màu hồng và mái tóc bạc thắt chặt về đàng sau, có những chỗ đủ thưa để lộ ra lớp da đầu màu hồng bên dưới. Bà đeo kính gọng kim loại trên đôi mắt xanh nhỏ.
Eddie không thể nhớ lại được bà ấy. Quần áo của bà có trước thời của ông, cái áo đầm được làm bằng lụa và the với vạt trên giống cái yếm tạp dề đính các hạt màu trắng và ở trên đỉnh có cái nơ con bướm bằng nhung ngay dưới cổ bà. Cái váy của bà có khóa dây lưng bằng kim cương giả và các cái khóa cài ở bên hông. Bà đứng với dáng tao nhã, cầm cái dù bằng cả hai tay. Eddie đoán bà ta giàu có.
Nhe răng cười như thể bà nghe thấy ông, bà nói, “Không phải luôn luôn giàu. Tôi được nuôi dưỡng phần lớn giống như anh, ở mãi dưới cuối phía sau phố, bị buộc phải bỏ học khi tôi lên mười bốn. Tôi là một cô gái làm việc chân tay. Các chị tôi cũng vậy. Chúng tôi mang về cho gia đình từng đồng xu."
Eddie cắt ngang. Ông không muốn có một câu chuyện khác. Ông hỏi gặng, “Tại sao cha tôi không nghe được tôi?”
Bà ta mỉm cười. “Vì tâm linh của ông ta - bình an vô sự - là một phần của sự bất diệt của tôi. Nhưng ông ta thực sự không ở đây. Anh mới đang ở đây”.
“Tại sao cha tôi lại bình an vô sự vì bà?”
Bà ngập ngừng.
Bà nói, “Hãy đến đây”.
♣ ♣ ♣
Thình lình họ ở dưới chân ngọn núi. Ngọn đèn từ bàn ăn bây giờ lập lòe, giống như một vì sao rớt vào khe hở của núi đá.
Bà già nói, “Đẹp thật, đúng không?” Đúng là có cái gì về bà như thể ông đã thấy hình của bà ở đâu đó.
“Có phải... người thứ ba của tôi không?"
Bà nói, “Tôi ở đó”.
Eddie xoa đầu. Người phụ nữ này là ai? Ít nhất với người đàn ông da xanh, ít nhất với viên đại úy, ông đã nhớ lại được nơi của họ trong cuộc đời ông. Tại sao một người lạ? Tại sao đây? Trước kia Eddie hy vọng cái chết sẽ có nghĩa là đoàn tụ với những người đã ra đi trước mình. Ông đã dự rất nhiều đám tang, đánh bóng đôi giày đen của mình, tìm được cái mũ, đứng trong nghĩa trang với cùng câu hỏi vô vọng: Tại sao họ qua đời mà tôi vẫn còn ở đây? Mẹ của ông. Anh của ông. Các cô dì, chú bác. Bạn thân Noel của ông. Marguerite. Vị linh mục sẽ nói, “Một ngày nào đó, tất cả chúng ta đều sẽ sum họp trên nước trời”.
Thế thì họ ở đâu? Eddie tìm hiểu kỹ bà già này. Ông cảm thấy cô đơn hơn bao giờ.
Ông thì thầm, “Tôi có thể thấy được trần gian không?”
Bà lắc đầu từ chối.
“Tôi có thể nói chuyện được với Chúa không?
“Anh luôn luôn có thể làm điều đó”.
Ông ta ngần ngừ trước khi hỏi câu hỏi kế tiếp.
“Tôi có thể trở về được không?”
Bà ta liếc nhìn, “Trở về?”
Eddie nói, “Đúng, trở về cuộc sống của tôi. Về cái ngày trước đó. Có điều gì tôi có thể làm được không? Tôi có thể hứa trở thành tốt được không? Tôi có thể hứa luôn luôn đi nhà thờ được không? Hoặc một điều gì đó?”
Bà dường như cảm thấy buồn cười, “Tại sao?”
Eddie lặp lại, “Tại sao?” Ông ta đập tay không vào tuyết mà không cảm thấy nước ẩm rịn ra. “Tại sao? Vì nơi này không có ý nghĩa gì với tôi. Vì tôi không cảm thấy như một thiên thần, nếu như là những gì tôi có thể cảm thấy như vậy. Vì tôi không cảm thấy như mình hoàn toàn hiểu rõ. Thậm chí tôi không thể nhớ được cái chết của chính mình. Tôi không thể nhớ được tai nạn ấy. Tất cả tôi chỉ nhớ là hai bàn tay nhỏ bé như thế - bé gái này tôi đang cố gắng cứu, thấy không? Tôi đang kéo nó ra khỏi con đường ấy và tôi chắc đã phải túm lấy các bàn tay của nó và đó là khi tôi...”.
Ông ta nhún vai.
Mỉm cười, bà già nói, “Chết? Qua đời? Đi đứt? Chầu trời?”
Thở ra, ông ta nói, “Chết, và tôi chỉ nhớ có thế. Rồi còn bà, những người khác, tất cả. Bà có cho rằng có sự yên bình khi bà chết không?”
Bà già nói, “Anh có sự yên bình khi anh tự tạo cho chính mình”.
Eddie lắc đầu nói, “Không. Không, bà, không”. Ông nghĩ phải kể với bà ta về sự bối rối mà ông đã cảm thấy hàng ngày từ khi có chiến tranh, những giấc mơ tồi tệ, ông không còn khả năng bình tĩnh về nhiều điều, kể về những lần ông đi ra bến tàu một mình và xem kéo cá bằng lưới rộng, bối rối vì ông thấy mình giống như những sinh vật vẫy vùng vô vọng đó, bị giăng bẫy và không sao trốn thoát.
Nhưng ông không kể cho bà ấy nghe chuyện đó. Thay vào đó ông nói, “Thật khó nói, thưa bà, nhưng tôi không quen biết bà”.
Bà ta nói, “Nhưng tôi biết anh”.
Eddie thở dài.
“Ồ phải không? Điều đó như thế nào?”
Bà ta bảo, “À, nếu anh có được một chốc lát”.
♣ ♣ ♣
Rồi bà ta ngồi xuống, mặc dù không có cái gì để ngồi. Bà chỉ tựa vào không khí và bắt chéo chân theo kiểu phụ nữ quí phái và luôn giữ lưng thẳng. Cái váy dài gấp lại gọn gàng chung quanh bà. Một cơn gió thoảng và Eddie thấy được mùi thơm thoang thoảng của nước hoa.
“Như tôi đã nói, trước kia tôi là một cô gái làm việc chân tay. Công việc của tôi là phục vụ thức ăn ở một nơi được gọi là Seahorse Grille. Nó ở gần biển, nơi anh lớn lên. Có lẽ anh nhớ điều đó?”
Bà ta gật đầu ra hiệu về phía bàn ăn và hình ảnh đó liền quay trở lại với Eddie. Đương nhiên. Nơi đó. Ông thường ăn sáng ở đó. Họ gọi nơi đó là một cái muỗng béo ngậy. Họ đã dẹp nó đi cách đây nhiều năm.
Suýt bật cười, Eddie nói, “Bà? Bà là người hầu bàn ở Seahorse?”
Một cách tự hào, bà nói, “Thật vậy, tôi phục vụ cà phê cho các công nhân bến tàu và bánh thịt cua và thịt heo muối cho những người kiếm sống ở bến tàu.
“Tôi là một cô gái duyên dáng trong những năm tháng đó, tôi có thể tính được là mình đã từ chối nhiều người cầu hôn. Các chị tôi la rầy tôi. Các chị nói, ‘Mày là ai mà hay kén chọn đến vậy? Hãy tìm một người đàn ông trước khi quá trễ.”
“Thế rồi một sáng nọ, một anh chàng nhìn đẹp trai nhất mà tôi đã từng thấy, đi qua cửa. Anh ta mặc bộ quần áo đen sọc trắng và đội cái mũ quả dưa. Mái tóc đen của anh ta được cắt gọn gàng và bộ ria của anh luôn nở một nụ cười. Anh ta gật đầu chào khi tôi dọn món ăn cho anh ta và tôi cố không để lộ ánh mắt của mình. Nhưng khi anh ta nói chuyện với đồng nghiệp của anh ta, tôi nghe thấy tiếng cười to đầy vẻ tự tin của anh ta. Tôi bắt gặp hai lần anh ta nhìn theo hướng của tôi. Khi trả tiền, anh ta nói tên mình là Emile và hỏi tôi xem anh ta có thể ghé đến chỗ tôi được không. Thế là ngay sau đó tôi biết là các chị tôi sẽ không còn phải thúc giục tôi quyết định.”
“Thời gian tìm hiểu của chúng tôi thật vui vẻ, đối với Emile, là một người có của ăn của để. Anh ta đưa tôi đi tới những chỗ tôi chưa bao giờ đến, mua cho tôi quần áo mà tôi chưa bao giờ tưởng tượng được, trả tiền những bữa ăn tôi chưa bao giờ nếm qua trong cuộc đời nghèo nàn phải nương thân tạm bợ. Emile đã phất lên giàu có từ những vụ đầu tư vào gỗ xẻ và thép. Anh ta là người biết tiêu tiền, một người dám liều lĩnh - anh ta hết sức phấn khích khi anh ta có được ý tưởng. Tôi cho rằng đó là lý do tại sao anh ta để ý đến một cô gái nghèo như tôi. Anh ta rất ghét những người được sinh ra trong sự giàu có và đúng hơn là anh ta thích làm những điều mà ‘những người sành điệu’ sẽ không bao giờ làm.”
“Một trong những thứ đó là tham quan các khu nghỉ mát bên bờ biển. Anh ta thích những phương tiện giải trí cuốn hút, món ăn có hương vị của biển cả, những dân du mục, những người coi bói, những người đoán trọng lượng và các cô gái bơi lặn dưới nước. Và chúng tôi thích biển. Một ngày kia, khi chúng tôi ngồi trên bãi cát, nước thủy triều cuốn lên dần dần đến chân chúng tôi, anh ta cầm tay tôi xin kết hôn.”
“Tôi vui mừng không tả được. Tôi nói với anh ta là tôi bằng lòng và chúng tôi nghe thấy những tiếng trẻ con chơi ở bãi biển. Emile lại hết sức phấn khích và thề rằng chẳng bao lâu anh ta sẽ xây dựng một công viên nghỉ mát dành riêng cho tôi để giữ lại niềm hạnh phúc của giây phút này - để trẻ mãi mãi”.
Bà già mỉm cười. “Emile đã giữ lời hứa của mình. Một vài năm sau, anh ta đã giao dịch với công ty đường sắt, họ đang tìm cách để tăng lượng khách đi tàu vào ngày cuối tuần. Đó là cách phần lớn những công viên giải trí đều được xây dựng ra sao mà anh biết”.
Eddie gật đầu. Ông ta biết. Hầu hết người ta không biết. Họ nghĩ các công viên giải trí được xây dựng bởi những nàng tiên bé nhỏ, và xây bằng những cây kẹo ngọt như đường. Thực ra, chúng chính là những cơ hội làm ăn của các công ty đường sắt, họ dựng lên các khu công viên này ở những trạm cuối của các tuyến, vì vậy những người đi làm bằng vé tháng sẽ có lý do để cưỡi tàu lượn vào những ngày cuối tuần. Bà biết nơi tôi làm việc? Eddie thường nói. Cuối tuyến. Đó là nơi tôi làm việc.
Bà già tiếp tục nói, “Emile xây dựng một nơi tuyệt vời nhất, một cầu tàu đồ sộ sử dụng gỗ xây dựng và sắt thép mà ông ta đã làm chủ. Rồi đến những phương tiện giải trí hấp dẫn - các cuộc đua ngựa, đi tàu lượn và các chuyến du lịch bằng tàu và các đường ray bé xíu. Còn có các vòng xoay ngựa gỗ được nhập khẩu từ Pháp và vòng đu quay Ferris từ một trong những cuộc triển lãm quốc tế ở Đức. Có các tháp và các chóp hình nón, và hàng ngàn ánh đèn sáng chói, rực rỡ đến nỗi vào ban đêm, bạn có thể nhìn thấy từ trên sàn tàu ở rất xa ngoài biển.
“Emile đã thuê hàng trăm công nhân, các công nhân thành phố, những người làm trò cười, và các công nhân nước ngoài. Ông mang về các thú vật, những người biểu diễn nhào lộn và các anh hề. Cổng vào là thứ cuối cùng được hoàn thành và nó thật sự đồ sộ. Mọi người đều nói như vậy. Khi công viên giải trí hoàn tất, anh ta bịt mắt tôi đưa tới đó. Khi anh ta mở khăn bịt mắt ra, tôi thấy nó”.
Bà già bước lùi lại cách Eddie. Bà ta nhìn ông ta với vẻ kỳ lạ, như thể đã làm cho bà bị thất vọng.
Bà ta nói, “Cổng vào? Phải chăng anh không nhớ? Phải chăng anh đã từng muốn biết về cái tên ấy? Anh làm việc ở đâu? Cha của anh làm việc ở đâu?”
Bà chạm nhẹ vào ngực mình với các ngón tay đi găng trắng. Thế rồi bà nghiêng người như thể chính thức tự giới thiệu về mình.
Bà nói, “Tôi là Ruby”.