- II -
Mới chưa được sáu giờ chiều mà trời tối không nhìn rõ mặt người. Dòng người đi bộ vẫn di chuyển không ngừng nghỉ, xe ô tô dồn đống hàng hai hàng ba bị trúng đạn nằm la liệt. Tiếng súng nổ như ran bắp, đạn lửa vẽ vòng loạn xạ trên bầu trời, dường như đâu bên bon Khan, rất gần. Tôi đi bộ khỏi cầu sông Bờ qua khúc cua một đoạn xa không còn thấy dòng người đi nữa, có những tốp còn đi ngược lại, lo lắng: “Không đi tiếp được, hai bên đánh nhau rất dữ, người chết như rạ...” Tôi và một nhóm người không dám đi trên đường sợ trúng đạn nên leo xuống dưới triền mương dọc theo đường bảy tiếp tục đi. Súng nổ ở bon Khan dường như giảm dần, không nhiều, đang đánh ở bon Phu Ama Nher hay sao ấy. Đoàn người chúng tôi băng vô rừng tìm đường đi để tránh đạn. Đi một đoạn gặp sông ba, đang mùa khô nên vượt qua sông cũng dễ, mọi người quyết định qua sông luồn rừng đi tiếp. Tôi không dám đi như thế, rất dễ lạc mà không tìm lối ra. Một gia đình cùng đồng ý với tôi như thế nên men theo sông Ba tiếp tục đi xuống theo trục đường Bảy. Gia đình cùng tôi đi xuống dọc theo sông có ba người, anh chị là giáo viên ở Pleiku cùng đi có hai đứa con gái, bị lạc bé em mười tuổi còn đứa lớn mười lăm tuổi đang bị thương ở chân. Nghe anh chị kể làm tôi sực nhớ tới em bé bị chết do xe đè, mong không phải là con anh, nhưng cái chết nào cũng đau lòng. Chiến tranh là thế biết làm sao được.
Có vẻ băng rừng theo mé sông an toàn hơn đi trên đường Bảy, âm thanh của súng đạn lùi về phía sau và nhỏ dần. Bớt sợ chết vì súng đạn nhưng nỗi lo bị lạc đường và đói khát lại làm mấy người chúng tôi lo lắng. bé Hà (Con anh chị giáo viên) chân bị thương giờ nhiểm trùng sưng tấy lên không thể tự đi được, lúc đầu anh Khánh (Ba của Hà) cõng em, đường rừng cây cối um tùm, dây leo mọc chằng chịt đi một mình đã khó giờ cõng em trên lưng quả thật gian nan vô cùng. Chị Duyên mẹ Hà mảnh khảnh, ốm yếu không thể giúp được gì nên tôi phải cùng anh Khánh thay nhau cõng Hà. Đi suốt đêm đến gần trưa hôm sau đã gần đến dèo Tô Na. Bé Hà sốt rất cao, chân nhiểm trùng sưng tấy lên. Tôi cõng em trên lưng, hơi nóng hầm hập tỏa ra như mang trên người lò than hồng. Băng gạc, nước sát khuẩn anh Khánh mang theo đã dùng hết, giờ cứ thế chịu trận. Khúc sông này chảy dọc theo con lộ Bảy, nhìn sang phía đường hầu như không thấy ai tiếp tục đi xuống, hoặc là họ băng rừng để đi tiếp số còn lại lác đác quay lui trở về thị xã. Tôi và anh Khánh căng mắt nhìn, trên đường lố nhố những người mặc đồ xanh mang ba lô đeo súng đi về hướng thị xã. Anh Khánh xanh mặt thốt lên khe khẽ: “Lính Cộng Sản!” Tôi động viên: “ không sao đâu, tình hình này chắc phải quay về thị xã thôi, nếu anh chị còn muốn đi nữa thì khả năng bỏ mạng trong rừng vì lạc đường, đói khát là cái chắc, chưa kể bé Hà đang bị thương rất nguy hiểm”. Anh đưa mắt nhìn con nằm thiêm thiếp trên lưng tôi mà rơi nước mắt. Tôi để bé Hà xuống, bồng em đặt dựa vào gốc cây, chị Duyên đang lấy khăn ướt đắp lên trán em, ngần ngừ nhìn chồng khẽ gật đầu đồng ý với ý kiến của tôi.
Vậy là ba người chúng tôi quyết định quay trở lại. Lên tới đường bị Bộ đội chặn lại, chúng tôi đưa giấy tờ, mấy người lính nhìn tôi và anh Khánh dò xét, chị Duyên khóc không ra hơi chẳng hiểu vì sợ Bộ đội hay thương bé Hà, thân hình chị mỏng manh, bơ phờ như không còn sức sống, hay họ nhìn Hà nằm ngất lịm trên lưng ba nó mà họ để chúng tôi đi. Trên đường trở về tôi luôn để mắt tất cả mọi vật trên đường xem có dấu tích gì của gia đình tôi và vợ chồng chú T không, tuyệt nhiên chẳng có gì, tôi bần thần cả người.
Chưa biết dưới kia thế nào chứ từ đèo Tô Na trở về thị xã xe cộ nằm la liệt, cháy đen. Người chết cũng vô kể, lúc đầu thấy rất sợ, giờ quen dần chỉ còn thấy xót xa đau lòng. Về gần tới sông Bờ tôi có cảm giác như đi không vững, người choáng váng, lảo đảo. Anh Khánh đỡ bé Hà ngồi xuống chạy lại bên tôi: “Em có sao không?” Tôi gượng cười: “Chắc hơi mệt tí thôi, không chi đâu anh.” Chị Duyên đem bình đông nước đến, lấy chai dầu Khuynh diệp xoa lên trán, lên hai bên thái dương của tôi, chị nghĩ tôi bị gió. Tôi hớp mấy ngụm nước thấy trong người vẫn rất khó chịu. Gượng cố đứng lên đi tiếp vì trời cũng đã quá xế chiều, sợ không về thị xã kịp trời tối. Vừa đứng lên lại ngã khụy xuống, anh Khánh lo lắng: “Sao thế, sao thế em?” Anh quay sang chị Duyên: “Em giúp chú chứ tự chú đi không được rồi”. Chị Duyên đến đỡ tôi đứng lên, choàng tay qua hông dìu đi. Do chị yếu nên dìu được một đoạn hai chị em ngã nhào xuống mặt đường. Phía trước không xa là chiếc xe GMC, chiếc xe mà chiều hôm qua có em bé chết bên dưới. Chợt nhiên tôi buột miệng như có ai khiến: “Dưới xe đằng kia có một em bé cỡ mười tuổi chết, anh chị lại xem thử... ” Tôi ngừng lại không dám nói tiếp sợ anh chị đau lòng, có thể cháu bị lạc đâu đó thì sao. Biết là vậy nhưng chẳng hiểu sao tôi lại không giữ được miệng, hai vợ chồng hỏi dồn dập: “Đâu, đâu em chỉ cho anh chị với.” Tôi đưa anh Khánh đi còn chị ngồi với bé Hà. Người chết nằm bên đường thấy cũng đã nhiều, sự chai sạn cũng đã dày lên trong tôi, nhưng khi đưa anh Khánh đến chỗ em bé chết tôi cũng đã bật khóc. Những giọt nước mắt mặn chát như keo lại trên khóe mắt. Tôi khóc cho em, cho nỗi đau của anh chị, cho những người thân yêu của tôi không biết còn, mất ra sao, khóc cho đồng bào tôi... Em bé nằm chết dưới bánh xe là con của anh Khánh và chị Duyên!
Có những điều chẳng thể giải thích được nhưng vẫn tồn tại trong chúng ta. Một sự gắn kết nào đó, một sợi dây vô hình nào đó đã cho tôi gặp em khi em bị nạn, đưa tôi gặp ba mẹ em, kéo tôi và ba mẹ em đi chung rồi cùng quay trở về, đến nơi em mất để ba mẹ được ôm thân xác em vào lòng. Đó không phải là sự ngẫu nhiên, tôi tin thế.
Cùng chia sẻ nỗi đau đó là đạo lý ở đời. Ta giúp người, người sẽ giúp lại ta. Tôi nghĩ thế và tôi đang nhớ rất nhiều về mẹ tôi, anh chị, các cháu của tôi, vợ chồng chú T của tôi không biết giờ này ra sao, có rủi ro nào đến với họ không, khi mà sự sống và cái chết nó có lằn ranh quá mong manh. Giờ này tôi cũng có thể đi về nhà, nhưng trở về ngôi nhà vắng vẻ, một mình trơ trọi, bốn bề lặng ngắt như thế tôi làm sao sống được, khi mà những hình ảnh chết chóc luôn hiện lên trong đầu tôi. Còn bên cạnh tôi, anh Khánh và chị Duyên đang ôm xác con lịm ngất từng cơn. Tôi chưa đủ trải sự đời nên không biết phải khuyên anh chị như thế nào, thôi thì cứ để anh chị khóc rồi sẽ vơi đi nỗi đau đứt ruột xé lòng.
Qua khỏi cầu sông Bờ phía lề trên có một làng nhỏ người Thượng, tôi bàn với vợ chồng anh Khánh vào đó nghỉ tạm. Tôi cõng bé Hà, anh Khánh bồng bé An (em của Hà) chị Duyên xách đồ, nhưng rồi tôi cảm thấy có gì đó không ổn. Tôi định nói mấy lần nhưng ngại chưa dám thì anh Khánh đi lại bên tôi: “Anh bồng cháu vô làng có sao không em?” Tôi ngại về vấn đề này nên anh hỏi tôi nói luôn: “Em biết anh chị đau lòng khi phải xa cháu nhưng dù sao thì cháu cũng đã ra đi. Giờ phải lo cho bé Hà, nên đầu tiên anh tìm chỗ nào đó tạm thời chôn cháu rồi khi nào ổn đến đem cháu về, anh không thể đem cháu đi theo cách này được”. Tất nhiên anh chị cũng có thể nghĩ thế nhưng do tâm trạng rối bời, do nỗi đau quá lớn làm cả hai bối rối. Trời vừa chạng vạng, tôi nói anh nên để cháu tạm yên nghỉ gần bờ rào cạnh gốc cây, làm dấu kỹ để dễ tìm khi đưa cháu về quê hương. Sáng hôm sau tôi quay lại chỗ có chiếc xe Honda sáu bảy, xe vẫn còn đó đành lấy dùng tạm. Chạy đi tìm băng gạc, nước sát khuẩn cho bé Hà. Mọi chuyện đã xong tôi đành phải chia tay vợ chồng anh Khánh và bé Hà. Chỉ hai ngày bên nhau mà sự quyến luyến đã đầy lên thành nỗi nhớ. tôi bắt tay tạm biệt anh chị, hôn lên trán bé Hà, chúc mọi người may mắn. Nhiều năm sau này tôi có dịp được gặp lại anh trên đường phố Huế. Gia đình anh chuyển về quê sau những năm tám mươi, bé Hà có gia đình và định cư ở Phần Lan. Anh kể: Qua năm một chín bảy sáu anh chị và bé Hà vào lại Phú Bổn bốc mộ cháu đưa về quê. Hai anh em ngồi cafe và tôi phải đi công việc, hứa với anh rằng khi nào có dịp sẽ ghé thăm anh chị.