- III -
Ngày mười chín tháng ba Bộ đội Giải phóng thị xã. Nhà tôi không bị gì, trống huơ trống hoác, còn thị xã, đặc biệt là trục đường Trần Hưng Đạo xe ô tô cháy, người chết nằm ngổn ngang, nhà cửa bị đạn pháo giờ chỉ còn là đống gạch vụn, những bức tường còn lại nham nhở, ám khói như những bàn tay đưa lên trời. Đến giờ này tin tức về gia đình tôi vẫn biền biệt, tôi rủ thằng bạn xin giấy phép Ban Quân quản đi tìm người thân.
Ngày hai mươi lăm, tôi và LD xách xe Honda đi dọc theo đường bảy. Tờ mờ sáng hai đứa lên đường, không nghĩ là đi xa như thế, nhiều lắm là đến cầu Lệ Bắc hoặc hơn tí rồi về nên chẳng đem theo thức ăn nước uống gì. Xuất phát từ nhà thờ theo đường Trần Hưng Đạo xuống Hảo Đức, qua cầu sông Bờ đã thấy khủng khiếp. Từ sông Bờ tiếp tục đi nữa thì quả thật không thể tưởng tượng được. Xe cộ nằm hàng hai hàng ba cháy rất nhiều suốt trên đường đi, còn người chết thì không kể xiết. Mặc dù trong phố, khu dân cư Bộ đội, người dân đã di chuyển xác chết khá nhiều nhưng vẫn chưa hết, còn đường vắng thì xác người, xe cộ nằm ngổn ngang. Bọn tôi vừa phải tránh xe vừa phải tránh người chết nên đi khá chậm. Tôi luôn đảo mắt nhìn chung quanh xem có vật gì, đồ gì quen mắt của gia đình, người thân tôi chăng. Không nhận được gì ngoài sự đau thương, xót xa cho kiếp người. Ai cũng có cha mẹ, anh em, con cái, người thân giờ nằm lại nơi đây, trơ trọi với nắng mưa, với bụi đường. Mùi tử khí bốc lên ngút trời, bọn tôi phải cởi áo cột ngang mũi vẫn không ngăn hết mùi xú uế. Dọc đường, những buôn làng người dân lác đác trở về, họ không đi xa, chỉ vào sâu trong rừng tránh bom đạn giờ lùa bò, dắt heo trở lại làng buôn. Bọn tôi chạy tới cầu Lệ Bắc, cầu sập phải tìm chỗ nông dắt xe qua sông. Trời nóng như thiêu, khát khô cả cổ hai đứa dựng xe trên bờ xuống sông uống nước cho đã cơn khát. Hai bên bờ cây cối um tùm, xòa cả tán xuống dòng nước, cả hai cúi xuống uống căng cả bụng, chợt LD nhìn lên phía trên chỗ tán cây lòa xòa trên mặt nước cách nơi hai đứa tôi đang uống nước chừng chưa tới năm mét, nó la toáng lên: “Trời ơi một thây người chết trương phình kìa!” Tôi nhìn theo tay nó, thấy lấp ló trong cành lá một xác người phình to đang dập dềnh theo gợn sóng. Kinh quá, tôi cố móc họng cho ói hết nước ra mà cổ họng không chịu ói một tẹo nào.
Qua khỏi cầu Lệ Bắc, đôi chỗ phải băng vào rừng mới đi được vì mặt đường kẹt cứng những xe. Nói là băng rừng nhưng thật ra cũng có đường nhưng là đường mòn, có lẽ do người di tản đi nhiều quá nên tạo ra lối mòn cũng rộng, xe máy chạy tương đối tốt. Ở trong rừng cũng kinh khủng không kém, Người chết khắp nơi mùi xú uế cứ quẩn quanh trong cây lá tưởng chừng như đường đi vào địa ngục. Còn xác người thì người còn cái này người mất cái kia do thú rừng lấy làm thức ăn, quá khủng khiếp. Chạy đoạn xa nữa tới một con dốc, mới nhìn đã chóng mặt, không hiểu với độ dốc này sao xe có thể xuống được nhỉ? LD đang cầm lái, nó về số một để xuống từ từ. Có vẻ đường này mới mở chứ trước đây đoàn GĐPT chúng tôi đi xuống Phú Túc không có dốc này. Xe đang từ từ bò xuống bị rễ cây ngáng làm cả xe và hai đứa té lăn chiêng xuống cuối dốc, may mà chỉ xây xát nhẹ, bọn tôi lại dựng xe đi tiếp.
Đoạn dưới này ít thấy xe ùn ứ hoặc bị cháy và người chết cũng không thấy nhiều. Thỉnh thoảng từ trong rừng vài người chống gậy đi ra ngoài đường, thân thể tiều tụy rách rưới, có người bị thương được dìu, có người tự đi, mùi hôi từ vết thương bốc ra thật kinh khủng, tôi hỏi vội vài câu rồi đi tiếp. Người chết ở trong rừng nhiều lắm, đa số chết do đói, khát, kiệt sức không đi được. Tâm trạng trong tôi lúc này đã gần như suy sụp, thật khó hình dung được rằng một gia đình tôi gồm năm đứa nhỏ, đứa lớn tám tuổi đứa nhỏ nhất còn bồng trên tay, mẹ tôi hơn sáu mươi tuổi và anh chị có vượt qua được đạn bom, vượt qua được sợ hãi, đói khát, thất thiểu trong rừng, đang lê từng bước như những người tôi vừa gặp không, hay... Còn vợ chồng chú T trẻ, khỏe có thể bớt lo hơn nhưng với đạn bom như thế, với đường xa trắc trở cùng những rủi ro không ai biết được giờ đang ở đâu? Càng nghĩ càng thấy mịt mù.
Hai đứa tới Phú túc, thị trấn xác xơ như vừa qua một cơn bão. Phú túc hình như giải phóng hai hoặc ba ngày thì bọn tôi tới nên bị hỏi giấy thông hành đến mấy lần. Lúc này đã qua chiều, bụng đói miệng khô, không tìm được gì ăn trong cái thị trấn heo hút này. Qua một khu vườn vắng chủ, tôi nhảy xuống nhìn quanh thấy có mấy cây ổi trái còn xanh nhỏ cỡ trái bóng bàn, hái vội bỏ vào túi quần làm thức ăn tạm cũng được. Thật tình lúc này không nghĩ gì khác hơn là cứ thấy đường thì chạy tới, chính điều đó bọn tôi lúc quay trở về phải trả giá, một cái giá mà đến giờ này cứ nghĩ tới không khỏi rùng mình.
Đi khỏi Phú Túc một quãng đường khá xa, trên đường thỉnh thoảng gặp từng tốp người dắt díu nhau đi ngược lại, nhìn kỹ chẳng thấy ai quen. Đang đi chợt có mấy người Bộ đội chặn lại hỏi giấy thông hành, bọn tôi đưa ra họ đọc xong bảo bọn tôi quay lui không cho phép đi nữa. Tôi chuyển sang cầm lái chạy ngược trở lại, lúc này mặt trời đã ngã về Tây, cách đầu núi không xa.
Trời Tây nguyên tháng ba nắng nóng rực rỡ nhưng khi về chiều lại chuyển se lạnh, sương núi dần bảng lảng trên những tầng cây. Có lẽ lúc này mới ý thức cho chuyến trở về, đường đầy những đồi dốc gập ghềnh, xe cộ hư hỏng bị cháy choáng đường và người chết nằm ngổn ngang trương phình trên lối đi, mới nghĩ tới đó tôi rùng mình liên tiếp. Đoạn dưới này tương đối dễ đi, dẫu đường rất tệ nhưng ít chướng ngại nên tôi chạy khá nhanh để cướp thời gian. Về tới Phú Túc trời còn sáng, dù bụng trống rỗng nhưng qua bữa cũng đã lâu giờ không còn thấy đói, chỉ hơi mệt, chẳng có thời gian nhai mấy trái ổi hái vừa rồi, giờ chỉ biết căng mắt phóng như điên trên đường. Tới con dốc dựng đứng tôi lại sợ bị ngã vì cuối dốc có mấy người nằm rải rác nên LD nhảy xuống phụ đẩy cho chắc cú. Tới đây trời đã tối phải bật đèn xe. Mùi tử khí vẫn nồng nặc nhưng không còn gì để bịt mũi vì phải mặc áo, trời lạnh cộng thêm ghê ghê nên hơi bị rét. Giờ thì cầm chắc tay lái nhìn thẳng phía trước mà chạy, miễn đừng đâm đầu vào cây, vào những chiếc xe nằm dọc đường còn thì cứ phang thẳng, thêm nữa đèn xe không được sáng lắm. Thỉnh thoảng xe lại giật ngược tay lái rung lên: “Bựt” Cứ mỗi lần thế bàn chân lại lành lạnh, nhơn nhớt ướt nhẹp. Cả người căng như dây đàn, cứ như vậy Trời Phật phù hộ chạy được về tới cầu Lệ Bắc. Tôi dắt xe qua sông, tới giữa dòng tự nhiên lại rùng mình mấy cái vì cái bụng chứa nước của đoạn sông ban sáng. Khúc đường này xe cộ nằm lộn xộn khó chạy nhanh được, hơn nữa người chết nằm ngổn ngang nên thỉnh thoảng lại: “Bựt, bựt” tay lái lại loạng choạng, chân lại ướt nhèm nhẹp, nhơn nhớt lành lạnh, còn xe thì nẫy như ngựa lại lạy Trời Phật cho tụi con về tới nhà bình an, trọn vẹn.
Bọn tôi về tới buôn Khan cũng đã ổn, chỉ cần qua khỏi cầu sông Bờ là đã xem như sắp về tới nhà vì hai bên đường có nhà dân nên bớt sợ. Muốn hít một hơi thật sâu cho người tỉnh táo lại đỡ căng thẳng nhưng nào có làm được vì không một giây phút nào mà mùi hôi chẳng xộc vào mũi. Do sự căng thẳng giảm dần nên tay lái cũng có phần lơi lỏng, lại: “Bựt” cả hai té nhào, mặt tôi dập vào một đống nhầy nhầy mềm mềm, còn LD rớt đánh bịch trúng cũng một đống như thế. Không thể nào tả nỗi kinh khiếp, ghê rợn của bọn tôi. Tới sông Bờ cả hai cỡi quần áo giặt sạch và tắm một trận, giờ thì chẳng kể dưới sông có gì nữa không, có gì cũng tắm. Tôi thật sự không dám kể tiếp đoạn vừa rồi.
Qua khỏi sông Bờ bớt rồi những lo sợ, nhưng cũng rất cẩn thận để tránh chuyện xui xẻo xảy ra như vừa rồi. Tôi chạy thẳng về nhà, cửa nhà vắng ngắt buồn đến rơi nước mắt, lúc này đã gần mười hai giờ khuya, tôi đến chùa Bửu Minh kiếm gì đó ăn và ngủ lại chùa còn LD về nhà nó. Trước khi dân di tản bà con tập trung ở chùa hoặc nhà thờ rất đông, giờ đây cũng vậy, những người trở về như tôi cũng đến chùa tạm trú trước khi về nhà. Đi cả ngày quá mệt nên nằm xuống là ngủ ngay. Trong mơ tôi gặp lại gia đình anh chị Khánh, bé Hà và cả bé An nữa, tôi hỏi nó: « Em chết rồi mà!» Nó bảo: «Em có chết đâu, do lạc gia đình giờ tìm được rồi nè». nói xong nó cười khanh khách, tôi giật mình choàng tỉnh giấc trời cũng đã sáng, vừa bước ra sân trước chợt thấy anh Hai dẫn thằng con nhỏ đi từ xa, mừng quá tôi phóng tới rú lên: «Anh Hai!» Hai anh em ôm nhau mừng rỡ, anh dẫn tôi đến chỗ gia đình đang ở. Mọi người đều bình an tuy người nào người nấy đều bơ phờ, tiều tụy như từ cõi chết trở về. Trưa hôm ấy tất cả trở về nhà. Tôi trải qua cơn ác mộng kinh hoàng trong đời vỏn vẹn chưa tới mười ngày!
Phạm Tú Uyên
Hết