25. Điểm thơ để phúc về sau (Thi triệu dư khánh)
Ông ngoại tổ phụ của cha Trừng [1] là Nguyễn Công, húy Thánh Huấn. Nguyễn Công thờ Trần Nhân Vương [2], làm chức Trung thư thị lang [3]. Tính rất nhân hậu. Từ lúc còn trẻ đã thi đỗ cao, hay thơ bậc nhất, đương thời không ai địch nổi, người đời sau gọi là thi tổ ở Phương nam. Từng có bài thơ Điền viên mạn hứng, trong có hai câu đối nhau rằng:
Sào điểu ký lâm hưu phạt mộc,
Nghị phong tại địa vị canh điền.
Nghĩa là:
Tổ chim đã gửi trên ngàn, gỗ thôi đừng chặt.
Ổ kiến đang làm dưới đất, ruộng chưa vội cày.
Thức giả khen là nhân ái đến cả loài vật, ắt để phúc cho con cháu. Sau đó Nguyễn Công gả con gái cho tằng tổ của tôi, tức là mẹ của ông tôi và bà thứ phi của Trần Minh Vương [4]. Bà Phi đã sinh ra Nghệ Vương [5]. Lúc bà mất, tổ tiên được phong tặng theo điển lệ “Tôn vinh môn phiệt”, cái phúc đương thịnh ấy quả đúng như lời thức giả đã nói, điều này đã thể hiện trong những câu thơ như trên chăng? Cho đến cháu ngoại bốn đời như Trừng ngày nay, ra tự hang sâu, dời đến cây cao [6], một khúc rãnh thừa cũng làm thành vật có ích, há chẳng phải do phúc trạch của tổ tiên chưa dứt, mới được sống gặp triều thánh [7], tắm gội nhân Nghiêu, mà có chuyện kỳ ngộ này ư?
Chú thích:
[1] Trừng: chỉ Hồ Nguyên Trừng, tác giả tự xưng.
[2] Chỉ Trần Nhân Tông (1279-1293).
[3] Theo ĐVSKTT, vào năm 1274, Trần Thánh Tông bổ nhiệm Nguyễn Thánh Huấn sung Nội thị học sĩ.
[4] Chỉ Trần Minh Tông (1314-1329).
[5] Chỉ Trần Nghệ Tông (1370-1372).
[6] Ra tự hang sâu, dời đến cây cao (xuất tự u cốc, thiên vu kiều mộc): hai câu thơ trong bài Phạt mộc ở phần Tiểu nhã trong Kinh Thi.
[7] Chỉ triều nhà Minh.