26. Thơ xứng chức Tể tướng (Thi xứng tướng chức)
Trần Nghệ Vương [1] khi mới làm Tể tướng, có bài thơ Tống Nguyên sứ (Tiễn sứ nhà Nguyên) rằng:
An Nam lão tướng bất năng thi,
Không bả kim tôn tống khách quy.
Viên Tản sơn cao Lô thủy bích,
Dao chiêm ngọc tiết ngũ vân phi.
Nghĩa là:
Lão Tể tướng nước An Nam không thạo làm thơ,
Ngồi suông trước chén vàng tiễn khách ra về.
Núi Tản Viên cao, dòng Lô Thủy biếc,
Vời trông theo cờ sứ bay vào trăm thức mây [2].
Người em của Nghệ Vương là Cung Tín [3] tính thanh nhã, thích thi họa, sau làm chức Hữu tướng quốc, cũng có bài thơ Tầm u rằng:
Kiều thất bát trùng hồng uyển chuyển,
Thủy đông tây chiết lục oanh hồi.
Bất nhân khán thạch tầm mai khứ,
An đắc thăng bình Tể tướng lai.
Nghĩa là:
Cầu bảy tám lớp như chiếc mống cong cong,
Nước đông tây gấp khúc, màu xanh uốn lượn.
Không vì đi tìm mai, ngắm đá,
Thì Tể tướng đâu có dịp nhân thái bình đến thăm chốn này [4].
Chú thích:
[1] Chỉ Trần Nghệ Tông (1370-1372).
[2] Theo ĐVSKTT, thì Trần Nghệ Tông làm bài thơ này vào dịp tiễn sứ nhà Minh (chứ không phải sứ nhà Nguyên) tên là Ngưu Lượng về nước. Lúc này Nghệ Tông đang làm chức Hữu tướng quốc. Bài thơ chép có một số chỗ hơi khác:
An Nam Tể tướng bất năng thi,
Không bả trà âu tống khách quy.
Viên Tản sơn thanh, Lô thủy bích,
Tùy phong trực nhập ngũ vân phi.
(Tể tướng nước An Nam không thạo làm thơ.
Bưng âu trà suông tiễn khách ra về.
Núi Tản Viên xanh, dòng Lô Thủy biếc,
Theo gió bay thẳng vào năm thức mây).
[3] Tức Cung Tín Vưdng, tên thật là Trần Thiên Trạch.
[4] Theo Toàn Việt thi lục, thì bài thơ này vốn có đầu đề là Đề Phạm Ngũ Lão điện súy gia trang.