Nạn nhân buổi giao thời YUAN S FIRST WIFE
Ngày hôm ấy, ông lái trà chờ đợi đứa con trai độc nhứt du học ở ngoại quốc trở về nhà. Người thanh niên này đã vắng nhà bảy năm và tất cả trong gia đình thắc thỏm chờ mong. Cha cậu, mẹ cậu, vợ cậu, hai đứa con của cậu, một trai một gái. Trong bảy năm qua người ta không thấy cậu và mỗi người một cách, tất cả đều trông chờ giờ trở về của người thân.
Không ai rõ chắc chắn giờ trở về vì thành phố này không nằm ở ven biển hay sát đường sắt. Đó là một thành phố nhỏ nằm giữa một vùng đồng bằng, nơi đây các nông trại mọc chi chít dọc theo con sông nhỏ lững lờ và nông cạn.
Mỗi bên bờ sông là một dãy núi. Thoạt tiên các dãy núi này chỉ là những gò nông rồi dần dần đi lên cao thành những đỉnh đầy sương mù. Vùng này nổi tiểng về các sở trà trồng ở sườn núi.
Mùa đông, nước sông xuống quá thấp, xuồng ghe không đi được cho nên ngoài một số người di chuyển bằng ngựa và xe, vùng này cô lập với thế giới bên ngoài.
Nhưng vào cuối mùa hè năm ấy, nhờ mưa to, nước sông lên cao đủ cho các ghe nhỏ tiến sâu vào nội địa cách bờ biển một trăm dặm.
Một trong các chiếc thuyền đó sẽ đưa cậu con trai của ông lái trà trở về mái nhà xưa. Giờ chuyến đi tùy thuộc nơi gió, nước, có thể cậu sẽ về trong ngày hôm ấy, vào xế chiều hay trong đêm. Nhưng nếu thuận buồm xuôi gió thì chuyến đi có thể tới sớm hơn.
Gia đình ông lái trà thức thật sớm, ăn mặc chỉnh tề để đón người đi xa về. Người cha là một ông lão hiền lành. Ông được cha mẹ để lại các khu đất lớn, nơi sản xuất trà thứ thật ngon. Ông cũng giữ cửa hiệu bán trà có từ mấy thế kỷ. Ông là một người được kính trọng, có uy tín đối với mọi người. Trong khi chờ đợi, ông ngồi trên một chiếc ghế riêng của ông ngay giữa nhà. Để mừng đứa con độc nhứt, ông mặc chiếc áo dài đẹp nhứt bằng sa ten đỏ xậm, mặc thêm bên ngoài một chiếc áo ngắn sa ten đen có thêu những đường cong theo lối cổ.
Người ông ốm và tái, cái tái của những người hút nha phiến... Ông hút từ thuở nhỏ, nhưng vẫn giữ một mức độ và hút đúng giờ. Ông chỉ chịu hút thêm khi nào bịnh. Cho nên nha phiến không làm cho ông gầy ốm cũng không làm cho ông hốc hác. Nó chỉ làm cho thịt ông nhão và nhuộm da ông một màu vàng đều đặn.
Đối điện với ông là bà vợ, mẹ của cậu con duy nhứt. Bà có bốn người con, nhưng chỉ còn sống có một đứa. Hai vợ chồng yêu thương đứa con một vô bờ bến.
Bả cụ không từ chối một cái gì với cậu con. Nhưng bà là người cương quyết - như cặp mắt đen và sáng của bà biểu lộ - và khi phải nhân nhượng chồng con thì bà chỉ nhân nhượng sau những cuộc giằng co.
Trong lúc chờ đợi, bà ngồi trên chiếc ghế giống như ghế của chồng, nhưng đặt thấp hơn. Bà giữ im lặng theo đúng phép vì người đàn bà không được quyền nói trước chồng.
Một người tớ già cũng lớn tuổi như bà chủ, đứng kế bên với một bàn đèn bằng đồng. Khi bà cụ đưa bàn tay lên thì người tớ già trao ống hút cho bà cụ kéo hai hơi. Người tớ già tiếp tục làm thuốc một cách lặng lẽ. Khi một chút tro rơi lên chiếc áo sa ten màu xám của bà cụ, người tớ lấy ngón tay phủi ngay.
Con dâu ngồi trên chiếc ghế đặt dưới thấp. Nàng không tới ba mươi tuổi, không đẹp, không xấu, nhưng có những nét đều đặn. Hai bàn tay cực đẹp của nàng cầm một mẩu sa ten màu hồng nhạt mà nàng đang thêu tỉ mỉ những cánh hoa đỏ rực và một con chim con đậu trên cành.
Thỉnh thoảng nàng cúi xuống nói nhỏ với cô bé mười tuổi ngồi trên một chiếc ghế đẩu bên cạnh mẹ. Cô bé cũng thêu, nhưng chậm và đầy cố gắng trên một mẩu vải. Cô bé thường nhìn ra sân, nơi cậu bé bảy tuổi đang đùa với một con dê con. Cậu vén chiếc ác dài màu xanh dưới thắt lưng đỏ cho tiện chạy nhảy. Cậu cười to lên khi đưa nắm cỏ cho con dê con. Khi con vật cao lêu nghêu vụng về bước tới trước thì cậu bé nhảy lùi lại cười vang lên thích thú trước vẻ ngơ ngác của con vật. Cứ mỗi chuỗi cười là cô bé nhìn lên mỉm cười theo với vẻ thèm muốn và mẹ cô phải lặp lại nho nhỏ vào tai: “Con phải chăm chú vào công việc con đang làm”.
Chân người mẹ và bà nội cô bé đều bó chặt và mang dép nhỏ bằng sa ten. Nhưng chân cô bé thì để tự nhiên. Cha cô đã từ ngoại quốc viết thơ về dặn không được bó chân đứa bé.
Gian phòng im lặng như tờ, đầy không khí hồi hộp chờ đợi. Hai vợ chồng ông lái trà nóng gặp lại người con xa vắng quá lâu ngày. Người vợ cũng mong gặp người chồng cách biệt trong bảy năm dài.
Mỗi người cố gang kiên nhẫn một cách. Ông cụ ngồi nhìn đứa cháu nội đùa với con dê con, nhưng sự bất động của ông chứng tỏ tư tưởng ông rất xa cách đứa bé.
Bà cụ quay lại người tớ già hỏi:
- Có bảo chúng nó mua vịt để làm cơm chiều nay?
Con dâu ngước mắt lên nói với giọng dịu đàng:
- Thưa mẹ, con đã lo xong vấn đề cơm nước. Sẽ có các món ngon mà ba sấp nhỏ ưa thích.
Rồi thấy chén trà của bà cụ đã hết, nàng đứng lên, rờ bình trà để xem nước còn nóng hay không, rót trà vào chén, hai tay bưng chén trà dâng mẹ chồng.
Nàng đổ trà nguội trong chén ông cụ, châm trà mới vào, rồi tiếp tục trở lại chỗ cũ thêu như trước.
Hai bàn tay đẹp của nàng đưa đi đưa lại một cách tự nhiên và nếp nhăn trên môi nàng có vẻ thanh thản, nàng có vẻ trầm lặng. Vì bất động cho nên mặt nàng có vẻ u tối. Chiếc áo saten xanh của nàng cũng ngả sang màu xám. Nhưng đôi mày của nàng rất đẹp, giống như hai lá liễu sắc lẻm đen nhánh vẽ lên đôi mắt đen. Tóc nàng cũng đen được xức dầu và bới tròn ra sau ghim trâm vàng. Nàng đeo đôi hoa tai nhỏ vừa vặn.
Thỉnh thoảng nàng cho đầu lưỡi liếm thắm môi một cách tế nhị.
Đứa bé trượt té ngoài sân và nằm khóc chờ người đến đỡ lên. Người mẹ trẻ vội vàng chạy ra giúp nó đứng lên, phủi bụi bám vào áo quần. Nàng giữ đứa bé sát bên mình, nói với giọng ồn tồn:
- Đừng khóc. Cha con có thể về tới bất cứ vào lúc nào. Nếu thấy con khóc thì phiền lắm. Ngày cha con đi con mới có một tháng. Lúc đó con cũng khóc. Cha con sẽ nghĩ là con đã khóc bảy năm trời, trong thời gian cha con đi xa.
Cậu bé đưa tay quẹt nước mắt rồi cười. Mẹ nó rút khăn tay nhét trước ngực lau nước mắt cho con rồi đưa nó trở vô trong nhà, cho nó uống nước.
Ông cụ mỉm cười, vuốt chòm râu lơ thơ nhìn đứa cháu với vẻ hiền lành thường nhựt:
- Thằng Vương sẽ lấy làm hài lòng về con. Con đã cho nó một đứa bé xứng đáng. Cha sẽ nói cho nó biết, con là một con dâu thảo, là một người mẹ hiền. Ngày cha mẹ chọn con cho thằng Vương, cha mẹ rất vui sướng, nhưng lúc đó cha mẹ chưa đánh giá đúng mức niềm vui sướng như ngày nay.
Bà cụ xen vào:
- Nhưng ông và tôi đều biết nó gia đình trâm anh ở thôn quê. Lúc nào tôi cũng thích chọn dâu ở vườn chớ không ưa những cô ở chợ, họ tự cao tự đại và nông nổi lắm. Tôi cũng xuất thân nhà nông và nhà nông thì biết cách dạy dỗ con gái.
Ông cụ cười:
- Tôi thấy đúng như vậy trong ba mươi lăm năm nay, khi tôi và bà ăn ở với nhau. Bà chỉ có một điều không hay là không giữ được tất cả mấy đứa con. Nhưng tôi không bình phẩm bà được vì mỗi người đều có số.
Bà cụ thở dài đáp:
- Nhưng thằng út nhà mình là đứa xuất sắc hơn hết và nó đã sống... Nó học hành đỗ đạt và nếu là thời xưa thì nó phải là Tổng đốc. Ngày nay, tôi không hiểu gì hết...
Ông cụ có vẻ hãnh diện và tự tin:
- Thằng Vương nhà mình không có cái gì phải ngại. Nhờ sự học rộng, nó sẽ được nhàn. Đông Tây gì nó cũng lão thông hết ráo.
Nói đến đây, có tiếng gọi ngoài cổng, tiếng người khuân vác rương tráp. Tiếng gọi ngoài ngõ chính là của người tớ già được phái đi rước cậu Vương.
Và sau đó, có tiếng nói rất quen thuộc, tiếng nói mà mọi người chờ đợi. Nhưng tiếng nói này có hơi khác xưa, trầm hơn và xa lạ hơn:
- A! Tới nhà rồi!
Ông cụ đứng lên khi nghe mấy tiếng đó. Nhưng chợt nhớ nề nếp gia phong, ông ngồi xuống chờ đợi.
Bà cụ bóp mạnh hai bàn tay đặt trên đầu gối.
Con dâu, gọi nhanh đứa con gái và ngồi xuống chiếc ghế phía sau bà mẹ chồng. Cậu bé vụt sợ hãi, chạy lại nắm tay mẹ, còn cô bé thì ngó chăm chú ra ngoài rào, tay vẫn cầm mảnh vải đang thêu. Nhưng mẹ chúng không ngẩng đầu lên. Nàng ngồi im, cố nhìn một kẽ hở giữa hai tấm gạch dưới đất.
Bỗng cánh cổng mở. Nàng... nghe người đi và bước lại gần, những bước cứng rắn và vững chắc Vương mang đôi giầy đế da cứng, nện vang lên sân gạch.
Chàng bước vào, đứng trước thêm. Rồi đi ngay lại ông cụ. Từ đuôi mắt, nàng thấy ông cụ đứng lên và nghe chồng nàng kêu lên “Cha, con mới về”.
Ông cụ đáp:
- Sau bảy năm xa cách... - Giọng ông nghẹn lại và nước mắt chảy quanh.
Vương nói:
- Cha ngồi xuống cho khỏe.
Rồi mỉm một nụ cười không được tự nhiên, cậu châm trà vào chén của ông cụ.
Quay sang bà cụ, Vương nói:
- Thưa mẹ con đã trở về bình yên, dù trùng dương xa cách.
Bà cụ run run đứng lên, hân hoan đặt bàn tay lên cánh tay con:
- Vương, con đã lớn nhiều, mẹ thấy con lạ.
Vương nói với giọng rõ ràng:
- Bảy năm phải thay đổi chớ mẹ.
Bây giờ đến lượt Vương chào vợ. Chàng đứng trước mặt nàng, và nàng không ngước mắt lên. Là con nhà gia giáo, nàng biết giữ lễ với chồng. Nàng chỉ thấy có đôi giày da và hai ống quần may bằng vải ngoại quốc mà nàng không biết.
Với giọng xa xôi và lễ độ, chàng nói:
- Mẹ sấp nhỏ vẫn mạnh giỏi?
Ông cụ bỗng nhiên trở nên hoạt bát:
- Nó là con dâu thảo nhứt hạng. Không bao giờ nó quên bổn phận với cha mẹ cũng như với con cái. Luôn luôn săn sóc nhà cửa, rộng rãi với kẻ ăn người ở.
Vương hỏi:
- Còn con trai tôi đâu?
Câu bé kêu lên thật to:
- Thưa cha, con đây.
Cậu đứng nhìn cha với đôi mắt mở to, tròn như hai đồng tiền.
Vương cười, nhấc bổng cậu bé lên:
- Bây giờ con được bảy tuổi. Lúc cha đi con có một tháng, đỏ hỏn như một củ cải. Bây giờ con trở thành một người lớn, đẹp ra.
Trong khi chồng quay đi chăm chú nhìn đứa con, nàng liếc nhanh nhìn chàng. Phải, chàng đã thay đổi, đã trưởng thành. Nàng có thể nhận thấy sự thay đổi đó. Lúc ra đi, chàng mới có hăm bốn, dù học cao hiểu rộng, chàng có vẻ trẻ và mảnh mai. Bây giờ chàng đã mập ra, có hơi cao hơn, vẻ mặt của chàng cũng khác hẳn. Bảy năm trên đất khách đã thay đổi chàng nhiều. Trước kia lúc nào Vương cũng tỏ ra tự tin, sẵn sàng để cười nói, trẻ trung, hăng hái. Còn bây giờ, chàng là một người chững chạc, trưởng thành.
Bỗng nhiên nàng thấy lúng túng và e lệ. Mặt nàng đỏ ửng và thấy nóng dưới vành tai.
Lặng lẽ, nàng đẩy cô bé tới trước, nói nhỏ:
- Nói chuyện với cha đi con.
Nhưng cô bé chỉ mỉm cười, cúi đầu xuống cho đến lúc cậu em kêu lên:
- Còn chị con đây nữa.
Bấy giờ Vương mới quay lại vồn vã với cô bé. Chàng nắm tay cô bé, bàn tay nhỏ bị kim đâm, hỏi:
- Con làm gì đó Thúy Lan? May dép hay gối cho con hả?
Bà cụ nói:
- Năm nay Thúy Lan 10 tuổi. Nó đã khá lớn để bắt đầu thêu gối cưới. Mẹ nó đã dạy cho nó đủ cả tam tùng tứ đức.
Cô bé lắng nghe mấy lời bà cụ với vẻ khó chịu. Nó cúi mặt xuống dường như muốn nói, nhưng mẹ nó đặt bàn tay lên vai nó. Cử chỉ đó khiến cô bé im lặng.
Vương không đáp câu nói của bà cụ. Chàng mở miệng rồi lại mím môi và sau một sự im lặng kỳ lạ dường như mọi người đều lắng nghe, chờ đợi người khác nói. Vương nói để xô đuổi không khí khó chịu:
- Được trở về nhà sau một thời gian đi xa thật là thích! Bây giờ con phải đi tắm sau ba ngày ở trên thuyền. Một trăm dặm mà phải mất ba ngày, thật là chậm so với các phương tiện giao thông Tây phương.
Rồi chàng tươi cười bước ra. Ông cụ nhìn mông ra xa, nói với bà cụ:
- Ba ngày, đâu có lâu gì! Đó là nhờ thuận buồm xuôi gió. Nếu ngược gió, người ta phải lên bờ kéo thuyền, thì phải mất ít nhứt là năm hay sáu ngày.
Ba cụ nói:
- Mỗi ngày tôi đều đi chùa. Tôi cầu nguyện cho thuận buồm xuôi gió. Tôi đã mua hai đồng bạc nhang và trà cho ông từ. Tôi đã tốn công tốn của như thế, đâu lẽ không có kết quả tốt.
Ông cụ nhìn bà cụ với vẻ rộng lượng. Ông không bao giờ tới chùa miếu, không hề tin tưởng thần thánh. Ông là người theo Khổng học, ông dành chuyện đi chùa cho đàn bà con nít.
Với giọng ôn tồn, ông nói:
- Mùa này là mùa gió.
Nghe ông cụ nói, bà cụ ngẩng đầu lên, gằn giọng:
- Ông không tin, nhưng tôi đã thử nhiều lần. Tôi bảo đảm với ông là thần thánh nghe lời khấn vái của mình. Nếu tôi không đi chùa thường thì biết đâu con mình gặp tai nạn trên trùng dương đầy sóng gió hoặc ở xứ lạ quê người?
Cụ già đấu dịu:
- Thôi được! Bà cứ tiếp tục sùng bái thần thánh và nếu bà cầu khẩn đúng mùa thì tôi tin chắc thế nào bà cũng mãn nguyện.
* * * * *
Đêm đó, khi ăn tối xong, Vương tặng quà cho mọi người. Nàng bước vào phòng chồng. Từ ngày chồng đi nàng không ngủ trong phòng này vì thấy cô đơn trong đêm dài. Ban ngày nàng lau chùi, trong phòng không có một hột bụi, nhưng ban đêm nàng sang phòng bên nhỏ hơn ngủ với hai con. Đôi khi nàng ngồi trong phòng trống bỏ không với giỏ đồ thêu. Đêm ấy nàng ngồi trong phòng chờ chồng về.
Vương về rất trễ. Bạn bè nghe tin chàng về kéo tới mừng chàng ở phòng ngoài. Ông cụ ra lịnh hâm rượu, thứ rượu địa phương nấu bằng gạo.
Ngồi trong phòng vắng, nàng nghe bạn bè kêu gọi, uống rượu mừng chồng. Họ la lên: “Cạn chén nghe anh em. Cạn chén để mừng Vương vừa được bổ nhiệm ở Thủ đô, cạn chén để chúc Vương có thêm nhiều con...”
Sau lời chúc tụng, một tiếng cười vang lên và một mình trong phòng tối nàng mỉm cười có hơi buồn tủi và thấy máu bốc lên nóng dưới vành tai.
Rồi nàng hiểu là người ta mang các thức ăn ra cho thực khách ăn và uống rượu.
Sau đó tiếng giã từ vang lên, những lời chúc tụng vui vẻ và hứa hẹn sẽ gặp nhau lại, tất cả những tiếng cười bay khắp sân và tiếng cười của Vương vượt lên trên hết.
Thế rồi trong sự yên tĩnh bất ngờ của ngôi nhà, nàng nghe tiếng chân chàng trở vô. Chàng nói: “Uống rượu như thế này, ngày mai mình sẽ nhức đầu ghê lắm. Từ ngày xuất ngoại mình không có uống nhiều như thế”.
Ông cụ ngạc nhiên hỏi:
- Ở xứ ngoài không có rượu sao?
Vương trả lời chiếu lệ:
- Có chớ, nhưng con ít uống. Con phải giữ tâm trí luôn luôn sáng suốt. Bây giờ con còn phải giữ gìn hơn vì con được giao một chức vụ quan trọng ở thủ đô. Ngày mai con sẽ trở lại vấn đề này. Bây giờ thì đã khuya rồi.
Ông cụ hỏi:
- Nhưng con không nhậm chức ngay bây giờ chớ? Con đi xa lâu ngày. Cha biết chức vụ ở thủ đô là vinh hạnh và cha không giữ con lại ở đây. Nhưng con du học quá lâu, cha mẹ muốn con ở lại nhà ít hôm. Hơn nữa còn vợ con nó là dâu thảo, mẹ hiền. Nó sống cô đơn trong bảy năm qua.
“Chàng sẽ trả lời như thế nào?” Nàng ngả người tới trước lắng nghe bên cạnh cánh cửa mở, hai gian phòng chỉ cách nhau có một bức màn. “Chàng sẽ nói gì?”.
Vương im lặng rồi như chợt nhợ đến một bổn phận, kêu lên:
- Con còn một bức thơ phải viết trước khi đi ngủ. Con quên đi mất. Bây giờ cha đi ngủ đi. Cha vịn tay con, con dìu cha vào phòng.
Nàng nghe tiếng chân của chàng và ông cụ. Tiếng giày nhung của cụ chạm đất nhẹ nhàng còn tiếng giày da của chàng nện mạnh trên nền gạch.
Gian phòng im lặng và nàng âm thầm ngồi chờ chồng đến với mình theo bổn phận của người vợ.
Nàng đánh diêm thắp đèn rồi lại ngồi như trước, kiên nhẫn, đôi mắt nhìn xuống đất. Hai bàn tay nàng lạnh và nàng xoa hai bàn tay lại cho ấm.
Chàng bước vô phòng; theo thói quen, đột ngột, vô tư và tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy nàng ngồi đó.
- Ủa, em hãy còn ngồi đó? Không nên chờ anh. Em đi ngủ đi. Anh còn một lá thơ phải viết gấp trước khi đi ngủ.
Chàng ngồi lại bàn viết, ở bên kia phòng, chiếc bàn viết mà trước kia chàng học thi trong những năm trước khi chàng xuất ngoại.
Trong bảy năm dài, nhiều lúc nàng hình dung thấy chàng ngồi chỗ đó.
Bây giờ, Vương tìm mảnh giấy, bút lông chàng phết nhanh trên nghiên mực.
Nàng vẫn ngồi yên. Một lúc sau chàng bực tức ném ngọn bút lông, kêu lên:
- Mình quên cách dùng bút lông. Bao lâu nay mình chỉ quen dùng bút ngoại quốc.
Chàng lấy trong túi áo một cây bút kim khí lạ lùng và bắt đầu viết.
Chàng lại ngửng đầu lên lần nữa và khi thấy vợ vẫn còn ngồi đó, kêu lên với giọng hơi bực:
- Coi, em đi ngủ đi chớ! Anh không thích em ngồi đó chờ anh.
Nhưng sau đó, giọng chàng dịu lại:
- Em tha thứ cho anh. Anh không muốn tỏ ra thô lỗ. Anh mến phục cử chỉ của em lắm. Nhưng mà bây giờ chúng ta có thể bỏ qua những nghi thức quá câu nệ xưa cũ. Em hãy đi ngủ đi.
Chàng bỗng nín lại, do dự.
Ngay lúc đó, ở phòng bên, cậu bé kêu ré lên. Vương nhíu mày. Nàng nói:
- Con nó giựt mình! Trong mấy năm qua con ngủ với em...
Gương mặt Vương tươi sáng lên:
- Vậy thì em qua bên ấy với nó, đêm nay anh ngủ trễ. Anh còn phải ghi chú trong quyển sách của anh. Anh không muốn làm rộn thói quen của em, trong đêm nay.
Chàng đứng lên đầy vẻ lịch sự. Nàng nhìn chàng một lúc với đôi mắt trầm lặng. Giữa hai người có một lúc do dự, tế nhị, khó khăn. Rồi thu hai bàn tay vào tay áo theo thói quen của phụ nữ, nàng khẽ cúi đầu nói:
- Xin anh hãy ngồi xuống.
Nàng đi lại trong phòng, dịu dàng và âm thầm như thường lệ, với những cử chỉ duyên dáng. Nàng rờ bình trà, thổi cho than cháy đỏ trong chiếc thau đồng ở dưới, trải chăn lên giường, bỏ màn xuống. Khi nước nóng, nàng châm trà vào chén cho chồng. Chàng cúi đầu mỉm cười nhưng hai mắt dán chặt vào mảnh giấy.
Rồi nàng bước ra khỏi phòng với sự bình tĩnh hoàn toàn. Nàng thay áo, mặc toàn hàng trắng, lau mặt lau tay và xúc miệng. Trước khi nằm, nàng đến bên giường cô bé đặt bên kia phòng, một chiếc giường nhỏ bằng tre phủ màn chung quanh. Nàng vén màn sờ bàn tay con bé đặt ra ngoài cạnh giường. Bàn tay ấm và hơi thở đều đặn, nhẹ nhàng. Cầm ngọn đèn sáp trên bàn, nàng xem xét cẩn thận chiếc màn trước khi khép lại. Nàng sợ muỗi cắn con. Thấy một con trong màn, nàng đập chết. Sau đó nàng bước sang giường cậu bé con. Trời nóng, cậu ngủ không mặc quần áo chỉ trừ một vuông vải đỏ đắp ngang bụng. Nàng đẩy chân con sang một bên thật dịu dàng, âu yếm, để có một chỗ nhỏ nằm xuống nhẹ nhàng. Và khi cậu bé thức giấc, nàng vỗ nhẹ vào người nó theo một nhịp điệu đều đều, êm ái. Cậu bé cảm thấy sự hiện diện thường lệ của mẹ ở bên cạnh, tiếp tục ngủ lại. Nhưng người vợ trẻ vẫn thao thức, bất động. Nàng lắng tai nghe từng tiếng động ở phòng bên.
Trong một lúc lâu, chỉ có tiếng giấy vò nát và tiếng hộc tủ đóng lại. Một nghiên mực rơi xuống đất, bể tan. Nàng nghe chồng kêu lên một tiếng ngoại quốc mà nàng không hiểu. Trước khi ngủ, nàng tắt ngọn đèn mỡ bò, sợ hao và tỏa mùi hôi trong phòng. Nàng thắp ngọn đèn dầu phong. Từ ngày chồng đi xa, nàng không chịu được bóng tối trong đêm. Bây giờ chồng đã trở về, nhưng chàng không như xưa nữa. Ngọn đèn dầu tỏa một ánh sáng lờ mờ và trở nên vô nghĩa khi ánh trăng thu từ bên ngoài chiếu rọi vào phòng.
Nàng lẩm bẩm:
- Bình minh sắp ló dạng.
Nàng nghe tiếng chồng thở dài, đứng lên đi về phía giường của chàng.
Mấy phút im lặng trôi qua. Nàng nghe ngóng, thầm mong chàng sẽ gọi nàng chăng? Nhưng chàng ngả lưng trên chiếc giường gỗ kêu răng rắc. Đó là một chiếc giường lớn chạm trổ có từ hai đời.
Chàng lại thở dài. Sau đó, im lặng hoàn toàn. Chàng đã ngủ.
Còn nàng, nàng nằm trong đêm như bảy năm qua, cánh tay ôm ngang người cậu bé con.
* * * * *
Sáng hôm sau, nàng thức theo thói quen, một giờ trước người ăn ở kẻ trong nhà. Nàng chui ra giường nhẹ nhàng không làm thức giấc cậu bé.
Dưới ánh sáng lờ mờ của bình minh, nàng chải tóc bằng chiếc lược trắng bằng sừng. Nàng ngồi trước bàn con, tấm gương in rõ nét mặt nàng.
Theo phong tục địa phương, loại bàn này là vật thân thiết mà cô dâu phải mang theo khi về nhà chồng. Cha nàng cũng khá giả nên chiếc bàn được đóng bằng loại danh mộc, các hộc tủ đều có tay nắm bằng đồng. Cũng như tất cả đồ vật của nàng, chiếc bàn được chăm sóc lau chùi luôn luôn. Nàng chải tóc cẩn thận.
Có tiếng ho ngoài cửa. Nàng vén màn lên. Một người tớ gái mang đến một ấm nước nóng. Nàng cầm lấy đặt lên trên bàn nhỏ, cho khăn lông vào, vắt ráo lau mặt, tay. Thoa sơ một lớp phấn trên má và trán, nàng đã sẵn sàng. Dù ăn mặc giản dị nàng trông hãy còn trẻ, vóc người mảnh mai, đều đặn. Không ai nghĩ là nàng đã có con, khi thân hình rất thẳng và đôi vú nhỏ. Dù vậy, nàng không đẹp. Nàng thiếu linh động, hoạt bát. Nàng quá trầm lặng...
Sau khi sửa soạn xong, nàng xuống bếp xem những gia nhân nấu cơm sáng.
Nàng bảo một bà lớn tuổi chỉ dạy hai cô gái đồng quê giúp việc trong nhà:
- Hôm nay làm món gà phơi khô.
Bà bếp nói:
- Tôi sẽ cắt vài miếng. Cậu nhà còn thích những món nào khác?
Nàng nói:
- Anh ấy thích đậu đỏ hầm thịt bỏ tiêu. Nhớ pha trà, thứ thiệt ngon.
Bà tớ chánh hôm qua, đứng bên cạnh bà cụ bước xuống bếp, mang theo chiếc khăn sạch, một cục xà phòng đỏ và một thau đồng, đựng nước nóng. Một cô gái bước theo sau, cầm một ấm trà mới, hỏi:
- Thưa cô, mình đi bây giờ chớ?
Nàng gật đầu:
- Phải, Wang Ma.
Nàng hướng dẫn hai người tớ gái tới trước cửa phòng mẹ chồng. Nàng ngừng lại, khẽ tằng hắng. Bà mẹ kêu lên:
- Vô đi!
Ba người bước vào trong. Với gọng dịu dàng, nàng hỏi:
- Mẹ có ngủ ngon giấc không?
Hỏi xong nàng lấy ấm trà người tớ đặt lên bàn, chế vào chén rồi đứng trước cửa màn chờ đợi.
Một bàn tay gầy và vàng thò ra màn bưng chén trà.
Nàng dâu châm thêm một chén nữa và cũng được bà mẹ chồng uống như lần trước. Sau đó nàng đứng bên bàn đèn, làm thuốc cho mẹ chồng. Khi nàng dâu và cô tớ gái bước ra ngoài, người tớ già ở lại để tiếp tục phục vụ bà chủ.
Mỗi sáng, công việc phục vụ kể trên tiếp diễn đều đều! Lo cho mẹ chồng xong nàng dâu trở về phòng mình thay quần áo cho con. Nhưng bây giờ còn có một người khác để cho nàng săn sóc. Trước kia, mang trà buổi sáng cho chồng là chuyện tự nhiên. Bây giờ, điều ấy có hơi khó một chút. Chồng nàng đã thay đổi quá nhiều khiến nàng có cảm tưởng như vào phòng một người lạ. Dù vậy, bổn phận làm vợ của nàng vẫn không thay đổi. Nàng bảo cô tớ nhỏ:
- Mang tới cho chị một thau nước nóng và một bình trà, lấy bình đẹp nhứt, và cho trà mới vào.
Nàng chờ cô tớ mang trà tới, mở nắp bình, ngửi hương thơm của trà. Nàng tiến về phía cửa phòng chồng, tằng hắng. Cô tớ đứng phía sau.
Không có tiếng đáp lại. Nàng áp tai vào cửa màn nghe ngóng rồi len ngón tay qua vai màn. Chồng nàng đã đóng cánh cửa. Nàng khẽ đập cửa bằng lòng bàn tay.
Tiếng chồng nàng kêu lên:
- Ai đó?
Nàng giựt mình sợ hãi về giọng cộc lốc đó. Từ lâu nàng quên cảm giác về sự có mặt của một người đàn ông trẻ tuổi, khỏe mạnh, trong nhà. Bảy năm là một thời gian dài mà nàng đã trải qua bên cạnh cha mẹ chồng già và mấy đứa con. Từ ngày cha mẹ ruột nàng mất, nàng trở về mái nhà xưa. Cho nên nàng không biết rõ một người đàn ông có thể kêu to đến mức nào.
Cánh cửa vụt mở và Vương đứng trước thềm, mắt còn nhắm, tóc tai rối bời. Chàng hỏi với giọng bực dọc:
- Việc gì vậy?
- Em mang trà cho anh. - Nàng ấp úng.
Vương kêu lên:
- Trà!
Rồi mỉm cười, vuốt tóc, ngáp:
- Được. Đem vào. Tôi quên lửng chuyện uống trà. Trong bảy năm qua, tôi không hề uống trà quá sớm như vậy - Đôi mắt nhìn xuống chiếc thau đồng, Vương nói - Tôi cần nhiều nước hơn. Tôi có thói quen tắm mỗi buổi sáng.
Nàng nhìn cô tớ với vẻ kinh ngạc. Cô tớ là người ở quê, không biết phép lịch sự nên nói cụt ngủn:
- Tắm phải tốn nhiều nước. Nếu muốn tắm thì tới chỗ tắm công cộng.
Người vợ trẻ khó chịu về giọng của con bé, nghiêm nghị bảo:
- Cậu muốn gì là phải có cho cậu.
Rồi quay về phía chàng, nàng nói:
- Trong chốc lát sẽ có nước cho anh.
Vương nói một cách vô tư:
- Nếu mất công thì thôi.
Nàng nói:
- Không có gì mất công, nhứt là anh mới về sau bảy năm xa vắng.
Vương quay mặt đi, châm thêm trà vào chén.
Khi thấy không còn gì để nói, nàng bước ra ngoài để trông nom việc nấu nước. Người thiếu phụ có cảm nghĩ là ngày trở về đầu tiên của chồng nàng phải khác hẳn bảy năm trầm lặng mà chàng đi vắng. Biến cố quan trọng nhứt trong mấy trăm ngày đó là việc nhận thơ của Vương, ông cụ đọc lớn lên cho cả nhà nghe. Bà cụ, nàng dâu và hai đứa bé ngồi đúng vào ghế của họ.
Các bức thơ của Vương đều giống nhau. Chàng nói về sự học hành của mình, một đôi khi kể chuyện mà chàng chứng kiến hoặc ra một lịnh cho gia đình thi hành. Chẳng hạn như Vương viết “không được bó chân con gái tôi” hoặc “con trai tôi phải được gởi vào trường chánh phủ. Nó sẽ không học Tứ thơ như cha nó trước kia. Ngày nay những sách đó trở nên vô ích”.
Hai vấn đề đó đã gây kinh hoàng cho cả nhà. Ông cụ ngừng lại ở các đoạn đó, và qua đôi kính trắng nhìn bà cụ và nàng đâu.
- Nếu không bó chân cho con bé, làm sao có thể kiếm cho nó một người chồng xứng đáng?
Bà cụ kêu lên đầy kinh hoàng. Bà kéo chân lên, hai bàn chân nhỏ và nhọn mà bà đang sưởi ấm trên một đĩa than nóng. Bức thơ ấy về đúng vào mùa đông.
Ngay lúc đó không ai chịu chấp nhận lịnh không bó chân con bé của Vương. Ông cụ liền viết cho Vương nói rõ là khó thi hành ý muốn của chàng.
Vương trả lời ngay, bức thơ tới nhà không quá hai tháng, Vương nhấn mạnh là “Con muốn không ai cãi lại ý con. Nếu không con sẽ không hài lòng”.
Ông cụ bất mãn, trợn mắt và đưa tay run run vuốt râu nói:
- Tôi hy vọng thằng Vương đừng quên là khi nào tôi còn sống tôi là người chỉ huy trong gia đình. Tôi nghĩ là nó phải nhớ điều đó.
Sau cùng con dâu nói thật ôn tồn nhưng cương quyết:
- Con thấy nên nghe lời chồng con thì hơn. Mình nên nghe theo những lời căn dặn của anh ấy.
Và đôi chân cô bé được để này nở tự do, mặc dầu nỗi buồn của người mẹ khi thấy bàn chân của con dài ra một cách tuyệt vọng. Nàng chỉ đành đặt giày thật chật cho con mang.
Cách đó không bao lâu vấn đề học vấn của cậu bé lại được đặt ra. Cậu bé hãy còn nhỏ quá, nhưng ông cụ đã vội lo xa. Ông lẩm bẩm một cách não lòng “Không học được Tứ thơ! Vậy là không biết những lời chỉ dạy của Thánh hiền! Rồi nó sẽ biết những gì đây?” Ông cụ đã đọc hết sách của Khổng Tử và ông tin chắc là không có sách nào dạy đúng hơn. Chính ông đã cố gắng xử sự đúng theo sách của Khổng Tử. Cho nên ông không bao giờ rơi vào những sự thái quá. Ông luôn luôn giữ đúng mực Trung Dung.
Ông thấy điều quan trọng vào bực nhứt là hai đứa cháu nội của ông phải biết rõ đạo làm người. Đối với người đàn bà, ông cho việc học sách thánh hiền là thừa. Đàn bà thường giản dị và trí óc họ thiếu thông minh. Người ta cần đưa cho họ xem những chuyện dễ thấy.
Ông cụ nghiêm nghị nói:
- Cháu nội tôi sẽ lớn lên vô đạo đức!
Nhưng lúc bấy giờ đã quá muộn để viết thơ cho Vương. Cho nên cả nhà cố kiên nhẫn chờ đợi.
Đó là những vấn đề nghiêm trọng nhứt đã làm sôi nổi gia đình trong khi Vương vắng mặt, kỳ dư các năm ấy trôi đi vô tích sự.
Về con dâu thì cha nàng mất về bịnh kiết lỵ vào một mùa hè. Mùa đông năm sau mẹ nàng mất về một bịnh kỳ lạ không ai biết. Gia sản chia cho bốn người con trai và ngôi nhà cũ chia làm tư cho bốn gia đình. Người thiếu phụ trở nên xa lạ, không muốn trở về mái nhà xưa. Nàng đành chôn vùi cuộc sống riêng trong gia đình nhà chồng với một lòng tận tụy vô bờ, yêu mến cha mẹ chồng đã tỏ ra tử tế với nàng.
Nàng không biết phải tạ ơn trời Phật như thế nào cho xứng đáng khi đấng vô hình đã ban cho nàng một bà mẹ chồng quá phúc hậu. Khi cùng cha mẹ chồng đi chùa lễ Phật, nàng cám ơn vị thần đã giúp nàng đẹp duyên cùng chồng nàng.
Nàng biết có những bà mẹ chồng khắc nghiệt, ganh ghét con dâu và làm cho cuộc sống của con dâu không thể chịu được. Nhưng bà mẹ chồng của nàng là bà mẹ xứng đáng. Nàng dâu và mẹ chồng hết sức hòa thuận với nhau. Cô dâu thì trầm lặng còn bà cụ thì hiền lành và sống ẩn dật. Từ lâu bà cụ ăn chay trường và luôn không động đến sanh vật. Khi một con bướm bay vô nhà bà cụ không cho đám gia nhân giết. Bà bảo người tớ bắt con bướm thả ra ngoài.
Thật ra thì cha mẹ chồng rất đáng được nàng dâu yêu mến và phục vụ. Ông cụ xem nàng như con ruột. Mỗi sáng, ông đến cửa hiệu trông các người đứng bán và kiểm tra kho hàng. Khi trở về, áo quần ông còn thoang thoảng mùi thơm của trà, cô dâu đem đến cho ông một bình trà và một chiếc quạt nếu là mùa hè và một đĩa than hồng nếu là mùa đông. Nàng học làm thuốc theo sở thích của cha chồng. Nàng lau sách trên án thư của ông cụ, nàng sắp đặt mấy chiếc quạt cổ mà ông cụ chịu khó sưu tăm, những chiếc quạt ấy quá cũ kỹ và mỏng manh, nàng không dám giao cho đám gia nhân trông coi.
Không như với các ông cha chồng khác xem chuyện nàng dâu phục vụ cho mình là chuyện tất nhiên, ông cụ luôn luôn cám ơn các công việc nàng dâu làm cho ông. Ông cụ luôn luôn nhã nhặn lịch sự với cô dâu và những lời khen của ông cụ làm cho nàng vui vô cùng.
Ngôi nhà không rộng như các ngôi nhà khác vì đã được chia cắt trong thế hệ trước. Ngôi nhà có ba vườn hoa, một vườn mẫu đơn, một vườn trúc và một vườn cúc.
Ông cụ rất yêu hoa. Ông thích thưởng thức hoa mẫu đơn nở, hoa huệ trổ dưới khóm trúc và cúc nở vào mùa đông.
Ngày xuân đẹp nhứt là ngày người ta thấy lần đầu tiên các nụ mẫu đơn từ dưới đất đen vươn lên. Cả nhà đều ra thưởng thức.
Có một lần duy nhứt nàng dâu thấy ông cụ nổi giận. Đó là lúc cậu bé nghịch ngắt một nụ hoa. Không nói một tiếng, ông cụ cúi xuống, tát vào cổ cậu bé. Bốn ngón tay xương xẩu của ông cụ hằn trên chiếc cổ tròn của cậu bé. Nó kinh ngạc một lúc rồi kêu ré lên đầy sợ hãi. Ông cụ tái mặt. Ông ấp úng: “Mình đã quá nóng”, rồi đi nhanh vào phòng đóng cửa lại ở trong đó thật lâu.
Đến tối, nàng dâu nắm tay cậu bé đưa đến ông cụ. Nàng bắt nó quỳ xuống lạy ông để xin lỗi. Chính nàng cũng xin lỗi cha chồng.
- Thưa cha, con không hiểu tại sao con của con lại thiếu tư cách đến thế. Con rất lấy làm xấu hổ và khổ sở. Con xin cha tha lỗi con đã vụng về trong việc dạy dỗ con cái.
Ông cụ dịu dàng đỡ cậu bé lên rồi ôm nó trong tay:
- Lẽ ra thì nó không được chạm tới cành mẫu đơn. Khi bị ngắt như vậy gốc mẫu đơn sẽ không thể nở những nụ đẹp, hoa lá cũng kém đi. Nụ hoa kia đã bị ngắt đang giữa lúc còn đang nảy nở. Nhưng cháu nội của cha hãy còn bé quá. Lỗi là ở nơi cha, một người đã già và bao nhiêu năm qua đã theo học thánh hiền, tưởng là đã đạt tới chánh đạo nhưng lại còn nóng nảy một cách phàm phu. Cha hãy còn chậm tiến!
Ông cụ thở dài, nàng dâu không chịu được khi thấy cha chồng buồn. Nàng nói thật dịu dàng:
- Cha là người đàn ông hoàn toàn nhứt mà con đã gặp. Cha là một người cha xứng đáng nhứt đối với con và đối với tất cả những người khác.
Ông cụ mỉm cười trước những lời đó. Ông thấy được an ủi phần nào, dù ngoài mặt ông vẫn giữ thản nhiên, ông tiếp tục đọc sách và nàng dâu đưa con ra ngoài.
Những vụ nho nhỏ như vậy tạo nên những biến cố lớn trong gia đình. Từ ngày Vương vắng mặt, không ai chú ý đến những ngày lễ cho nên bảy năm trời qua như một giấc mộng. Mùa hè lặng lẽ trôi sang mùa thu, hoa cúc nở rực rỡ ngoài sân. Mùa đông các búp măng nở hồng trên tuyết trắng. Rồi xuân lại đến với những nụ hoa huệ và hoa mai nở trên cành đen trụi lá. Và cuộc đời cứ thế trôi đi, năm này qua năm khác.
Trong cuộc đời của người thiếu phụ chỉ có hai biến cố quan trọng xảy ra sau khi nàng sanh cậu bé.
Biến cố thứ nhứt là việc dứt sữa khi con lên bốn và biến cố thứ hai là cậu bé lâm bịnh vào mùa hè, cách đây hai năm. Lần đó nàng trải qua một cơn lo sợ hãi hùng nhứt đời nàng. Buổi sáng cậu bé hãy còn mạnh khỏe vui vẻ nhưng đến xế chiều thì cậu ỉa mửa dữ dội và chỉ vài giờ sau là cậu bé chỉ còn xương bọc da. Cả nhà đều kinh hoàng. Bà cụ tất tả chạy lên chùa. Ngày thường bà cụ chỉ đi được vài bước ngoài sân thôi. Bà cụ hứa sẽ cúng cho nhà chùa cả nắm bạc nếu cháu nội bà sống.
Bà cụ quỳ xuống dưới chân Phật Bà, đập mạnh trán xuống nền gạch, nghẹn ngào khấn vái. Bà thành tâm cầu nguyện thật lớn làm xúc động các quả tim, kể cả quả tim của các pho tượng đất sơn son phết vàng. Các nhà sư cũng đâm ra hốt hoảng vì sợ bà cụ chết đến nơi nên vội vàng đỡ bà lên, bảo:
- Cụ đã cầu nguyện xong và Phật Bà sẽ chứng kiến lòng thành của cụ. Bây giờ cụ nên trở về nhà.
Khi bà cụ về đến nhà thì cậu bé thay vì đỡ, lại trở bịnh nặng thêm. Đôi môi cậu tái xanh và các móng tay của cậu tím đen.
Bấy giờ Waog Ma, người tớ già đã thấy bảy đứa con của bà chết lúc bà hãy còn trẻ, kêu rú lên:
- Phải hú hồn nó, mau lên!
Bà đốt đèn giấy lên chạy ra sân, bảo người mẹ trẻ xách chiếc áo của đứa bé chạy theo. Cả hai chạy trên các nẻo đường lát gạch. Wang Ma nêu cao chiếc đèn giấy lên, vừa chạy vừa réo: “Ba hồn chín vía cậu bé hãy trở về nhà mau”. Người mẹ trẻ đưa chiếc áo đỏ của cậu bé lên cao, chiếc áo mà con nàng thường mặc, để hồn cậu bé nhận ra mà trở về. Đã nhiều lần nàng nghe tiếng gọi hồn của những bà mẹ khác và những lúc ấy nàng run rẩy ôm chặt lấy đứa con thơ trong lòng. Bây giờ đến lượt nàng! Những người đi đường trông thấy bảo nhau: “Vái trời cho hồn đứa bé trở về”. Người mẹ trẻ tiếp tục chạy, hai bàn chân nhỏ bé lướt trên những hòn đá tròn và trơn, không chú ý đến những cảnh bên ngoài thành phố mà từ lâu nàng không trông thấy. Nàng chỉ nghĩ tới đứa con trai duy nhứt của nàng đang hấp hối. Nhưng kết quả đã đạt. Khi trở về nhà, mệt nhoài, họ thấy ông cụ ngồi gần giường, người tớ đứng bên cạnh cầm một chén cháo nóng. Ông cụ từ từ đút từng muỗng nhỏ vào miệng đứa bé. Cậu bé hãy còn nhắm mắt, nhưng nó nuốt được cháo. Hồn nó đã trở về.
Cậu bé phục hồi nhanh chóng cũng như cậu lâm bịnh nhưng những người lớn phải mất nhiều thì giờ mới qua cơn kinh động trong đêm. Mấy ngày sau, ông cụ hãy còn tái xanh, và chốc chốc ông lại gọi cậu bé đến gần, rờ rẫm để xem cậu có bình phục, mập mạp như trước không, ông vui vẻ bảo:
- Bây giờ con mới thật là của nội. Con đã khỏe mạnh như trước.
Còn bà cụ thì cứ lải nhải:
- Nếu tôi không đi chùa và nếu Phật Bà không chứng kiến lòng thật của tôi, bảo toàn sanh mạng cho nó thì tôi hỏi có trời mới cứu được nó! Tôi nghĩ là tôi đã cúng chùa không mất mát đi đâu!
Riêng về người mẹ trẻ, nàng thường thức giấc trong đêm, toát mồ hôi lạnh vì nằm mơ thấy mình chạy cuống cuồng trên các nẻo đường tối tăm, tay cầm chiếc áo đỏ để cho hồn đi lạc của đứa bé trở về.
Bảy năm dài đã trôi qua như thế, trôi qua trong một nếp sống bình thản trầm lặng. Tất cả hy vọng đều tập trung vào ngày trở về của kẻ đi xa.
Ông cụ thấy đứa con của mình được nhấc lên một địa vị cao, trở thành một nhân vật lỗi lạc, cũng như trong quá khứ dòng dõi ông đã sản xuất nhiều người hữu dụng. Dòng dõi ông chưa hề có ai chiếm một chức vụ quân sự trong các triều vua. Nhưng đã có nhiều người giữ vai trò quan trọng hơn nhiều như, thái phó, phó vương và tể tướng. Dòng dõi ông có những người đi vào ngành thương mãi, có người trông nom các sở trà để cung cấp tiền bạc cần thiết trong trường hợp thay đổi các triều vua, bắt buộc kẻ xuất chính phải tạm thời treo ấn từ quan.
Ông cụ không thấy có điều gì đáng cho con ông hãnh diện hơn là giữ một chức vụ quan trọng. Kể ra thì thời buổi vua chúa đã qua rồi và các vấn đề quốc gia đại sự đã thay đổi. Nhưng chánh phủ vẫn là chánh phủ và khi Vương đến tìm ông tại văn phòng và năn nỉ ông cụ xin được đi học ở hải ngoại, ông cụ thấy lo ngại trước những lời của chàng: “Con không hy vọng kiếm một chức vụ trong ngành hành chánh nếu không hấp thụ một nền văn hóa Tây phương. Trong hai việc, một là con bỏ học để theo cha buôn trà, hoặc là con phải đi du học, con phải chọn một”.
Ông cụ hơi bực:
- Tứ thơ đã trở nên vô dụng rồi sao? Cha đã dạy con nhiều và con cũng đã học thêm với một nhà thông thái, con còn theo đuổi cuộc học vấn ở các trường ngoài bờ biển, các trường của người ngoại quốc, nơi đó người ta dạy văn hóa Tây phương...
Nhưng Vương đáp một cách cương quyết:
- Tứ thơ ngày nay chỉ là những quyển sách xưa. Các sách đó không mở đường cho một nghề nào.
Ông cụ không thể tin được lời lẽ của con, dù vậy ông phải nhượng bộ. Nhưng bà cụ tỏ ra bướng bỉnh hơn. Bà không đồng ý cho Vương du học.
- Không. Thằng Vương chỉ có thể du học sau khi có được một đứa con trai.
Giọng bà rất dịu, nhưng cặp mắt bà rất sắc và nghiêm khắc.
Vương cố giữ vẻ vui tươi, mặc dầu cậu hơi khó chịu:
- Làm sao con có thể đẻ một đứa con trai cho mẹ? Ví dụ như vợ con chỉ sanh toàn con gái như một số người đàn bà khác, thì con có thể bỏ hết sự tiến thủ chỉ vì vợ con không sanh con trai?
Bà cụ kéo một hơi mạnh, đẩy dọc tẩu ra, nhấn mạnh:
- Này con, nhứt định con phải có một đứa con trai. Nếu con chết ở cái xứ dã man đó thì ở nhà cha mẹ hãy còn máu thịt của con...
Bà cụ lấy lại sự bình tĩnh thường lệ, nói tiếp:
- Mẹ sẽ cố giúp cho con. Mẹ sẽ đi chùa lễ Phật, mẹ sẽ van vái, cầu nguyện gấp đôi để cho con có một đứa con trai. Mẹ sẽ tặng thêm lễ vật cho vị thần trông coi về việc cầu tự.
Vương cười bảo:
- Con cám ơn mẹ đã nhân nhượng với giá đó. Con muốn chia niềm tin của mẹ và biết là con sẽ có một đứa con trai.
Bà mẹ nói thêm một cách nghiêm trang:
- Con phải biết là chúng ta sẽ được Trời Phật chứng giám tùy theo mức độ tin tưởng của chúng ta.
Vương im lặng. Chàng đã không còn tin tưởng từ lâu, khi còn trẻ nhỏ, khi cậu theo cha mẹ vào chùa. Cậu nắm chặt lấy tay mẹ, kinh hãi trước nét mặt hung bạo của các vị thần. Nhưng cậu không dám thú nhận là cậu sợ, dù là thú nhận với cha, vì cậu đã bác bỏ những nguyên lý của Khổng giáo mà cha cậu đã dạy dỗ cậu từ tấm bé.
Nếu biết được những biến đổi trong tâm hồn của Vương, cha mẹ cậu đã phải kinh hoàng vì Vương chỉ tin tưởng ở các chiến hạm ngoại quốc mà họ chưa thấy lần nào. Vương chỉ tin tưởng ở các khẩu đại bác khổng lồ, ở các đạo quân có kỷ luật và ở tất cả những gì tượng trưng cho sức mạnh. Vương thường thầm mơ một ngày nào đó cậu có thể đúc những khẩu đại bác khổng lồ đó cho đất nước của cậu, đúc những khẩu súng trường cho đàn ông xử dụng, đóng các tàu thép vĩ đại có gắn những thớt đại bác to tướng, đóng các phi cơ thả bom xuống những kẻ khác ở dưới. Tất cả những thứ đó cha mẹ cậu không hề nghe nói đến.
Chính vì những điều đó mà cậu đã xuất ngoại trong bảy năm dài: Vương học chế tạo các thứ máy đó.
Trong thời gian Vương ở ngoại quốc, ông cụ đọc sách, thưởng thức các chiếc quạt cổ, chăm sóc các gốc hoa còn bà cụ thì luôn luôn lo giữ không cho ai trong nhà sát sanh, lo cho những con bướm không bị đèn sáp thiêu cháy. Cũng trong thời gian ấy nàng dâu lo trông nom mọi việc trong nhà.
Bây giờ sau bảy năm xa cách, Vương đã trở về. Nhưng tất cả đều cảm thấy một sự thay đổi. Trước khi bước sang ngày thứ hai, tất cả đều hiểu là Vương đã trở thành một kẻ khác. Cả đến lúc chàng hát hay cười, người ta thấy tâm hồn chàng ở đâu, như gởi trọn vào một cuộc sống khác.
Vương rất bận trong việc thư từ. Ba bức thơ đến trong một ngày, mỗi bức đều đóng dấu lớn.
Vương im lặng đọc và không cho ai biềt nội dung.
Nhưng khi bức thơ thứ ba đến, chàng rời bàn viết đến tìm ông cụ đang ngủ trưa trên ghế bành bằng mây dưới gốc thông, mặt phủ khăn để che ruồi.
Vương tằng hắng và ông cụ mở mắt nhìn dưới chiếc khăn tay. Khi thấy Vương, ông cụ gắng ngồi dậy, có hơi ngượng vì đã ngủ.
- Có việc gì vậy?
Vựơng đi ngay vào đề:
- Thưa cha, con được gọi gấp lên thủ đô. Con không thể kéo dài những ngày ở đây. Ngày mai con phải lên đường, đi thật sớm. Con rất tiếc, vì con dự định ở nhà đúng một tháng. Nhưng có nhiều biến cố, các biến cố quốc tế...
Vương hơi do dự.
Ông cụ lau mặt với chiếc khăn tay, vuốt chòm râu, miệng mở rồi lại khép lại, “Quốc tế” ông lẩm bẩm danh từ xa lạ đó vì ít khi nghe nói. Vương giải thích:
- Quốc tế có nghĩa là giữa các nước ngoài.
Ông cụ kinh hãi:
- Con muốn nói là con lại đi ra nước ngoài?
Vương mím môi, cố giằn sự bực bội, đáp:
- Không, không phải như vậy. Sự thật là có nhiều tin đồn là sắp có chiến tranh xảy ra với một nước ở phía Bắc chúng ta. Người ta đang cần con.
- Vậy à! - Ông có hơi lảo đảo và đặt bàn tay lên cánh tay Vương:
- Con cứ đi nếu con cần phải đi, nhưng đừng xen vào chiến tranh, chiến tranh tai hại lắm. Chỉ có những phường vô lại hạ cấp mới dấn thân vào.
Miệng Vương khẽ run, nhưng chàng nói thật nghiêm nghị:
- Không đúng như vậy đâu, thưa cha.
Rồi bước đều theo cha, Vương trở vô nhà.
Vương không trình bày với vợ như đã giải thích với cha vì chàng nghĩ là nàng không thể hiểu được những chuyện ngoài phạm vi bếp núc. Dù vậy, chàng dịu dàng nói với nàng:
- Tôi rất tiếc không thể ở nhà một tháng như đã dự định. Tôi mới vừa gặp hai con và tôi có nhiều dự định về chúng nó. Có lẽ vào dịp Tết, tôi sẽ ở nhà lâu hơn.
Vương đi vắng cả ngày hôm đó, bỏ cả bữa cơm trưa ở nhà. Đến tối chàng đi dự một buổi tiệc. Trước khi đi, chàng dặn nàng:
- Không nên chờ tôi. Tôi sẽ về thật trễ và sáng hôm sau tôi sẽ đi vào hừng đông.
Nàng không nói gì, chỉ đứng trước mặt chàng, sẵn sàng để trao cho chồng một chiếc gậy kỳ lạ uốn cong mà chàng thích xách đi mỗi khi ra khỏi nhà.
Nàng chờ đợi chồng, đó là bổn phận của nàng. Trong đầu óc nàng không hề hỏi tại sao.
Đêm ấy, khi các nhiệm vụ thường lệ đã làm xong nàng ngồi trong phòng của Vương. Nàng ngồi trên chiếc ghế bên cạnh bàn, cặm cụi thêu áo gối cưới của con gái.
Về sau, mệt mỏi, nàng cẩn thận xếp vuông vải lại, ngồi khoanh tay, im lặng. Hai bàn tay của nàng thật đẹp, trắng xanh, và người ta có thể ngỡ là hai bàn tay chạm khắc hay vẽ. Nàng ngồi như vậy, bất động.
Khi nghe tiếng người ngoài rào, nàng đứng lên, thổi mớ than dưới bình trà và nghe ngóng. Tiếng đàn ông kêu gọi thật vui vẻ. Tiếng Vương cười đùa đáp lại với những chuỗi cười dòn. Thế rồi có tiếng chân vang lên và tiếng gọi cổng.
Trong chốc lát, Vương bước vào phòng, nụ cười thỏa mãn còn tươi trên gương mặt. Chung quanh đôi mắt và dưới má, mặt chàng hồng lên vì men rượu. Nhưng không phải là say vì Vương biết đến lúc nào phải ngưng uống. Là người có học, chàng không hề đi quá mức như những kẻ phàm phu. Màu hồng trên má chỉ là dấu hiệu của sự hân hoan thường lệ, vì nó giúp cho Vương có lý do để không uống thêm nữa. “Tôi đã uống nhiều rồi. Nếu uống thêm, mặt tôi sẽ đỏ bừng lên”.
Vương giựt mình khi thấy nàng đứng yên như một chiếc bóng trong gian phòng lờ mờ. Chàng kêu lên:
- Kìa, tôi không ngờ. Em không nên chờ đợi...
Rồi chàng buông mình trên chiếc ghế, lấy khăn tay lau mặt, vuốt tóc, trong khi vẫn tiếp tục cười:
- Vui ơi là vui. Tất cả bạn bè đều có đủ. Có những người ở tận bờ biển cũng đến. Nhiều người nghe mình có một chức vụ quan trọng ở thủ đô nên muốn tỏ ra thân thích để hy vọng nhờ vả. Nhưng chuyện đó về sau sẽ hay. Mình chỉ giúp những kẻ hữu ích.
Chàng dang hai cánh tay ra, vươn vai ngáp và nói tiếp:
- Buồn ngủ quá. Và ngày mai mình phải thức trước hừng đông. Em đừng chờ tôi nữa. Tôi van em. Bây giờ nhất định là tôi phải ngủ.
Một lần nữa, không khí im lặng đè nặng lên hai người, và cũng như đêm qua, nàng là người phá bầu không khí im lặng đó. Hai bàn tay chui trong hai tay áo, nàng cúi đầu và nhẹ nhàng ra khỏi phòng. Chàng chăm chú nhìn nàng bước ra, bỗng kêu lên:
- Sáng mai, em đừng thức sớm vì tôi đi thật sớm. Mà em có thức cũng vô ích vì anh đã căn dặn tôi tớ trong nhà rồi.
Nàng dừng lại bên cửa, nói thật bình tĩnh:
- Mai em sẽ thức sớm để lo cơm nước cho anh.
Vượng hơi bực:
- Không! Tôi cấm em. Tôi không thể ăn quá sớm như vậy.
Nàng do dự rồi nói:
- Em sẽ làm đúng theo ý anh.
Dù vậy, khi thức vào hừng đông, Vương vẫn thấy bữa ăn dọn ra trên bàn, với đôi đũa riêng của chàng. Các đĩa đựng thức ăn và một thùng cây đậy nắp đầy cơm nóng. Không thiếu một món gì. Chàng đã bảo không đói nhưng hương thơm của các thức ăn quá khiêu gợi, quá hấp dẫn nên chàng ngồi xuống ăn thật ngon miệng.
Phía sau màn, nàng đứng nhìn nhưng không bước ra vì chàng đã cấm. Nàng chỉ đành dọn buổi cơm sáng ra đó để hy vọng là chàng sẽ đổi ý và ăn cho no trước khi lên đường.
Khi Vương sắp sửa đi, ông cụ đến trước cửa phòng, hai vạt áo dài cẩn thận vén lên cao.
Vương cúi đầu nói:
- Cha không nên thức quá sớm. Cha già yếu rồi, cần ngủ cho thẳng giấc. Cha đi nghỉ đi. Con sẽ còn trở về đây mà.
Ông cụ đặt bàn tay vàng mét của ông lên cánh tay Vương:
- Con nên lo cho con, con nên giữ gìn sức khỏe và trở về đây mau. Nói với quan Tổng trấn thượng cấp của con cho ông ta biết con là con một của gia đình. Nói vậy là ông ta hiểu. Chỉ về được có hai ngày sau bảy năm!
Vương hăm hở muốn lên đường sớm nhưng lễ phép đợi cha rút bàn tay trên vai mình.
Chàng đáp:
- Thưa cha vâng!
Rồi chào lần nữa trước khi bước đi. Khi cánh cổng khép lại, người vợ trẻ dọn bàn.
Ông cụ nhìn nàng dâu thật chăm chú nhưng nàng vờ quan tâm đến công việc và gương mặt nàng không biểu lộ một cảm nghĩ gì. Nàng trắng xanh, nhưng không hơn ngày thường. Mặc dù trời hãy còn lờ mờ tối, nàng vẫn ăn mặc theo lệ thường, tóc vẫn chải láng trơn.
Bỗng ông cụ vỗ tay kêu lên:
- Mình quên nói chuyện về việc cho thằng bé học Tứ Thơ. Con chạy nhanh ra ngoài xem nó đã đi xa chưa.
Nàng vội vàng mở cổng nhìn ra ngoài đường tối đen và im vắng. Các tia sáng đầu tiên của bình minh cho thấy những ngôi nhà khép kín ở hai bên đường, nhưng Vương đã biến mất. Chỉ còn một ngọn đèn nhỏ chiếu sáng ở đầu đường. Đó là ngọn đèn của người tớ có bổn phận đưa Vương ra bờ sông để xuống thuyền.
Nàng trở về:
- Thưa cha đã quá muộn.
Gương mặt ông cụ dài ra, ông nói:
- Không hề gì. Nó sẽ trở về đây sớm, không trễ hơn mấy ngày Tết. Chỉ trong vòng sáu tháng thôi. Mà sáu tháng có nghĩa gì đâu so với bảy năm.
Ngày tháng trở lại trầm lặng như thời gian qua.
Chỉ khác có một điều là các bức thơ của Vương không có những con tem mang hình kỳ quái và kể lại công việc học hành. Bây giờ thơ của Vương nói về các hội nghị, các cuộc tiếp xúc với các yếu nhân, các tiệc tùng mà chàng đi dự với các mệnh phụ.
Ban đầu ông cụ ngồi ngay người trước bà cụ và con dâu khi đọc đến những đoạn nói về mệnh phụ đó. Ông cũng đã bỏ cả một câu trong đó Vương viết “đêm qua con dự tiệc với bà Ching”. Ông nghĩ thầm:
- Có lẽ bà này là một người tánh tình lôi thôi. Nếu đọc câu này mình thiếu lễ độ với vợ và con dâu. Không ai đề cập đến tên của những người đàn bà không đứng đắn trước vợ và con dâu.
Một lần khác, Vương viết: “Đêm nay con dự tiệc với Thủ tướng phu nhân”. Điều đó, ông cụ vờ không đọc ra chữ và trong khi bà cụ và nàng dâu chờ đợi ông tiếp tục, ông do dự và bỡ ngỡ. Ông nghĩ thầm: “Nếu các Thủ tướng phu nhân mà tự do như thế thì chánh phủ sẽ như thế nào?”
Ông nhảy vài hàng rồi tiếp tục đọc. Sau đó ông đứng lên đi vô phòng, kéo màn cánh cửa để cho biết là ông không muốn bị khuấy rầy.
Một mình trong phòng, ông ngồi trước án thư đánh bóng, dưới dàn hoa trên cửa sổ, ông mài mực cẩn thận trên nghiên. Khi có đủ mực theo ý muốn, ông tém đầu ngọn bút lông rồi nắn nót trên giấy những chữ thật đẹp. Trong số những người buôn trà, ông là người nổi tiếng văn hay chữ tốt.
Nhưng mặc dầu chữ tuyệt đẹp, lời cũng rất cay đắng. Ông viết:
“Vương con, con phải thận trọng đừng để những bà mệnh phụ lung lạc. Nên thăng quan tiến chức từ từ chờ không nên nhờ vả đàn bà”.
Ông ký tên, dán bức thơ lại rồi cho người mang đi. Sau đó ông châm lửa đốt tiêu bức thư vừa nhận được.
Trong thư trả lời, Vương thấy khó giải thích tình thế cho ông cụ rõ. Bức thư ấy rất dài và rất may là khi ngươi ta mang tới, ông cụ ở nhà một mình. Ông thấy không thể đọc lớn cho bà vợ và nàng dâu biết nội dung. Bức thư chứa đựng nhiều việc mà ông không hề nghe nói.
Trong phòng đóng kín, ông cụ đọc bức thư đến ba lần rồi đốt ngay. Ông thấy cần làm như vậy mặc dầu trong nhà chỉ có ông là người biết đọc. Bức thư có nhiều câu như sau: “Ở vào thời buổi tiến bộ của chúng ta, đàn bà phải ngang hàng với đàn ông”. Trong những ngày mới này chúng ta không thể chấp nhận những phong tục cố hữu biến đàn bà thành những người vợ kiêm đầy tớ. Không lấy người vợ có học là một trở ngại lớn cho việc tiến thủ của con. Con không có người nào có khả năng trông nom nhà cửa hoặc tiếp khách, hoặc làm bạn với con. Ngay từ bây giờ, con lấy làm lo ngại vì mấy đứa con của con chưa có một nền học vấn xứng đáng.
Sau khi đốt bức thư thành than, ông cụ ngồi bất động thật lâu. Đến khi thấy mệt, ông vỗ tay.
Nàng dâu nghe, chận người tớ đang chạy tới, bảo:
- Để tôi vào. Hai đứa nhỏ đang chơi với mấy con thỏ, chúng không cần đến tôi.
Khi thấy con dâu bước vào, ông cụ nhìn nàng một lúc, hai mắt ươn ướt. Ông bảo:
- Cha hài lòng khi thấy con vào đây chứ không phải người khác. Cha đang mệt và muốn hút vài hơi.
Theo thói quen, khi hút ông cụ nằm trên bộ ván chạm, ngắm thân hình mảnh khảnh của nàng dâu trong khi nàng cúi xuống chăm chú làm thuốc. Mắt ông không rời nàng khi nàng cúi đầu xuống. Lúc nàng trao dọc tẩu, ông hỏi:
- Con, năm nay con bao nhiêu tuổi?
Nàng dâu ngạc nhiên:
- Dạ hăm bảy.
Ông cụ chậm rãi hỏi thêm:
- Con đã về đây từ mười năm?
- Dạ mười năm. - Tiếng của nàng nghe chừng như một tiếng vang, nhưng nàng không có vẻ gì buồn. Nàng vẫn dịu dàng, chịu đựng như thường lệ.
Bỗng ông cụ nói:
- Cha mẹ đã sai lầm. Mẹ con đã sai lầm, cha cũng vậy. Con cũng như là con ruột của cha mẹ. Cha mẹ luôn luôn nương dựa nơi con, luôn luôn cần có mặt của con. Chính vì vậy mà cha mẹ quên phứt là đã để hai vợ chồng con xa cách. Khi nó còn ở nước người, con không thể dẫn mấy đứa nhỏ theo nó. Nhưng bây giờ nó đã trở về đây. Nó có nhà riêng ở trên thủ đô. Nó cần một người nội trợ để trông coi tiệc tùng, để sai khiến tôi tớ. Nó cần có người nó thương yêu ở bên cạnh.
Đôi mày đẹp như lá liễu của nàng dâu hơi rung động trên đôi mắt. Nàng hỏi:
- Cha muốn nói là...
Ông cụ:
- Cha muốn nói là con phải đi theo chồng con.
Thuốc phiện nướng trên ngọn đèn tỏa một mùi thơm khắp gian phòng, lơ lửng trên không.
Ông cụ chưa hút. Nàng dâu cúi xuống đưa ngọn đèn ra xa, dáng điệu thật duyên dáng. Ông cụ thừa lúc đó để ngắm con dâu. Là người g