19. Ý thơ tươi mới (Thi ý thanh tân)
Trúc Lâm đại sĩ [1] có Thơ vịnh mai rằng:
Ngũ xuất viên ba kim niến tu,
San hô trầm ảnh hải lân phù.
Cá tam dông bạch chi tiền diện,
Thử nhất biện hương xuân thượng đầu.
Cam lộ dục ngưng si điệp tỉnh,
Dạ quang như thủy khát cầm sầu.
Hằng Nga nhược thức hoa giai sứ,
Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu.
Nghĩa là:
Năm cánh tròn xòe ra vuốt chòm râu vàng,
Bóng san hô chìm, vảy cá bể nổi.
Ba tháng mùa đông, trắng muốt phía trước cành,
Một cánh hoa thơm ngát buổi đầu xuân.
Hạt cam lộ sắp ngưng, chiếc bướm si choàng tỉnh,
Ánh trăng đêm như nước, con chim khát chạnh sầu,
Ả Hằng Nga ví biết cái đẹp của hoa.
Thì cũng đến bỏ vầng thiềm [2] giá lạnh và bóng quế [3] mát rợp.
Cái tươi mới, chắc khỏe ở đây vượt xa khuôn khổ người thường. Vị quốc quân nghìn xe [4] mà hứng cảm như vậy, ai bảo là người ta khi cùng khổ thì thơ mới hay [5]? Lại có hai bài tuyệt cú Sơn phòng mạn hứng rằng:
Thủy phược cánh tương cầu giải thoát,
Bất phàm hà tất mịch thần tiên.
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão,
Y cựu vân trang nhất tháp thiền.
Nghĩa là:
Nào ai trói buộc, việc gì phải tìm giải thoát,
Đã là người bất phàm, thì việc gì còn phải đi tìm thần tiên.
Vượn nhàn, ngựa nhọc, thì người phải già [6].
Vẫn một giường thiền chốn am mây.
Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch mịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Nghĩa là:
Chuyện thị phi rơi dần cùng hoa buổi sáng,
Lòng danh lợi lạnh ngắt với giọt mưa đêm.
Hoa tàn, mưa tạnh, núi non tịch mịch,
Một tiếng chim kêu, lại một mùa xuân sắp hết.
Ở đây có cái trong trẻo tuyệt vời, một màu bát ngát, tình thơ thanh thoát, ý thú siêu thuần. Có tập Đại hương hải ấn gồm rất nhiều bài thơ hay, đáng tiếc ở nước ấy gặp binh lửa, không được lưu truyền, tôi chỉ nhớ được một đôi bài mà thôi. Ôi, đáng tiếc thay!
Chú thích:
[1] Trúc Lâm đại sĩ: Chỉ Trần Nhân Tông, làm vua được 14 năm (1279-1293) thì nhường ngôi cho con là Anh Tông, sau đó đi tu ở núi Yên Tử, đạo hiệu là “Trúc Lâm Đầu Đà”, tự hiệu là “Trúc lâm đại sĩ”, là người khai sáng ra phái Trúc Lâm trong đạo Phật Việt Nam.
[2] Hằng Nga: tương truyền Hậu Nghệ xin được thuốc trường sinh ở Tây Vương Mẫu, Hằng Nga lấy cắp rồi chạy lên trăng.
[3] Thiềm: tương truyền trong trăng có con thiềm thừ (tức con cóc), cho nên gọi mặt trăng là “thiềm” hay “cung thiềm”.
[4] Quế: tương truyền trong trăng có cây quế, nên cũng gọi mặt trăng là “cung quế” hay “vừng quế”.
[5] Nghìn xe: (thiên thặng): nghìn cỗ binh xa. Theo chế độ nhà Chu, Thiên tứ có một vạn cỗ binh xa, Chư hầu có một nghìn cỗ binh xa.
[6] Dương Tu từng nói: “Không phải thơ làm cho người ta cùng khổ, nhưng có lẽ người ta gặp phải vận cùng thì thơ mới hay”.