← Quay lại trang sách

2. Trúc Lâm thị tịch [1]

Vua thứ ba của họ Trần là Nhân Vương [2], sau khi đã truyền ngôi cho Thế tử, bèn xuất gia tu hành, khắc khổ, tinh tiến [3], tuệ giải [4], siêu thoát, thành vị tổ sư ở một phương. Làm am trên đỉnh Tử Tiêu [5] núi Yên Tử, tự đặt hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ. Chị của Nhân Vương hiệu Thiên Thụy, làm nhiều điều trái đạo đàn bà. Ở Tử Tiêu, Đại sĩ [6] nghe tin chị ốm gần chết, bèn xuống núi về thăm, nói với Thiên Thụy rằng:

- Thời đến thì chị cứ đi, dưới Âm phủ có hỏi gì thì cứ trả lời là xin chờ một lát, em tôi là Trúc Lâm Đại Sĩ sẽ tới.

Nói xong trở về núi. Đi mấy ngày đến am, dặn dò đồ đệ các việc về sau rồi bỗng nhiên ngồi mà hóa [7]. Thiên Thụy cũng mất vào ngày hôm đó.

Chú thích:

[1] Trúc Lâm thị tịch: Trúc Lâm là hiệu của Trần Nhân Tông (húy Khẩm, con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu), là tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm Thiền tông ở nước ta. Thị Tịch - danh từ nhà Phật. “Thị” ở đây nghĩa là hiện ra, thể hiện, làm cho thấy... “Tịch” ở đây có nghĩa là tịch diệt - dịch nghĩa chữ Niết bàn trong tiếng Phạn. Cái chết của Phật Bồ Tát (Bouddha) hay của các cao tăng đều gọi là tịch, có nghĩa là sự chuyển hóa từ hiện tượng này sang hiện tượng khác, chứ không phải là mất đi thật. Vậy “Trúc Lâm thị tịch” có nghĩa là sự chết của Trúc Lâm.

[2] Tức Trần Nhân Tông.

[3] Tinh tiến: chữ nhà Phật. Từ Tư trong cuốn Thượng sinh kinh sớ có giải thích: “Tinh, vị tinh thuần vô ố tạp cố; tiến, vị thăng tiến bất giải đãi cố = tinh, là nói sự thuần, không pha lẫn cái xấu, cái nhơ bẩn; tiến, là nói sự tiến lên không mệt mỏi, rã rời”.

[4] Tuệ giải: “Tuệ” là trí tuệ, sáng suốt, dịch nghĩa chữ bát nhã (prajna) trong tiếng Phạn. “Tuệ giải” là lý giải một cách sáng suốt.

[5] ĐVSKTT nói Trần Nhân Tông xuất gia ở ngọn Tử Phong.

[6] Chỉ Trúc Lâm.

[7] Đây có nghĩa là chết.