← Quay lại trang sách

20. Sống ngay thẳng, chết yên lành (Trung trực thiện chung)

Phạm Ngộ, Phạm Mại nguyên họ Chúc, người ở Lỵ Nhân [1], nước Giao Chỉ. Anh tên Kiên, em tên Cố [2], đều đậu cao khi còn ít tuổi, lừng lẫy tài danh. Khoảng năm Chí Chính [3], ra làm quan dưới triều Trần Minh Vương [4], trải qua những chức quan trọng. Vua cho rằng họ Chúc từ xưa không có người hiển đạt, bèn đổi Chúc Kiên thành Phạm Ngộ, Chúc Cố thành Phạm Mại.

Bấy giờ Vương thúc làm Thượng tể [5] nắm quyền bính trong nước, không né tránh sự hiềm nghi, lại có xích mích với Tể chấp [6]. Bỗng có kẻ thù hằn dựng ra chuyện cấp biến tâu lên trên để vu cáo Thượng tể. Tướng quốc kéo trăm quan cùng đàn hặc, kiến nghị ghép vào tội tử hình, riêng Phạm Mại làm Ngự sử trung thừa cố xin từ từ xét xử và thận trọng trong việc hình. Lúc này Thượng tể đã bị bắt, bọn gia thần liêu thuộc cùng thân thích, tôi tớ đều bị tống giam và giết chóc rất nhiều. Mại liên tiếp dâng sớ can ngăn, đương diện bẻ lại pháp ty, biện luận phân tích sự oan khuất, cố sức tranh cãi không thôi trước cơn thịnh nộ của vua. Vương thúc đã bị giam chết. Sau đó, được bằng chứng đích thực về sự vu cáo, kẻ gian bị bắt giam, vua rất thẹn và sợ, truy tặng cho Thúc phụ [7] hết sức hậu [8]. Bèn ban cho Mại bài thơ rằng:

Ô đài cửu hĩ cấm vô thanh,

Chỉnh đốn triều cương sự phỉ khinh.

Điện thượng ngang tàng ưng hổ khí,

Nam nhi đáo thử thị công danh.

Nghĩa là:

Đã lâu rồi, chôn đài ô câm bặt tiếng,

Chỉnh đốn triều cương không phải chuyện dễ,

Trên cung điện, tỏ chí khí ngang tàng như ưng, hổ,

Kẻ làm trai được như thế mới là công danh.

Tiếp đó, chuyển làm Tham tri chính sự. Nhiều năm trong Chính phủ Phạm Mại có tiếng tăm. Một hôm ốm nhẹ, ông cầm bút đề thơ rằng:

Tự tòng trích lạc hạ nhân gian,

Lục thập dư niên nhất thuấn khan.

Bạch Ngọc lâu tiền thu dạ nguyệt,

Triều chân y cựu bạng lan can.

Nghĩa là:

Từ khi bị đày đọa xuống cõi trần,

Hơn sáu mươi năm coi như một nháy mắt.

Dưới trăng đêm thu, trước lầu Bạch Ngọc,

Đến chầu trời, ta lại dựa vào lan can như cũ.

Đề thơ xong, ông vứt bút mà qua đời. Có Kính Khê thi tập lưu hành ở đời.

Ngộ cũng là người liêm chính, giỏi văn, tên tuổi ngang với em. Làm quan đến chức Thẩm hình viện sứ thì mất.

Chú thích:

[1] Lỵ Nhân: đời Trần có huyện Lỵ Nhân thuộc châu Lỵ Nhân, tương đương với một phần lớn tỉnh Hà Nam ở đời sau; huyện Lỵ Nhân có thể kề sát với huyện Nam Xương và Duy Tiên ở đời sau.

[2] Theo ĐVSKTT, thì anh (Phạm Mại) tên là Cố, em (Phạm Ngộ) tên là Kiên (Xem ĐVSKTT; Bản kỷ; Quyển VI; Kỷ nhà Trần).

[3] Chí Chính: niên hiệu cuối cùng của Nguyên Thuận Đế, từ 1314 đến 1368.

[4] Chỉ Trần Minh Tông (1314-1329). Ở đây tác giả đã nhầm lẫn. Triều Trần Minh Tông tương đương với các niên hiệu Diên Hựu (1314-1320), Chí Trị (1321-1323), Thái Định (1324-1327) và Thiên Lịch (1328-1329) của nhà Nguyên, nghĩa là trước niên hiệu Chí Chính khá lâu.

[5] Thượng tể: tên gọi chức Tể tướng; đây chỉ Huệ Võ Vương Quốc Chẩn, cha sinh ra Hiển Từ Tuyên Thánh hoàng hậu (vợ chính của Trần Minh Tông).

[6] Tể chấp: ở đây có lẽ chỉ Văn Hiến hầu (không rõ tên) là con của Tá thánh Thái sư Trần Nhật Duật.

[7] Thúc phụ: chú của vua, đây chỉ Quốc Chuẩn.

[8] Về việc này, ĐVSKTT chép như sau: “Khi ấy vua ở ngôi đã 15 năm, tuổi đã cao mà chưa lập Thái tử, cha sinh ra Hoàng hậu là Quốc Chẩn chủ trương nên đợi Hoàng hậu sinh ra con đích sẽ lập. Cương Đông Văn Hiến hầu (không rõ tên) là con của Tá thánh Thái sư Trần Nhật Duật (có sách chép là em của Nhật Duật) muốn đánh đổ Hoàng hậu mà lập Hoàng tử Vượng, mới đút lót 300 lạng vàng cho gia thần của Quốc Chẩn là Trần Phẫu, bào Phẫu vu cáo cho Quốc Chẩn về việc mưu phản. Vua tin là thực, giam Quốc Chẩn ở chùa Tư Phúc, rồi đem việc ấy hỏi Thiếu bảo Trần Khắc Chung. Khắc Chung cùng với mẹ sinh ra Hoàng tử Vượng đều là người ở Giáp Sơn, mà lại từng dạy Vượng học, cho nên vào hùa với Văn Hiến, mới trả lời rằng: ‘Bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó’. Vua mới cấm tuyệt không cho Quốc Chẩn ăn uống, bắt phải tự tử. Hoàng hậu lấy áo tẩm nước cho Quốc Chẩn uống, uống xong thì chết. Bắt đồng đảng hơn 100 người. Mỗi khi xét hỏi, người bị xét phần nhiều kêu oan. Vài năm sau, gặp khi vợ cả vợ lẽ tên Phẫu ghen nhau, đem việc Văn Hiến đút lót vàng tâu lên cho vua biết. Việc giao xuống cho ngục quan xét. Lê Duy là người cương trực, đem xét hỏi ngay ngày hôm ấy. Tên Phẫu bị tội lăng trì. Gia nô của Thiệu (không rõ tên) là em trai của Quốc Chẩn ăn sống hết cả thịt của Phẫu, Văn Hiến được miễn tội chết, giáng làm thứ nhân, xóa tên trong sổ”.