Tình quê THE REFUGEES
Đoàn người kéo lê những bước chân mệt mỏi đi xuyên qua kinh thành, họ có cảm tưởng như kẻ xa lạ lạc loài mặc dầu quê hương của họ chỉ cách con đường họ đang đi có vài trăm dặm.
Đồng ruộng, mảnh đất quê nghèo của họ nghe chừng như xa xôi ngàn dặm. Họ có cảm tưởng như bỗng nhiên bị một sức mạnh kỳ quái kéo ra khỏi thế giới quen thuộc để ném vào nơi vô định.
Họ chỉ quen với những con đường làng và đồng ruộng, cho nên khi đặt chân lên đường phố nhộn nhịp chốn kinh thành, họ hết sức bỡ ngỡ.
Phố phường đầy dẫy đồ vật suốt đời họ chưa hề thấy. Chẳng hạn như xe hơi, nhưng họ vẫn không chú ý một thứ gì. Họ chỉ bước đi, mắt mở trừng nhưng chẳng thấy gì, như những kẻ mộng du.
Nếu họ không nhìn ai thì cũng không ai nhìn họ.
Thành phố có quá nhiều người tị nạn, cả ngàn người, đói rách, tạm nương náu dưới những tấm đệm chiếu căng lên thay lều ở ngoài thành.
Hằng ngày, bất cứ vào giờ nào, cũng có từng đoàn người đói rách lang thang, bồng con dắt vợ tiến về các lều tạm trú.
Nếu có một thị dân nào trông thấy đoàn người khốn khổ này thì họ kêu lên:
- Lại thêm một số tị nạn! Chừng nào mới hết tai nạn này? Rồi đây thành phố sẽ chết đói cả lũ vì có thêm quá nhiều miệng ăn!
Nỗi lo sợ đến lượt mình thiếu ăn khiến cho người ta thêm dửng dưng, lạnh lùng với những người tị nạn.
Có những chủ quán đã tàn nhẫn xua đuổi những kẻ hành khất chầu chực trước cửa hàng giờ để xin một ít cơm thừa canh cặn.
Người ta cũng trở nên gay gắt với những phu xe mà con số tăng lên gấp mười lần, và phần đông là những người tị nạn.
Những anh phu xe chính cống hành nghe lâu năm đâm ra thù oán những ông bạn đồng nghiệp bất đắc dĩ, và những người đói khát chịu rước khách với bất cứ giá nào, khiến giá cả hạ xuống đến một mức quá thấp làm cả giới đều bị thiệt.
Thành phố tràn ngập những người tị nạn. Họ đi xin làm những nghề không cần khéo léo để kiếm cơm. Mỗi sáng đều có một số người nằm kềnh ra đường chết cóng vì lạnh. Những chuyện đó quá thông thường đối với dân chúng thị thành. Không ai buồn chú ý đến toán tị nạn mới tới.
Nhưng những người này không phải như những người tị nạn trước.
Họ không ồn ào, không sẵn sàng để gây gổ, giành giựt như những kẻ khác. Họ là hạng người mà bất cứ nước nào cũng hãnh diện có những người dân như thế.
Người ta thấy họ là người cùng một địa phương. Áo quần cùng một thứ vải xanh đậm may cắt theo kiểu xưa, vạt và tay dài.
Đàn ông lẫn đàn bà đều cao, lớn, nhưng bàn chân đàn bà nhỏ xỉu vì phong tục bó chân từ bé.
Trong đám đông có vài cậu thiếu niên. Mấy đứa trẻ nhỏ được ngồi lủng lẳng trên mấy chiếc thúng cha chúng gánh trên vai.
Tuyệt nhiên không có con gái hay trẻ nhỏ sơ sinh trong bọn.
Mỗi người đàn ông, cả đến các cậu thiếu niên đều có vác bao, bị trên vai. Họ cẩn thận mang theo mền, gối. Tất cả đều sạch sẽ. Ngoài ra người ta còn thấy một cái nồi sắt nhô lên các bao, bị. Nhưng trong các giỏ xách, không có một chút lương thực nào.
Sự kiện thiếu thức ăn được xác nhận khi người ta nhìn kỹ vào mặt đám người tị nạn.
Một cái liếc nhanh dưới ánh sáng lờ mờ của buổi hoàng hôn, người ta không thấy gì khác thường. Nhưng khi nhìn kỹ, thì người ta thấy rõ đoàn người đang đói và tuyệt vọng. Họ đã gần kề tử thần nên không trông thấy gì. Cảnh lạ không đánh thức được tánh hiếu kỳ của họ.
Đoàn người này đã ở lì lại làng cho đến giờ phút chót, cho đến khi nạn đói thúc đẩy họ lên đường. Cho nên họ lầm lũi tiến bước, âm thầm, xa lạ, như những kẻ biết mình sắp chết, không còn thiết tha gì đến sự sống.
Người đi sau cùng là một cụ già nhỏ thó. Dù vậy, ông cũng gánh trên vai một gánh như những kẻ khác.
Đồ vật mang theo cũng gồm chiếc mền xếp gọn và một cái nồi. Mặc dầu gánh nhẹ, nhưng đối với ông lão, nó cũng quá nặng. Vì ông lão đã quá tuổi để làm lụng nếu ở vào thời bình và có lẽ ông cũng không quen làm những công việc lao động trong những năm qua.
Ông thở hổn hển trong khi lảo đảo bước, hai mắt nhìn những người đi trước. Ông sợ bị bỏ rơi ở phía sau. Trên mặt nhăn nheo của ông hiện rõ vẻ sợ hãi của kẻ hấp hối.
Bỗng ông không bước được nữa. Ông đặt gánh xuống đất, ngồi trên vệ đường. Đầu ông gục xuống giữa hai đầu gối, mắt nhắm lại thở dồn dập.
Sự cố gắng quá sức khiến máu chạy dồn lên thái dương.
Ngọn đèn của chiếc xe bán mì gần đó hắt ánh sáng vào ông lão. Một khách đi đường dừng lại, nhìn ông rồi lẩm bẩm: “Mình tự hứa không bố thí nữa vì phải để dành cho mình. Nhưng thấy ông lão này, mình không thể làm ngơ. Mình cho ông lão số tiền mình vừa kiếm được trong ngày hôm nay mà mình định để dành cho ngày mai. Ngày mai mình sẽ kiếm cái khác”.
Người này móc trong túi một đồng bạc và sau một lúc do dự, ấp úng, y nói:
- Ông ơi, ông cầm lấy cái này để mua mì ăn đỡ đói.
Ông lão từ từ ngẩng đầu lên. Khi thấy đồng bạc, ông không đưa bàn tay ra nhận. Ông nói:
- Cám ơn ông. Nhưng tôi không phải là hành khất. Chúng tôi có điền đất phì nhiêu và trước đây chúng tôi không hề đói khát như ngày nay. Nhưng năm nay, nước sông dâng lên, ngập lụt. Dù cho ruộng đất phì nhiêu, người ta cũng phải chết đói về nạn lụt. Cả đến lúa giống của chúng tôi cũng không còn. Chúng tôi đã ăn hết lúa giống. Tôi đã bảo người ta là tôi không thể ăn lúa giống. Nhưng chúng nó hãy còn trẻ và háu đói nên ăn hết sạch.
Người kia bỏ đồng tiền vào túi ông lão, bảo:
- Xin ông cứ nhận cho tôi.
Rồi y thở dài, tiếp tục rảo bước. Ông lão đi về phía xe mì bán rong.
Anh bán mì hỏi:
- Ông ăn mấy bát?
Bây giờ ông lão mới thò tay vào túi, ông tìm thấy hai đồng tiền, một đồng, một bạc. Ông đáp:
- Một bát cũng đủ rồi!
Anh bán mì ngạc nhiên:
- Ông chỉ ăn có một bát nhỏ sao!
Ông lão đáp:
- Không phải cho tôi.
Anh bán mì ngạc nhiên, nhưng cũng tiếp tục nấu mì. Xong rồi, anh đưa bát mì, bảo:
- Mì đây!
Và y chờ xem ai sẽ ăn.
Bây giờ ông lão mới đứng lên một cách khó nhọc, hai bàn tay run rẩy bưng tô mì đến cái thúng bên kia.
Trong khi anh bán mì tò mò đứng nhìn, ông lão kéo chiếc mền qua một bên để thấy gương mặt nhăn nheo của một cậu bé đang nằm trong cái thúng, hai mắt nhắm nghiền.
Người ta có thể tưởng cậu bé đã chết nếu ông lão không đỡ nó lên để cho miệng nó kê sát vào vành tô.
Ông lão khuyến khích:
- Ăn đi con! Ăn đi!
Anh bán mì:
- Cháu ông?
Ông lão gật đầu:
- Phải. Nó là cháu nội. Con của con trai tôi. Cả hai con trai và con dâu tôi đều chết chìm khi vỡ đê.
Cậu bé ăn xong, ông lão lấy mền đắp lại cẩn thận rồi le lưỡi liếm sạch những cọng mì còn sót lại. Liếm xong ông lão trả bát lại cho anh bán mì, y như là ông đã ăn xong.
Anh bán mì ngạc nhiên không thấy ông lão bảo nấu thêm tô nữa.
- Ông không ăn? Ông còn một đồng bạc kia mà!
Ông lão lắc đầu:
- Không. Đồng bạc này để mua lúa giống, khi tôi thấy đồng bạc này là tôi nghĩ ngay đến việc mua lúa giống. Chúng nó đã ăn hết lúa giống rồi. Mà không có lúa giống thì lấy gì gieo mạ làm mùa?
Anh bán mì:
- Nếu tôi không quá nghèo thì tôi có thể biếu ông một bát mì. Nhưng biếu không tô mì cho người có một đồng bạc thì...
Anh lắc đầu lúng túng.
Ông lão nói:
- Cám ơn chú em. Nhưng tôi không xin chú bố thí cho tôi. Tôi biết là chú không thể hiểu được. Nhưng nếu chú có đất ruộng, chú sẽ hiểu là phải giành lúa giống để làm mùa. Nếu không thì năm tới sẽ còn có nạn đói nữa. Điều quan trọng mà tôi có thể giúp cho thằng cháu của tôi hiện nay là tìm một ít lúa giống cho nó. Nếu tôi chết thì người khác sẽ gieo số lúa giống đó. Đất ruộng phải được gieo giống.
Ông lão cất gánh lên vai, đôi chân run rẩy. Ông nhìn con đường dài trước mắt, lảo đảo tiến bước.