Xa lộ THE NEW ROAD
Lữ Chính có một quán nước nóng ở ngay góc con đường cửa Bắc với con đường họ Hoàng. Đây là địa điểm tốt trong khu phố. Ở đây có rất nhiều cửa hàng, mà nổi bật hơn hết là các hiệu buôn tơ lụa gấm vóc.
Ngoài ra khu này còn là nơi trú ngụ của các gia đình giàu có nhất trong vùng.
Mỗi ngày hàng chục lần các hiệu buôn sai người đến quán ông lão họ Lữ mua nước sôi về pha trà để uống. Và các mệnh phụ trong các gia đình quý tộc kia cũng bảo gia nhân mua nước nóng về xài. Như vậy mà quán nước nóng họ Lữ làm ăn phát đạt. Quán này có từ đời nội tổ của ông chủ hiện nay, thuở ấy Hoàng cung chỉ cách đó có vài dặm và con đường này giáp ranh với vườn thượng uyển.
Lữ Chính thừa hưởng cái quán này cùng với một bao bố đầy nén bạc lúc ông thân qua đời.
Khi cưới vợ, họ Lữ phải trút hết bao bạc đó ra mua sắm sính lễ cho bên nhà gái, nhưng không bao lâu bao bạc lại đầy. Nhờ túi bạc đó mà họ Lữ lo vợ cho con trai, nuôi nấng thằng cháu nội.
Điều làm ông chủ quán lo ngại là thằng cháu nội. Cả ngày nó cứ lẩn quẩn bên mấy cái nồi đồng hàn dính luôn vào mấy cái lò đất.
Ông lão thường bảo thằng cháu:
- Khi tao còn nhỏ, tao không hề lò mò tới sát bên mấy cái nồi đồng. Tao biết nghe lời người lớn chớ không cứng đầu cứng cổ như mày.
Nhưng thằng bé không chú ý đến lời khuyên của ông lão. Nó hãy còn quá nhỏ để nói rành rẽ, nhưng nó biết chắc chắn chiếm trung tâm điểm trong quả tim của ông nội nó. Cho nên nó tiếp tục lẩn quẩn bên cái nồi đồng dưới cặp mắt lo âu của ông lão. Nó đã quá quen với cái cảnh bị ông cụ tóm cổ đưa bổng lên cao để rồi đặt ngồi xuống trên đùi ông ta.
Lão thường nói với cậu con trai:
- Tao không chịu nổi thằng con của mày. Nó bướng bỉnh quá. Chừng nào mày mới dạy cho nó biết nghe lời người lớn.
Cậu con vốn tánh lười biếng, lắc đầu nói:
- Thời buổi này, không ai còn chịu nghe lời như thời buổi của cha.
Ông lão trừng mắt nhìn thằng con. Nhưng ông không nói gì.
Nhiều khi bà vợ thì thầm bảo ông trong đêm vắng:
- Cái thằng Lữ Anh nó làm biếng gì đâu! Quán thì nhỏ, chỉ cần một người làm cũng đủ rồi. Nếu ông cứ nai lưng ra làm thì nó cứ ở không chơi hoài. Ông đã trên năm mươi rồi. Ông có quyền nghỉ ngơi. Để cho thằng nhỏ tập làm ăn với người ta. Nó cũng đã hai mươi tuổi rồi, đâu phải còn nhỏ bé gì!
Ông lão hất cái mền đầy màu xanh ra, trong lòng không được vui. Hễ nói tới chuyện giao quán lại cho thằng con là ông đâm quạu. Ông muốn nắm cái quán càng lâu càng tốt và vì vậy cho nên ông cho cậu con đi học năm này qua năm khác để nó không chúi mũi vào công việc của ông.
Nghe bà vợ nói, ông đáp:
- Thằng Lữ Anh làm biếng thật. Mấy cái nồi đồng không bao giờ được đánh bóng như tôi muốn. Tôi đã bảo nó nhiều lần, phải lấy tro chùi cho bóng, nhưng nó không hề làm.
Bà vợ nói:
- Mà cũng tại ông. Không bao giờ ông hài lòng về công việc của nó làm.
Ông lão to tiếng:
- Là tại vì nó làm không đúng theo ý tôi!
Bà vợ ôn tồn:
- Có bao giờ ông bằng lòng một việc gì!
Thái độ bình tĩnh của bà vợ càng làm cho ông thêm nóng. Ông ngồi phắt dậy trợn trừng nhìn vào gương mặt của bà vợ:
- Bà nói tôi khó tánh hả? Không. Tôi không khó tánh đâu!... Tôi muốn làm đâu cho ra đó, không thể đập dập được.
Bà vợ hạ thấp giọng xuống:
- Thôi mình ngủ đi, khuya rồi!
Ông lão thở dài rồi nằm xuống.
- Bà không hề lo cho cái quán.
Đó là lời buộc tội nghiêm khắc nhứt của ông. Nhưng bà vợ không đáp. Một lúc sau, bà ngủ ngon lành.
Sáng hôm sau, ông lão thức sớm chùi bóng bên trong hai cái nồi đồng cho đến khi thấy mặt ông in hẳn trong đó. Ông muốn để vậy cho cậu con trông thấy công việc phải làm cẩn thận như vậy, nhưng không thể được. Cậu con dậy quá trễ, còn tôi tớ các nhà giàu thì đến mua nước rất sớm cho các mệnh phụ tắm.
Ông đổ nước vào nồi và nhúm lửa. Không bao lâu nước sôi làm động đậy các nắp gỗ bên trên.
Người ta vác ấm đến mua lai rai. Ông lão châm thêm nước vào nồi có đến ba lần cậu con mới thức! Cậu nhảy xuống giường, dụi mắt, quần áo xốc xếch, tóc tai rối bù.
Ông lão trừng mắt nhìn hắn.
- Khi còn nhỏ, tao thức sớm, đánh bóng mấy cái nồi, nhúm lửa trong khi ông nội mày hãy còn ngủ.
Cậu con trả lời một cách thản nhiên:
- Hồi xưa khác. Bây giờ khác. Bây giờ là thời buổi Cách Mạng, cha quên rồi sao?
Ông lão nhổ một bãi nước miếng xuống đất:
- Tao chỉ nhớ bây giờ là thời buổi của mấy thằng con cứng đầu cứng cổ như mày. Mày nên liệu hồn. Thằng con mày sẽ coi mày ra cái thứ gì nếu nó thấy mày ăn rồi chơi không, chẳng làm gì động tới móng tay.
Nhưng cậu quý tử chỉ mỉm cười cài nút áo rồi đến nồi nước gần nhứt lấy nước cho vào thau, rửa mặt tại chỗ.
Ông lão nhìn cậu con, bảo:
- Tao giữ cái quán này là vì mày. Tao muốn truyền lại cho mày, cho con mày. Cái quán này lập ra tới nay trên sáu mươi năm nay ai cũng nghe tên biết tiếng. Cả đời ông nội mày, cả đời cha mày rồi tới đời mày đã nhờ nó mà cơm no áo ấm. Rồi tới đời con mày.
Cậu con vắt khăn ráo nước, lau mặt, nói:
- Người ta nói nhiều về xa lộ...
Đây là lần đầu tiên Lữ Chính nghe nói tới xa lộ. Nó chẳng có nghĩa gì đối với lão. Con trai lão đi cả ngày, biết rất nhiều về tin tức từ ngày cách mạng lan tới tỉnh thành. Cách mạng là gì, lão già chẳng hiểu rõ. Lão chỉ biết những ngày công việc làm ăn của lão thất bại, đó là lúc hiệu buôn lớn đóng cửa vì sợ cướp giựt. Cũng trong những ngày đó, các gia đình giàu có, khách hàng mua nước nóng quen thuộc của lão - phải tản cư đi Thượng Hải. Lúc bấy giờ quán nước nóng của lão chỉ bán lai rai cho những khách hàng nhỏ, nghèo. Người ta chỉ mua từng ấm nước nhỏ để pha trà và mặc cả từng xu. Người ta bảo đó là cách mạng và lão rất thù cách mạng. Sau đó bỗng nhiên lính xuất hiện ở mọi nơi. Họ mua nước bán không kịp. Thế là bao bạc của lão trở nên đầy. Đó cũng là cách mạng chứ gì. Ông lão lấy làm thắc mắc, nhưng không thù cách mạng nữa.
Không bao lâu sau, các hiệu buôn lớn tiếp tục mở cửa và các gia đình giàu có hồi cư. Quân đội rút đi mất. Đời sống trở lại bình thường chỉ trừ giá sanh hoạt tăng cao. Nhưng ông lão không thắc mắc vì ông cũng tăng giá nước nóng của ông lên theo.
Một sáng, ông lão nói với cậu con:
- Cách mạng mà mày nói đó, nó như thế nào? Mày có đi học, chắc có lẽ mày biết. Nó làm xáo trộn quá chừng. Tao lấy làm hài lòng khi nó đã qua rồi.
Cậu con nhướng cặp lông mày:
- Qua rồi! Không đâu! Nó chỉ mới bắt đầu. Cha hãy chờ xem. Thành phố này sẽ là thủ đô của cả nước. Rồi mọi việc đều thay đổi.
Ông lão lắc đầu:
- Thay đổi? Không bao giờ có những sự thay đổi lớn lao. Dù cho hoàng đế, tổng thống hay cái gì khác cai trị xứ này, dân chúng cũng phải uống trà, cũng phải tắm gội, những việc đó phải có luôn luôn.
Nhưng còn xa lộ? Ông lão không rõ lắm.
Ngay ngày hôm ấy, một cô bé mua nước nóng cho nhà giàu nói với ông lão chủ quán:
- Tôi nghe ông chủ tôi nói người ta mở con đường này đến mười tám thước. Vậy mấy cái nồi đồng của ông sẽ tính như thế nào?
Bây giờ ông lão đang múc nước nóng cho vào ấm. Cánh tay trần của lão đỏ au vì hơi nước nóng. Nhưng lão đã quen với sức nóng. Khi nghe cô bé nói, ông thọc chiếc gáo vào nồi nước sôi có hơi sâu hơn. Tay lão hơi run nên chiếc gáo nghiêng một bên làm nước trong gáo rơi xuống, lửa than đỏ rực. Mấy tiếng xèo xèo vang lên.
Lão không buồn trả lời cô bé ngu xuẩn đó. Lão vờ đẩy các que củi vào trong bếp. Nhưng sau khi cô bé đi rồi; lão nhớ ra cô bé ở cho nhà họ Lâm và trưởng nam họ Lâm là một viên chức. Như vậy chắc là họ Lâm biết rõ về xa lộ.
Lão nhìn các bức tường gạch màu xám của căn quán nhỏ bé mà lòng lo ngại. Khói biến mấy bức tường này trở màu xám xậm và hơi ấm đã làm lớp vôi bên ngoài nứt nẻ, những bức tường thân yêu mà ông đã quen mắt từ ngày thơ ấu.
Tự nhiên ông nghĩ: “Rộng mười tám thước? Vậy là cả cái quán của mình sẽ bị san bằng. Mình phải đòi tiền bồi thường thật cao cho họ không thể trả nổi. Phải đòi bao nhiêu đây?”. Lão nghĩ đến những con số thật cao để làm lung lay một chánh phủ. “Mình sẽ đòi một vạn đồng”.
Nghĩ vậy, lão thấy dễ chịu. “Ai mà trả một vạn đồng cho một cái quán tồi tàn nhỏ tí xíu vừa đủ để bắc hai chiếc nồi đồng! Làm gì có một số tiền to như thế!”
Càng nghĩ, lão càng an tâm, quên hẳn xa lộ. Mọi việc đều trở nên bình thường đối với lão.
Một buổi sáng, lão đang ngồi uống trà nghỉ ngơi. Lão luôn luôn pha một bình trà riêng sau khi bán sạch nồi nước nóng châm đến lần thứ năm. Từ đó, lão có thể nghỉ ngơi cho đến buổi trưa, khi người ta đến mua nước nóng vào đúng ngọ. Trong thời gian đó lão rảnh rang chơi với đứa cháu nội. Lão bế nó lên đùi, cho nó uống nước trà cùng với lão.
Bỗng một người quân nhân bước vào quán.
Ông lão khúm núm vì người quân nhân trẻ tuổi đó có mang súng và sợi dây nịt gắn đầy đạn.
- Thưa ông...
Nhưng sĩ quan kia ngắt lời:
- Xa lộ sẽ đi ngang qua quán ông. Tên ông là gì hở ông lão?
Sĩ quan rút mảnh giấy trong túi ra xem rồi mới tiếp:
- À, lão Lữ. Nghe tôi nói đây, xa lộ sẽ nới rộng thêm 9 thước, vậy là nó đi ngang quán ông. Ông phải dỡ nhà trong vòng mười lăm ngày. Nếu không thì chúng tôi bắt buộc phải san bằng hộ ông.
Ông ta xếp tờ giấy lại, bỏ vào túi, quay lưng đi. Theo sau ông là ba người lính.
Lậo chủ quán không nói được tiếng nào. Cổ họng lão khô lại. Không một âm thanh nào thoát ra được. Một người lính nhìn lão với đôi mắt tò mò, có vẻ thương hại. Sự thương hại đó giúp lão bớt nghẹn ngào. Ông kêu lên:
- Một vạn đồng.
Sĩ quan đứng lại, ngoảnh mặt nhìn quanh:
- Cái gì?
Họ Lữ:
- Quán của tôi trị giá một vạn đồng.
Vị sĩ quan nâng khẩu súng lên. Ông lão hốt hoảng bước nhanh vô nhà, đóng cửa lại. Nhưng sĩ quan kia không buông tha. Hắn trở lại dùng bá súng đập vào cửa quán. Ông lão càng thêm kinh hoảng, đâm bổ vào đứa cháu khiến nó khóc ré lên.
Mỗi lần thằng bé khóc là ông lão bỏ hết tất cả để chạy lại bế nó lên, dỗ dành. Nhưng bây giờ ông lão không nghe tiếng nó khóc. Ông đang nhìn thẳng vào vị sĩ quan trẻ tuổi, và lải nhải như người máy: “Một vạn đồng! Một vạn đồng”.
Người sĩ quan nhìn lão một lúc rồi cười ré lên:
- Đó là phần đóng góp của ông vào việc xây cất thủ đô mới của chúng ta.
Nói xong hắn dõng dạc ra lịnh cho ba tên lính kia đi.
Đóng góp? Đóng góp cái gì chứ?
Đứa bé vẫn nằm ỳ dưới đất, rên rỉ. Nó quen tật mỗi khi té là nằm vạ cho đến lúc có người bế lên. Nhưng hôm đó không ai săn sóc nó. Ông lão đứng trước cửa, nhìn theo bóng dáng vị sĩ quan.
Ông buồn chán quá, không còn thiết đến chuyện gì khác. Dẹp quán thì làm sao sống đây? Xây một thủ đô mới là chuyện riêng của người ta, đâu có liên quan gì với công việc làm ăn của lão. Vậy sao bắt lão dọn nhà dẹp quán.
Lão từ từ quay vào trong và khi thấy đứa bé hãy còn nằm vạ, vội tiến tới đỡ nó đứng lên. Đứa bé ôm chầm lấy chân lão. Lão ngồi xuống, nghĩ ngợi.
- Cái quán nay mình định để lại cho con, cho cháu. Không ai có quyền đoạt của nó.
Tự nhiên ông thấy bực tức. Sự bực tức đó khiến ông dễ chịu hơn vì nó đẩy lui cái sợ khi nãy. Lão nhứt định không dẹp quán, không đời nào lão chịu dẹp quán. Lão nhứt định ngồi lỳ lại cho người ta tới giựt sập cái quán của lão.
Lão đặt thằng cháu xuống đất rồi bắt đầu cho nước vào nồi, châm lửa thêm. Không bao lâu nước sôi và hơi nóng đẩy cái nắp ván động đậy nhảy lên nhảy xuống. Khách tới lai rai. Ông lão quen tay, châm nước đều đều, không nhiều không ít. Một cô bé đòi thêm nhưng lão không nghe.
Cô bé tinh quái nói:
- Ông này ke re cắc rắc quá. Chừng xa lộ tới đây thì cái quán của ông cũng chẳng còn đâu!
Ông lão ăn miếng trả miếng với nó:
- Còn lâu! Không ai có thể phá cái quán của lão được! Xa lộ! Hừ! Xa lộ!
Lão nhổ nước miếng xuống đất sau mỗi tiếng xa lộ!
Một lúc sau cậu con trai trở về. Cậu đi ngay lại bình trà, đưa tay rờ xem trà còn nóng hay không rồi hỏi:
- Cha có nghe gì về xa lộ?
Ông lão tức lắm, kêu lên:
- Dẹp, dẹp! Đừng nói chuyện về xa lộ với tao. Từ sáng tới giờ mày đi đâu? Bây giờ tới bữa cơm, mày lết về, phải không?
Cậu con ngậm cái vòi bình trà tu một hơi rồi hỏi:
- Nhưng xa lộ sẽ đi ngang qua nhà mình. Người ta đã ra lịnh cho các nhà hai bên đường phải lùi ra xa 9 thước. Như vậy là mình chỉ còn có nửa cái nhà sau.
Ông lão trừng đôi mắt nảy lửa. Ông đưa tay lên đập mạnh vào bình trà khiến nó sút khỏi tay cậu con, rơi xuống đất bể thành ba mảnh.
Giọng ông lão thật gay gắt:
- Mày còn đứng đó uống trà hả?
Khi thấy nét mặt ngẩn ngơ của cậu con, ông bố bước nhanh vào phòng để tự do khóc.
Sáng hôm sau, khi thức dậy, lão hãy còn giận cậu con. Khi cậu ta ăn cơm một cách tự nhiên, ông lão nhướng mày nói:
- Ngày ba bữa mày ăn cơm một cách tự nhiên. Con mày cũng vậy. Nhưng hai cha con bây đâu có biết nhờ đâu mà bây có cơm ăn đều đều!
Dù vậy, ông lão vẫn không tin là người ta sẽ phá quán của ông để làm xa lộ. Ông tiếp tục công việc như thường lệ.
Đến ngày thứ mười một sau ngày vị sĩ quan trẻ tuổi báo tin dữ, bà chủ quán hơ hải đến nói với chồng:
- Thiệt ông ơi! Xa lộ sắp tới đây rồi. Ông ra đây mà xem. Đó, ông bước ra giữa đường, nhìn thẳng tới trước thì thấy.
Bả vợ đưa tay lên quẹt mồ hôi trán. Nhưng nét mặt bà không xúc động nhiều.
Ông lão nhìn bà vợ rồi bước ra khỏi cửa, đứng trên đường nhìn thẳng lên. Trước đây, con đường trước nhà ông rất hẹp, quanh co và tối vì những tấm biển treo trước các cửa hiệu. Cho nên người ta chỉ thấy xa chừng vài thước mà thôi. Nhưng bây giờ thì ông thấy ánh sáng chói chang trên các tảng đá ẩm ướt lát trên mặt đường.
Trước mặt ông, tất cả các tấm bảng hiệu đều biến mất, và người ta đang triệt hạ nhà cửa hai bên đường. Từng đống gạch ngói không biết có từ bao nhiêu đời nằm ngổn ngang trên đường. Nhiều đám lừa với giỏ mây trên lưng đứng đợi để chở những đống gạch ngói đó đi nơi khác.
Vị sĩ quan mà trước đây ông lão đã gặp đi tới đi lui, theo sau ông ta là bốn người đàn bà la hét, tóc tai rối bời. Họ rủa mắng, khóc kể, ông lão nghe được mấy tiếng: “Chúng tôi chết mất! Nhà cửa chúng tôi tiêu tan!”
Ông lão bước trở vô nhà, đóng cửa lại, cài then cẩn thận. Ông ngồi trên chiếc ghế gỗ sau chiếc nồi đồng; hai đầu gối run, đầu óc choáng váng.
Xa lộ đang tiến tới nhà lão. Đứa cháu từ trong phòng sau chạy ra, đứng tựa vào gối ông nội nó, nhưng ông lão nhìn nó một cách dửng dưng. Đứa bé thấy ông nội không chú ý đến nó, đưa tay toan rờ nồi nước nóng.
Nhưng lần đầu tiên trong đời ông lão không rú lên. Một ý nghĩ lờ mờ thoáng hiện trong trí: “Phỏng?... Phỏng thì đáng gì quan tâm. Mày sắp chết đói đến nơi rồi đó”.
Ngay lúc đó có tiếng đập cửa dữ dội. Tim ông lão đập loạn lên. Ông hồi hộp mở then cửa. Sĩ quan hôm trước lại đến, theo sau là ba binh sĩ.
Ông ta mặc một bộ quân phục mới và sạch. Không ai nghĩ là trước đó không bao lâu họ đã bị chửi bới nguyền rủa. Mặt người nào người nấy vẫn thản nhiên như thường.
Nhìn họ, ông lão bỗng thấy mình trở nên già yếu không thể tưởng tượng được và cái chết đến với ông, có lẽ giúp ông đỡ khổ hơn.
Sĩ quan dõng dạc ra lịnh:
- Trong bốn ngày, quán của ông phải dọn đi. Nếu ông tự dỡ nhà thì vật liệu còn là của ông. Nếu để chúng tôi dỡ thì chúng tôi tịch thu hết tất cả.
Ông lão ấp úng:
- Nhưng còn tiền...
Sf quan đập chiếc gậy vào đôi giày da đánh bóng, hỏi:
- Tiền gì?
Ông lão cố thu hết can đảm:
- Cái quán này trị giá gần một vạn đồng.
Sĩ quan cười vang lên, gằn từng tiếng, giọng lạnh như tiền:
- Không có tiền gì hết! Ông hiến dâng cái quán nay cho nền Cộng Hòa.
Ông lão nhìn chung quanh, như tìm một vị cứu tinh giúp ông qua cơn nguy nan. Ông kêu to lên giọng nghẹn ngào như nói với những người đi đường:
- Mấy người có thấy không? Tôi đang bị người ta cướp đoạt tài sản. Nền Cộng Hòa đã cướp đoạt tài sản của tôi. Mà nền Cộng Hòa là ai mới được chứ? Nền Cộng Hòa đó có cho tôi, cho vợ con tôi thức ăn để sống?
Ông lão thấy có ai nắm áo mình. Người lính hôm trước đã nhìn ông với cặp mắt nửa tò mò nửa thương hại, nói nhỏ vào tai ông:
- Đừng chọc giận ông đó. Chọc giận chỉ có hại cho ông thôi.
Rồi lên giọng, anh ta nói lớn:
- Đừng than van gì ông lão ơi. Dù sao đi nữa thì cái quán của ông cũng phải dẹp. Trong những ngày sắp tới, người không cần đến những quán nước nóng. Nước nóng sẽ chảy khắp nơi trong những ống sắt.
Ông lão toan trả lời tên lính, nhưng cậu con trai nắm tay ông kéo lại. Cậu bước tới trước, đối diện với vị sĩ quan, lễ phép nói:
- Xin ông tha lỗi cho cha tôi. Ông ấy già cả, lẩm cẩm, không hiểu là cách mạng đã đem tới một ánh sáng mới. Tôi sẽ cố gắng thuyết phục ông ấy. Chúng tôi sẽ triệt hạ nhà này. Thật là một vinh hạnh cho chúng tôi được hy sinh đóng góp cho xứ sở.
Nét giận dữ trên gương mặt vị sĩ quan tan dần, ông ta gật gù rồi bước nhanh ra ngoài.
Người con trai đóng cửa, cài then lại trước những cặp mắt tò mò của đám đông. Cậu đứng tựa lưng vào cánh cửa nhìn ông lão.
Ông chủ quán chưa bao giờ trông thấy cậu con bạo dạn và cương quyết như thế. Cậu con nói:
- Không lẽ vì cái quán này mà gia đình chúng ta phải chết hết!
Ông lão ngồi xuống ghế, bên kia cái bàn, đối diện với bà vợ:
- Thế nào rồi cả nhà chúng ta cũng sẽ chết đói.
Từ lúc xảy ra vụ lộn xộn, bà vợ ngồi khóc một cách lặng lẽ, thỉnh thoảng đưa vạt chiếc áo xanh lên lau nước mắt.
Cậu con nói:
- Con đã tìm được việc làm. Con làm cai coi một toán thợ làm xa lộ.
Ông lão nhìn người con, nhưng không có một hy vọng nào chớm nở trong lòng:
- Mày cũng tham gia?
Cậu con hất mái tóc lòa xòa trước trán:
- Chống chỏi cũng vô ích. Thế nào thì xa lộ cũng được hoàn thành. Nó sẽ đi ngang qua đây. Cha nên hình dung một con đường lớn chạy ngang qua thành phố của chúng ta. Xe hơi sẽ chạy qua lại. Ở trong trường, con thấy hình vẽ quang cảnh tấp nập của một con đường ở một thành phố ngoại quốc. Có hiệu buôn lớn và có xe hơi chạy lên chạy xuống. Còn mình thì chỉ có xe “bù-ệt”, xe kéo và xe ngựa! Các con đường của mình có từ mấy ngàn năm trước đây. Tại sao mình lại không có những con đường mới?
Ông lão mới thấy xe hơi trong vài ba tuần nay. Ông thấy các chiếc xe này chạy qua rầm rập khiến dân phải chạy nhào vô nhà hoặc tránh vô các con đường nhỏ. Ông rất ghét xe hơi. Ông nói:
- Xe hơi để làm gì chớ? Ông bà mình...
Nhưng cậu con trai búng tay một cái tách:
- Thôi đừng nói tới cái thời xưa đó. Làm xa lộ con sẽ lãnh lương năm chục đồng mỗi tháng.
Năm chục đồng một tháng? Ông lão bàng hoàng ngẩn ngơ. Ông chưa hề thấy một số tiền to lớn như thế. Ông lão thấy đỡ khổ, còn bà vợ thì hết khóc nữa. Ông hỏi:
- Tiền ở đâu họ có nhiều vậy?
Cậu con đáp:
- Tiền của chánh phủ.
Mặt bà mẹ sáng hẳn lên:
- Tôi sẽ sắm một cái áo sa ten đen mới.
Và một lúc sau, bà vụt cười với ý nghĩ sắp có một chiếc áo mới.
Riêng về ông lão, ông suy nghĩ lung lắm, ông thấy không còn gì hy vọng về cái quán nữa. Nhưng ông không lo sợ như trước. Cái quán không còn là nguồn sống duy nhứt của gia đình ông.
Ông ngồi cả ngày, không buồn nhúm lửa nấu nước. Và lần đầu tiên trong vòng sáu chục năm, mấy cái nồi lạnh tanh.
Khi có ngươi đến mua nước nóng, ông nói:
- Bây giờ cái quán của tôi vô dụng rồi. Người ta sẽ bắt ống dẫn nước. Và trong khi chờ đợi thì mấy người hãy tự nấu nước lấy.
Cô gái lè cái lưỡi đỏ chót ra cười với ông lão như thường lệ, nhưng ông lắc đầu không giận cô ta.
Ngày hôm sau cậu con nói:
- Mình nên gọi thợ đến dỡ nhà. Nếu để người ta dỡ thì mình sẽ mất hết.
Lời nói đó khiến ông lão xúc động, ông kêu lên:
- Không! Người ta tính cướp đoạt tài sản của tao thì hãy để cho người ta tự do cướp đoạt.
Và trong bốn ngày liền, ông ngồi trong nhà, không ăn, không mở cửa, mặc dầu ông nghe sự tiêu hủy tiến tới từ từ - tiếng gạch đổ, tiếng ván rơi hòa với tiếng la khóc của dân chúng cùng cảnh ngộ với ông.
Đến sáng ngày thứ mười lăm, có tiếng đập cửa. Ông lão đứng lên, mở cửa. Trước nhà ông có mười hai người võ trang búa, xà beng. Ông nhìn thẳng vào mặt họ, hỏi:
- Mấy người tới phá quán tôi. Đó, các người muốn làm gì thì làm.
Và ông ngồi xuống chiếc ghế cây khi đám người kia bước vào nhà. Không có một nét cảm tình nào trong nét mặt họ. Họ đã triệt hạ mấy trăm nhà, quán. Đối với họ, ông chỉ là một ông già, một ông già rắc rối hơn những ông già khác.
Vợ, con trai, con dâu và đứa cháu nội ông đã tản cư qua nhà một người bạn từ sáng và họ đã mang theo tất cả đồ đạc, trừ chiếc ghế cây ông lão đang ngồi và hai cái nồi đồng.
Người con nói với ông:
- Đi với con. Con có sửa soạn cho cha một chỗ ở. Con đã mướn một gian nhà nhỏ. Người ta đưa trước cho con một ít tiền.
Nhưng ông lão vẫn cứ lắc đầu và ngồi lỳ trên chiếc ghế gỗ.
Trước mặt ông là hai cái nồi đồng to lớn gắn chặt vào lò. Hai người lao công dùng búa đập vào hai cái nồi.
Ông lão vụt nói:
- Ông nội tôi xây cái lò này. Bây giờ không có người thợ nào làm được.
Nhưng ông lão không nói gì thêm khi người ta dỡ ngói trên nóc và ánh sáng mặt trời chiếu qua các cây cột kèo.
Không bao lâu người ta dỡ hết mái nhà và ông lão ngồi đó giữa bốn vách tường, dưới ánh nắng như nung như nấu của buổi trưa.
Ông lão thấy bản thân choáng váng nhưng ông vẫn cố ngồi lỳ cho tới xế chiều. Đêm xuống rồi, ông hãy còn ngồi đó, giữa đám gạch ngói cột kèo ngổn ngang. Hai chiếc nồi đồng cũng chơ vơ ra đó, giữa cảnh điêu tàn.
Người ta nhìn ông lão một cách tò mò nhưng không ai nói gì và ông cứ tiếp tục ngồi.
Cho đến khi tối mịt, cậu con đến, nắm tay ông bảo:
- Thằng bé không chịu ăn cơm vì cha không về.
Ông lão đứng lên, nắm tay người con, bước đi.
Gia đình ông dọn về một túp tranh ở trong cửa Bắc, nơi đây có nhiều đồng ruộng bỏ hoang. Ông già họ Lữ cả đời sống giữa sự náo nhiệt của phố phường không thể chịu được sự yên tĩnh ở đây. Ông không chịu nổi sự vô duyên của đồng không mông quạnh. Cả ngày ông ngồi trong phòng nhỏ tí xíu. Vì không phải làm gì, ông bỗng trở nên già cỗi một cách nhanh chóng.
Đến cuối tháng, người con mang về khoe năm mươi nén bạc. Cậu nói:
- Nhiều hơn số hoa lợi của cái quán.
Cậu không còn cái vẻ ăn không ngồi rồi như trước. Cậu ăn mặc cũng sạch sẽ hơn. Nhưng ông lão chỉ lẩm bẩm: “Hai cái nồi đồng của mình có thể chứa ít nhứt là hai đôi nước sông”.
Một hôm bà vợ khoe với ông chiếc áo sa ten mới. Bà vuốt chiếc áo ngay trước ngực vun tròn của bà. Nhưng ông lão không buồn nhìn bà vợ. Ông lẩm bẩm:
- Bà già tôi hồi đó cũng có một cái áo hàng màu xám.
Rồi ông lại trầm ngâm nghĩ ngợi. Không ai có thể làm sao cho ông lão bước ra khỏi cửa. Ông ngồi trong phòng, ngày này qua ngày khác, tóc ông càng bạc trắng và má ông càng nhăn nheo. Mắt ông trở nên mờ đi. Chỉ có thằng bé là có thể làm cho ông thoải mái đôi chút. Chính đứa bé đã bước ra khỏi cửa. Ông thường ngồi bên khung cửa sổ nhỏ bé, nhìn ra ngoài suốt cả ngày. Ông chỉ rời chỗ ngồi đó mỗi ngày ba lần, vào ba bữa ăn.
Về đêm, ông ngủ chập chờn. Có khi ông ngủ ngồi, đầu gục lên trên bàn.
Thế rồi sau một tuần mưa dầm lê thê, trời bắt đầu sang thu, mặt trời chiếu nghiêng nghiêng qua mấy đám mây xám, khiến khung cảnh bên ngoài trở nên quang đãng. Ông lão thấy lòng rạt rào, mở cảnh cửa sổ ra. Mùi đất mát xông lên. Ông nói một mình: “Mình có thể hứng nước mưa đầy một nồi đồng. Ngày trước nước mưa bán được giá lắm”. Ngay lúc đó đứa cháu bước vào nắm tay ông, vừa nói vừa cười:
- Ra ngoài chơi, nội.
Ông lão xao xuyến trong lòng: “Phải, có lẽ mình ra ngoài chơi một chút”.
Ông nắm tay đứa bé, bước ra ngoài.
Trời nắng ấm, ông lão thấy dễ chịu. Ông hăng hái bước vài bước, đi ngang qua ngôi nhà gần đấy để tìm hiểu tình hình. Từ lâu rồi, ông không biết gì về tin tức. Cậu con bận rộn cả ngày. Còn đàn bà con gái thì chúng biết gì mà nói chuyện.
Cậu bé nói líu lo như tiếng ve kêu trên cành. Mùa thu trong sáng không khác gì mùa xuân. Ông lão tò mò nhìn chung quanh. Ông đang ở đâu đây? Đằng kia là cửa Bắc. Nơi đầu đường kia là cái quán nước nóng của ông, khi chưa bị phá vỡ. Ông đi lần tới đó, “Mình có chịu đựng được cơn xúc động chăng?” Ông bước nhanh hơn. Đến một khúc quanh, xa lộ hiện ra trước mắt ông. Xa lộ? Phải cái này là xa lộ? Một dải đất mênh mông chạy thẳng vào giữa lòng thành phố. Nó cắt đứt tất cả con đường chật hẹp, quanh co và tối tăm, cắt gọn như một con dao sắc bén.
Ông lão nhìn xa lộ bỗng thấy sợ hãi trước cái vĩ đại của nó. Người ta làm con đường rộng thênh thang như thế này để làm gì? Lao công làm lụng trên xa lộ trông nhỏ như kiến. Tất cả dân số trên thế giới có thể đi lại trên xa lộ không cần chen lấn xô đẩy.
Có những kẻ đứng nhìn, cũng như lão, nhìn một cách êm lặng và khuất phục. Ông chú ý đến nét mặt xúc động của họ. Quay lại một người đứng gần, ông hỏi:
- Chú em ở đây?
Người kia khẽ gật:
- Nhà tôi cất từ đời nhà Minh. Rộng lắm. Có tới mười phòng. Bây giờ tôi ở một túp lều, lụp xụp như ổ chuột. Tôi hoàn toàn phá sản.
Ông lão gật gù, góp chuyện:
- Tôi có một cái quán - quán nước nóng...
Ông muốn nói thêm một cách khó khăn:
- Tôi có hai cái nồi đồng to tướng đủ chứa năm đôi nước...
Nhưng người kia không chú ý nghe. Y đứng lặng nhìn con lộ chạy dài dưới ánh nẳng. Có người tiến đến gần. Ông lão nhận ra cậu con. Cậu chạy lại, tươi cười:
- Kìa cha. Cha ra xem xa lộ? Cha nghĩ như thế nào?
Môi ông lão mấp máy, ông không biết phải cười hay khóc. Một lúc lâu ông nói:
- Cha có cảm tưởng như là một cơn gió lốc đã thổi qua thành phố.
Nhưng cậu con chỉ cười, nói:
- Cha thấy không, con cũng có góp phần vào công trình xây cất xa lộ. Kìa, hai bên lề sẽ có lát đá dành cho những người đi bộ. Ở ngay giữa thì là đường sắt cho xe điện. Còn hai bên đường dành cho đủ loại xe. Dân số cả thế giới có thể đi bộ hay lái xe trên con xa lộ này. Xa lộ này chạy xuyên qua kinh thành!
Có tiếng người gọi, cậu con trai đi nhanh về phía đó.
Ông lão đứng yên, tiếp tục ngắm con đường. Xa lộ rộng mênh mông và dài vô tận cả hai chiều. Ông lão không biết nó dài đến bao nhiêu. Trong đời ông chưa hề thấy một con đường rộng lớn và thẳng tấp như vậy. Xa mút tầm mắt của ông, con lộ vẫn tiếp tục chạy dài.
Thật là một cảnh tượng kỳ ảo, mới lạ và đẹp mắt.
Và ông chợt nghĩ ra một điều. Từ trước đến nay, trải qua mấy triều Vua Chúa, chưa có vị minh quân nào đắp một con đường vĩ đại như thế.
Ông lão nhìn xuống đứa cháu nội đứng bên cạnh ông, thằng bé không biết thắc mắc. Bất cứ chuyện gì nó cũng cho là tự nhiên.
Đó là đặc tính của trẻ. Chẳng hạn như con trai ông thản nhiên trước việc triệt hạ cái quán.
Chợt nghĩ đến cái quán, ông lão vẫn còn thấy tiêng tiếc nhưng lần đầu tiên ông không dùng danh từ “cưỡng đoạt” hay “cướp phá”. Ông lại nghĩ đến một khía cạnh khác. Ông hài lòng khi thấy thằng con trai lười biếng của ông bỗng nhiên trở nên một kẻ hữu dụng. Và ông tự hỏi “Có phải nhờ xa lộ này mà con mình trở nên một kẻ trưởng thành?”
Ông cũng thấy một điểm hai cha con ông giống nhau. Nếu ông lo cho cái quán nước một cách tha thiết thì cậu con ông cũng mải miết với xa lộ một cách say mê.
Ông lão nắm tay đứa cháu, tiếp tục đứng đó, mắt ngắm xa lộ mà lòng nghĩ ngợi rất nhiều. Ông lẩm bẩm:
- Cuộc cách mạng này, xa lộ này sẽ đưa người ta đến đâu?