Chương 2
Đây là điều Byron Bunch biết: đó là một buổi sáng thứ sáu, ba năm trước. Tốp đàn ông làm việc ở phân xưởng bào gỗ ngước mắt lên, và thấy một tên lạ mặt đứng nhìn họ. Họ không biết y đứng ở đó bao lâu rồi. Y trông như một kẻ lang thang đầu đường xó chợ, vậy mà y không hẳn là thứ người đó. Đôi giày lấm bụi. Quần thì bẩn, nhưng may bằng vải “xéc” [17] đứng đắn, có nếp gấp rõ ràng, và áo sơ-mi cũng bẩn nhưng đó là một chiếc sơ-mi màu trắng. Y đeo cà vạt, và cái mũ rơm vành cứng gần như mới thì đội lệch ở một góc độ ngạo mạn khiến khuôn mặt trầm tĩnh của y mang vẻ đe dọa. Y không có dáng dấp của một tên thợ làm rong rày đây mai đó trong bộ áo quần lao động tả tơi nhưng con người y rõ ràng toát ra cái gì đó mất gốc, như thể y chẳng thuộc về bất cứ thị trấn hay thành phố nào, như thể không có một con đường, một bức tường hay một mảnh đất nào mà y có thể tự gọi là nhà mình. Và y lúc nào cũng mang theo tất cả những gì y biết, giống như người ta mang cờ hiệu, với cái gì đó tàn nhẫn, cô độc và gần như kiêu hãnh. “Như thể thằng chả gặp phải thời vận xui xẻo mà thằng chả hy vọng thoát ra nhanh chóng nhưng lại tỏ ra đếch cần biết là bằng cách nào thằng chả có thể thoát ra,” những người thợ đó nói sau này. Y thì trẻ. Và Byron quan sát y đứng đó, điếu thuốc lá ngậm ở khóe miệng hơi bị trễ xuống vì hút nhiều, vẻ mặt điềm tĩnh một cách u ám và khinh khỉnh, đang nhìn những người thợ trong bộ quần yếm lấm láp mồ hôi. Sau một lát, y nhổ mẩu thuốc lá xuống đất, không đụng đến tay, quay người đi về phía văn phòng xưởng bào trong khi đám thợ trong bộ quần yếm bạc màu và vấy bẩn nhìn theo lưng y với sự tức tối pha lẫn bối rối. “Tụi mình phải ‘bào’ nó một trận nên thân,” tên cai thợ nói. “Cho tiêu cái bản mặt phách lối đó đi.”
Họ không biết y là ai. Không ai trong bọn họ đã gặp y bao giờ. “Ngoài ra, một thằng đàn ông mà mang cái bộ mặt như vậy trước mắt mọi người thì cũng to gan thiệt chớ,” một người nói. “Có thể là thằng chả quên phức và dùng cái bộ mặt đó rồi ngộ khi gặp phải một tên du côn nó ngửi không vô thằng chả.” Rồi họ thôi nghĩ đến y, hay ít ra là không nói đến nữa. Họ trở lại làm việc giữa những tiếng kêu vù vù và tiếng rít ken két của các dây cua-roa và trục máy. Nhưng chưa đầy mười phút sau thì viên giám thị đi vào, tên lạ mặt theo sau.
“Nhận thằng này vào làm,” viên giám thị bảo tên cai thợ. “Nó nói nó biết dùng xẻng. Giao nó xúc mùn cưa đi.”
Những người thợ khác vẫn làm không ngừng tay nhưng không một ai trong xưởng lại không đưa mắt nhìn kẻ xa lạ trong bộ áo quần thị dân lấm bẩn, với bộ mặt u ám, khó chịu, với vẻ khinh người lạnh lùng và im lặng. Tên cai liếc y rất nhanh, cái nhìn thì cũng lạnh tanh như các người thợ khác. “Ăn mặc sang vậy mà mần việc sao?”
“Đó là chuyện riêng của nó,” viên giám thị nói. “Tao thuê nó chớ có thuê áo quần của nó để làm đâu.”
“Thôi được, nó ăn mặc ra sao mà được với ông và với nó thì cũng được với tôi luôn,” tên cai nói. “Thưa ông nội, được rồi đó, ông nội xuống dưới kia tìm cái xẻng và giúp tụi nó hốt đống mùn cưa đi.”
Kẻ mới đến quay người đi không nói một lời. Những người thợ khác nhìn y đi xuống chỗ đống mùn cưa, khuất dạng rồi hiện ra với cái xẻng và bắt đầu làm việc. Tên cai và viên giám thị đứng nói chuyện ở cửa. Hai người chia tay và tên cai quay lại. “Họ nó là Christmas [18] ,” ông ta nói.
“Họ cái gì?” một người hỏi.
“Christmas.”
“Nó người nước ngoài sao?”
“Bộ mày chưa hề biết một thằng da trắng nào mang họ Christmas à?” tên cai nói.
“Tui chưa bao giờ biết ai có cái họ lạ vậy,” người kia nói.
Và đó là lần đầu tiên Byron nhớ ra là mình chưa từng nghĩ rằng cái tên của một người, thường được xem như là một âm thanh đơn giản để chỉ định người đó là ai, lại có thể bằng cách này hay cách khác là điềm báo trước những gì người đó sẽ làm, nếu như người ta có thể đọc ý nghĩa của nó kịp thời. Theo anh thì dường như không một người thợ nào chú ý quá mức đến kẻ lạ mặt đó cho tới khi nghe được tên y. Nhưng vừa nghe xong thì họ cảm tưởng là có cái gì đó trong độ âm vang của cái tên đang tìm cách báo cho họ biết những điều mà họ phải trông chờ; như thể y mang theo người một lời cảnh báo không thể lẩn tránh được, như hoa mang mùi thơm, như con rắn chuông mang tiếng kêu lanh canh ở đuôi. Chỉ có điều là không ai trong bọn họ cảm thấy đủ đầy để nhận ra nó. Họ chỉ nghĩ đơn giản y là một người nước ngoài, và trong khi nhìn y làm việc trong quãng thời gian còn lại của ngày thứ sáu đó, với cà vạt, mũ rơm, quần có nếp gấp, họ nói giữa họ với nhau là ở nước y người ta làm việc như vậy đó. Tuy vậy vẫn có ai đó nói: “Nó sẽ thay đồ tối nay mà. Nó sẽ không diện bộ cánh dành cho ngày chủ nhật như vậy để trở lại làm việc sáng mai đâu.”
Sáng thứ bảy đến. Vừa mới bước vào xưởng ngay trước khi còi hụ, những người đến muộn đã buột miệng hỏi: “Nó có... Ở đâu...?” Những người khác đưa tay chỉ. Người thợ mới đang đứng một mình, bên cạnh đống mùn cưa và chiếc xẻng. Và y vẫn mặc bộ đồ ngày hôm qua, với cái mũ kênh kiệu và điếu thuốc lá gắn ở miệng. “Nó có mặt ở đó rồi khi tụi mày đến,” những người đầu tiên vào xưởng nói. “Chỉ đứng đó thôi, như vậy đó. Làm như nó đã không leo lên giường ngủ bao giờ.”
Christmas không nói chuyện với bất cứ người nào trong bọn họ. Và chẳng một ai tìm cách nói chuyện với y. Nhưng mọi người cảm thấy sự hiện diện của y, của tấm lưng chắc nịch và hai cánh tay cứng cáp (y làm việc khá tốt, hồ như với một sự đều đặn có tiết chế và đáng ngại). Giờ trưa đến. Ngoại trừ Byron, ngày hôm nay không ai mang theo đồ ăn trưa, và họ bắt đầu gom vật dụng của mình, sẵn sàng rời xưởng cho đến sáng thứ hai. Tay cầm cà mèn, Byron đi một mình đến căn nhà đặt máy bơm. Đó là nơi đám thợ thường ăn trưa. Anh ngồi xuống. Rồi có cái gì đó khiến anh ngước mắt lên. Không xa anh lắm, lưng tựa vào một cái cột, tên xa lạ đó đang đứng hút thuốc lá. Byron biết là y đã ở sẵn đó khi anh bước vào, và cũng chẳng thèm đi chỗ khác. Hay tệ hơn nữa: là y cố ý đến đây, không buồn để ý đến Byron, như thể anh là một cái cột khác. “Này, ông bạn có định làm tiếp không?” Byron nói.
Tên kia nhả ra một hơi khói. Rồi y nhìn Byron. Khuôn mặt hốc hác, thịt có màu chết và phẳng như tấm giấy da. Nhưng không phải da: chính là thịt, như thể cái sọ được nặn từ sự đều đặn chết người và bất động, rồi được bỏ vào một lò nung bị quá nhiệt. “Những giờ làm thêm, người ta trả bao nhiêu vậy?” y nói. Vậy là Byron hiểu ra. Anh hiểu ra tại sao y làm việc chân tay trong bộ quần áo dành cho ngày chủ nhật, và tại sao y đã không mang theo đồ ăn trưa, cả hôm qua lẫn hôm nay, và tại sao y đã không ra về cùng những người khác khi còi hụ lúc trưa. Anh hiểu cũng rõ ràng như thể y nói ra cho anh biết là y chẳng có một xu teng dính túi và chắc là y đã sống bằng thuốc lá từ hai hay ba ngày nay. Ý tưởng này vừa chớm hiện trong đầu là Byron đưa cà mèn của mình ra mời, một hành động cũng do phản xạ như cái ý tưởng. Nhưng cử chỉ đó chưa kịp hoàn thành thì tên đàn ông, vẫn giữ thái độ uể oải và hách dịch, quay mặt lại và liếc nhìn cái cà mèn được mời xuyên qua làn khói thuốc la đà. “Tao không đói. Mày giữ lại cái thứ bẩn thỉu này mà ăn đi.”
Sáng thứ hai tới và chứng tỏ là Byron đã nghĩ đúng. Y đến làm trong bộ quần yếm mới toanh và với một cái túi giấy đựng đồ ăn. Nhưng y không ngồi bệt xuống đất trong căn nhà đặt máy bơm với những người khác vào giờ ăn trưa, và vẫn giữ vẻ mặt khinh khỉnh như trước đây. “Hãy để nó yên nghe tụi bây,” tên cai nói. “Ông giám thị Simms có thuê quần áo nó hay cái bản mặt nó để làm việc đâu?”
Ông Simms cũng đã không thuê cái lưỡi của thằng cha xa lạ này, Byron nghĩ. Và ít ra theo cách xử sự của y, Christmas có vẻ cũng nghĩ như Byron. Sáu tháng trôi qua mà y vẫn không mở miệng nói với ai một lời. Chẳng ai biết được y làm gì sau những giờ làm việc ở trại bào. Đôi khi, sau buổi ăn tối, một trong các người thợ làm chung gặp y ở quảng trường trung tâm thành phố, và Christmas lại làm như hai người không hề biết nhau trước nay. Vào giờ đó, y thường đội cái mũ mới, mặc quần ủi thẳng thớm, điếu thuốc lá gắn ở khóe miệng và khói lờn vờn như chế nhạo trước mặt y. Không một ai biết được chỗ y ở, chỗ y ngủ ban đêm. Tuy nhiên, thỉnh thoảng người ta thấy y đi theo con đường mòn xuyên qua khu rừng cây nằm ngoài rìa thành phố, như thể y sống đâu đó ở mé ngoài này.
Tất cả chuyện đó không phải Byron bây giờ mới biết. Đó là chuyện anh đã biết hồi đó rồi, đã nghe người ta kể, đã quan sát dần dần. Không ai, vào thời đó, biết được chỗ Christmas ở, biết được y thực sự làm gì đằng sau vẻ bí ẩn, sau tấm màn ngụy trang bằng công việc dành cho bọn da đen ở xưởng bào. Và có lẽ người ta hẳn không bao giờ biết được nếu như không có Brown, một tên lạ mặt khác. Thế nhưng, Brown vừa mới mở miệng nói ra thì cỡ chừng một tá đàn ông thú nhận đã mua rượu uýt-ki từ Christmas hơn hai năm nay. Họ gặp một mình y ban đêm trong khu rừng cây nằm phía sau ngôi nhà đồn điền cũ kiểu thuộc địa cách thành phố hai dặm, trong đó có một cô gái già tên là Burden sống một mình. Tuy vậy, ngay cả những người mua uýt-ki cũng không biết là Christmas ở trong một căn lều gỗ ọp ẹp dành cho người da đen nằm trong khuôn viên của cô Burden, và y sống một mình ở đó hơn hai năm nay.
Rồi vào một ngày đẹp trời nào đó cách đây sáu tháng, một tên lạ mặt khác xuất hiện tìm việc làm ở xưởng bào, y như Christmas ngày trước. Hắn cũng trẻ, cao lớn, và hắn đã mặc sẵn cái quần yếm, nó trông như ở hoài trên người hắn từ lâu lắm rồi. Hắn cũng có vẻ đi đây, đi đó một cách gọn nhẹ, không có hành lý mang theo. Khuôn mặt lanh lợi của hắn thì đẹp một cách yếu ớt với một cái sẹo trắng nhỏ bên cạnh khóe miệng, nó trông như được ngắm nghía nhiều lần trước gương soi, và hắn có kiểu lúc lắc nhanh cái đầu và liếc nhìn qua vai giống như con la gặp phải trước mặt chiếc xe hơi ngược chiều trên đường, Byron nghĩ. Nhưng đó không chỉ là cái nhìn ra sau, một phản ứng lo sợ. Byron hình như cũng thấy ra một sự tự tin nào đó, một sự xấc láo nào đó, như thể tên đàn ông này cứ khăng khăng chứng tỏ là hắn ta chẳng lo sợ chút nào về các nguy cơ có thể đến từ sau lưng. Và khi Mooney, tên cai, thấy người thợ mới thì Byron tin là anh và Mooney có cùng ý nghĩ. Mooney nói: “Vậy thì ông Simms chắc chắn không phải thuê cái gì cả khi thâu nhận tên này vào làm. Ngay cả bộ quần yếm ổng cũng không bao giờ phải thuê nữa đó.”
“Thật vậy,” Byron nói. “Thằng đó khiến tôi nghĩ đến một trong những chiếc xe hơi chạy dọc theo đường phố với máy thu thanh bên trong. Ông không thể nghe được cái máy nó nói cái gì và chiếc xe thì cứ chạy loanh quanh, không đến riêng chỗ nào cả, và khi ông nhìn nó cận kề thì thấy là không có ai trong xe.”
“Đúng,” Mooney nói. “Thằng đó khiến tao nghĩ đến con ngựa. Không phải con ngựa chứng đâu. Một con ngựa vô tích sự, đơn giản vậy thôi. Trông thì oách lắm trên đồng cỏ, nhưng mỗi khi có ai xuất hiện ở cổng với bộ dây cương thì y như rằng nó đã ở tuốt phía dưới mé suối rồi. Chạy thì cũng được nhưng khi đến giờ đóng vào xe thì y như rằng nó bị đau móng guốc.”
“Nhưng có lẽ mấy con ngựa cái thì thích nó,” Byron nói.
“Hẳn vậy rồi,” Mooney nói. “Tao cho là nó chẳng làm nên trò trống gì lâu ngay cả với một con ngựa cái.”
Tên thợ mới đi xuống làm việc ở đống mùn cưa với Christmas. Hoa chân múa tay, hắn oang oang kể cho mọi người biết hắn là ai, và từ đâu đến, với cái giọng và cung cách làm lộ ra bản chất con người hắn, lộn xộn và dối trá. Đến nỗi người ta không tin những gì hắn nói là hắn đã làm và cũng chẳng tin hơn cái tên họ mà hắn đưa ra, Byron nghĩ. Nhưng không có lý do gì mà họ của hắn không phải là Brown kia chớ. Chỉ cần nhìn hắn một chút là người ta biết vào một lúc nào đó trong đời hắn, sự ngu xuẩn của hắn đã phải lên đến cao độ khi hắn đổi họ, và chọn cái họ Brown này với niềm vui sướng hả hê, như thể cái họ này chưa bao giờ được con người ta đặt ra trước đó. Thực tế là, người ta không thấy lý do tại sao hắn phải có hay cần có một cái họ để làm gì. Chẳng ai thèm để ý đến hắn cả, đúng như Byron tin là không ai (ít ra là những kẻ mặc quần) thèm để ý là hắn đến từ đâu, hắn đi đâu, hắn ở lại bao lâu. Bởi vì bất kể từ đâu hắn đến, bất kể nơi nào hắn đã sống qua, người ta biết là hắn sống ở nhà quê như một con châu chấu. Như thể hắn sống ở đó lâu đến nỗi cả con người hắn trở nên ly tán và tản mác, và bây giờ thì không còn lại gì ngoài cái vỏ trong suốt và không trọng lượng mà ngọn gió đầu tiên nào đến cũng có thể thổi bay về đâu đó trong vùng quên lãng.
Tuy nhiên, hắn vẫn làm việc một ít, theo cách của hắn. Byron tin là hắn chẳng còn đủ sức lực đâu mà chuồn lủi công việc một cách khéo léo và khôn ngoan. Ngay cả khi tự mình muốn chuồn lủi công việc hết sức, người ta phải tỏ ra giỏi hơn người thường để làm chuyện đó cho hay, y chang như làm bất cứ chuyện gì khác: trộm cắp hay thậm chí giết người. Người ta phải nhắm đến một mục tiêu cụ thể và dứt khoát nào đó, và cố gắng hướng về nó. Và anh nghĩ đây không phải là trường hợp của Brown. Họ nghe là vào đêm thứ bảy đầu tiên, hắn đã mất cha nó hết số tiền lương tuần làm việc thứ nhất trong trò gieo súc sắc ăn tiền. Byron nói với Mooney: “Tôi thấy ngạc nhiên về chuyện đó. Tôi tưởng gieo súc sắc là nghề của chàng mà.”
“Thằng đó à?” Mooney nói. “Cái gì khiến mày nghĩ là nó có thể làm được cái chó gì cho ra hồn trong khi chỉ việc hốt mùn cưa thôi mà còn quá khó đối với nó? Cái gì khiến mày nghĩ là nó có thể gạt ai với cái gì đó khó chơi như trò gieo súc sắc trong khi nó không thể sử dụng cái gì đó dễ như cái xẻng?” Rồi tên cai nói thêm: “Thôi, tao cho là mình không nên lo là nó không thể làm cái gì hơn ai. Bởi vì ít ra nó có thể hạ thằng Christmas trong chuyện đếch làm gì cả.”
“Hẳn vậy rồi,” Byron nói, “tôi cho là làm người tốt thì gần như không gì dễ hơn đối với một thằng lười biếng.”
“Tao cho là nó sẽ không tốt được lâu đâu,” Mooney nói, “nếu ít ra nó có được ai đó chỉ cho nó cách làm.”
“Ôi, sớm hay muộn gì nó cũng tìm ra được người đó đâu đây mà,” Byron nói. Cả hai quay người và nhìn đống mùn cưa, nơi mà Brown và Christmas đang làm việc, một người thì với sự đều đặn có suy tính và hung bạo, một người thì với sự vung tay múa chân được chăng hay chớ, hẳn là không thể gạt ai được, ngay cả chính mình.
“Chắc vậy,” Mooney nói. “Nhưng mà, nếu bỗng dưng tao muốn trở nên xấu thì bảo đảm là tao sẽ không chọn nó để làm chung đâu.”
Giống như Christmas, Brown đến làm việc trong cùng một bộ quần áo mà hắn đã mặc khi đi phố. Nhưng khác với Christmas, hắn không thay nó trong một thời gian khá lâu. “Vào một đêm thứ bảy nào đó nó sẽ ăn được vừa đủ tiền trong trò gieo súc sắc đó để mua một bộ quần áo mới và vẫn còn năm mươi xen bằng đồng năm xen kêu lách cách trong túi,” Mooney nói, “và sáng thứ hai sau đó thì tụi mình sẽ không còn gặp nó nữa.” Tuy nhiên, Brown vẫn tiếp tục đến làm, vẫn trong bộ quần yếm và áo sơ-mi đó mà hắn đã mặc trong ngày đầu tiên đến Jefferson. Và thua sạch tiền lương hàng tuần trong trò súc sắc vào đêm thứ bảy hay có lẽ ăn chút ít. Trong cả hai trường hợp, thua hay ăn, hắn đều bật cười hề hề một cách ngu ngốc, đùa giỡn, cười cợt vui vẻ với chính những người rất có thể là đã quịt hắn đều đều. Rồi một ngày kia, người ta nghe là hắn đã ăn được sáu mươi đô-la. “Vậy là nó sẽ biến mất tiêu,” ai đó buột miệng.
“Tao không biết đâu,” Mooney nói. “Sáu chục đô-la, con số này trật bét. Nếu là mười đô hay năm trăm đô thì tụi mày có thể nói đúng. Nhưng không phải y bon sáu chục đâu. Nó đơn giản sẽ nghĩ là nó đang ổn định cuộc sống lâu dài ở đây, và cuối cùng thì cũng lãnh được lương hàng tuần khá tương xứng với khả năng của nó.” Và vào sáng thứ hai hắn vẫn trở lại làm việc thật, trong bộ quần yếm quen thuộc; họ thấy cả hai, Brown và Christmas, ở đống mùn cưa. Họ đã quan sát hai đứa dưới đó từ cái ngày Brown đến làm: Chrismas thọc xẻng vào đống mùn cưa một cách đều đặn và chậm rãi, nhưng mạnh mẽ, như thể y đang chặt ra từng khúc một con rắn bị chôn dưới đất (“hay một con người,” Mooney nói), và Brown thì tựa người vào cái xẻng của hắn, miệng huyên thuyên như có vẻ kể cho Christmas nghe một câu chuyện hay một giai thoại nào đó. Thực vậy, giờ thì hắn bật cười, rồi vừa hét vừa cười, đầu ngửa ra đằng sau, trong khi bên cạnh hắn tên đàn ông kia cứ im lặng làm việc trong sự đều đặn hung bạo. Rồi Brown cầm xẻng lại. Trong một thời gian hắn làm việc cũng nhanh nhẹn như Christmas nhưng hắn xúc càng lúc càng ít hơn cho đến khi cái xẻng thậm chí không còn đụng đến mùn cưa nữa trong cái vung tay hình vòng cung uể oải. Rồi hắn lại tựa người vào xẻng và hình như kết thúc điều gì đó mà hắn đã bắt đầu kể cho Christmas, huyên thuyên kể cho một người chẳng tỏ ra muốn nghe cái quái gì cả, kể cả giọng nói của hắn. Như thể người kia đang ở cách đây cả dặm, hay nói một thứ tiếng khác với thứ tiếng hắn biết, Byron nghĩ. Và đôi khi người ta thấy cả hai tên cùng đi với nhau ở trung tâm thành phố, vào tối thứ bảy: Christmas thì mặc bộ đồ bằng vải “xéc” sạch sẽ, đơn giản và nhã nhặn và đội chiếc mũ rơm, còn Brown thì mặc một bộ đồ lớn mới (màu nâu nhạt với những ô vuông đỏ), áo sơ-mi màu và đội cái mũ giống như Christmas nhưng với dải băng màu. Brown cười nói với Christmas, giọng hắn nghe rõ, xuyên qua quảng trường rồi tiếng vang của nó dội lại, hơi giống như cái âm thanh vô nghĩa trong một giáo đường dường như đến từ mọi phía cùng lúc. Như thể hắn muốn mọi người thấy rõ hắn và Christmas là bạn bè chí cốt, Byron nghĩ. Rồi Christmas quay người lại và với bộ mặt bao giờ cũng điềm tĩnh và ủ rũ, rời khỏi nhóm người, đôi khi rất nhỏ, mà Brown đã lôi kéo đến do những lời kề cà vô nghĩa phát ra từ miệng hắn. Và Brown đi theo y, vẫn cười, vẫn nói. Và mỗi lần như vậy, những người thợ lại nói: “Vậy là nó sẽ không đi làm sáng thứ hai rồi.” Nhưng mỗi sáng thứ hai hắn lại dẫn xác đến. Rồi chính Christmas bỏ đi đầu tiên.
Y bỏ đi vào một tối thứ bảy, không kèn không trống, sau gần ba năm làm việc. Chính Brown loan báo cho mọi người biết Christmas đã bỏ đi. Trong đám thợ thì gồm những người đã có vợ con và những người độc thân, họ thuộc đủ mọi lứa tuổi và đều có nhiều lối sống khác nhau; tuy vậy, vào sáng thứ hai đó, tất cả bọn họ đến làm việc với bộ mặt nặng nề, gần như nghiêm trang. Vài người trong bọn họ thì trẻ, đã nhậu rượu và đánh bạc tối thứ bảy, và thậm chí đi chơi bời ở tận Memphis [19] , lúc này lúc nọ. Vậy mà sáng thứ hai, mọi người đều đến làm việc một cách lặng lẽ, tỉnh táo trong bộ quần yếm và áo sơ-mi sạch sẽ, và bình thản chờ đợi cho đến khi còi hụ rồi bình thản bắt tay vào việc, như thể còn cái gì đó của ngày “xa-ba” [20] vẫn la đà trong không khí, để xác lập nguyên tắc này: dù bất cứ chuyện gì mà người ta làm trong ngày chủ nhật, việc đúng đắn duy nhất, vào sáng thứ hai, là đi làm, lặng lẽ và sạch sẽ.
Đó là điều mà họ luôn luôn nhận thấy nơi Brown. Vào sáng thứ hai, rất có thể là hắn xuất hiện trong cùng bộ quần áo dơ bẩn của tuần trước và bộ râu đen chưa hề biết đến dao cạo. Và hắn làm ồn hơn bao giờ hết, với những tiếng la hét và các trò đùa tinh nghịch của một đứa bé lên mười. Đối với những người khác thích yên tĩnh thì điều đó trông không đứng đắn chút nào. Dưới mắt họ thì như thể hắn đến làm việc mà người cứ ở truồng hay say rượu. Vậy mà chính Brown, vào sáng thứ hai đó, báo cho họ biết là Christmas đã bỏ đi. Hắn đến trễ, nhưng không phải vì vậy. Hắn cũng không cạo râu, nhưng không phải vì vậy. Mà vì hắn yên lặng. Trong một lúc họ chẳng nhận ra là hắn cũng hiện diện ở đó và hẳn là đã có một nửa đám đàn ông trong xưởng nguyền rủa hắn lúc đó, và dĩ nhiên, vài người trong bọn họ nguyền rủa một cách thực lòng. Hắn xuất hiện đúng lúc còi hụ và đi thẳng tới đống mùn cưa và bắt tay làm việc không nói một lời với ai, ngay cả khi có người lên tiếng với hắn. Rồi họ thấy ra là hắn chỉ có một mình dưới đó, và Christmas, kẻ làm chung với hắn, thì không có đó. Khi tên cai đến, có ai đó nói: “Thôi rồi, tui thấy ông đã mất một trong những thằng học việc đốt lò của ông rồi.”
Mooney nhìn xuống cái chỗ mà Brown ấn cái xẻng vào đống mùn cưa như thể đó là trứng gà. Tên cai nhổ nhẹ nước miếng xuống đất.
“Phải rồi. Y làm giàu nhanh quá. Cái việc lặt vặt cũ rích ở đây không thể giữ y lại được.”
“Làm giàu sao?” một người nói.
“Nếu không phải thằng này đây thì phải là thằng kia,” Mooney nói, mắt vẫn không rời Brown. “Tao thấy hai đứa nó hôm qua đi một chiếc xe hơi mới toanh. Thằng này” - Mooney hất cằm về phía Brown - “cầm lái đó. Tao đâu ngạc nhiên khi thấy vậy. Tao chỉ ngạc nhiên là một trong hai đứa nó lại chịu khó vác xác đi cày ngày hôm nay.”
“Được rồi. Tui nghĩ là ông giám thị Simms tìm người thay thế y đâu có khó gì ở thời buổi này,” người kia nói.
“Ổng tìm được mà, dễ thôi, bất cứ lúc nào,” Mooney nói.
“Theo tui thì y làm việc có vẻ khá tốt đó.”
“Vậy à?” Mooney nói. “Nhưng mày nói đến thằng Christmas đó sao?”
“Vậy chớ ông đang nói đến ai đây? Bộ thằng Brown có nói là nó cũng bỏ đi à?”
“Mày tưởng nó cứ nai lưng ra làm việc ở đây trong khi thằng kia lái chiếc xe láng cón đi diễu cả ngày trong phố sao?”
“Ồ” Người kia cũng đưa mắt nhìn Brown. “Tui tự hỏi hai đứa nó lấy chiếc xe đó ở đâu ra?”
“Tao thì không hỏi vậy,” Mooney nói. “Tao chỉ muốn biết Brown sẽ bỏ đi vào buổi trưa nay hay làm việc đến sáu giờ chiều.”
“À này,” Byron nói, “nếu ở đây mà tôi làm ra tiền, đủ giàu để mua xe hơi, thì tôi cũng bỏ đi thôi.”
Một hay hai người thợ ngước mắt nhìn Byron. Họ mỉm cười đôi chút. “Đâu phải ở đây mà tụi nó trở nên giàu có,” một người nói.
Byron nhìn anh ta. “Tao cho là Byron còn quá ngây thơ để mà thấy ra những trò khỉ của thiên hạ,” người kia nói.
Họ nhìn Byron. “Brown là đứa mà người ta có thể gọi là một tên phục vụ công chúng tận tụy. Trước kia Christmas vẫn thường bắt họ đến ban đêm tuốt dưới đó, ở trong khu rừng cây nằm sau nhà cô Burden. Bây giờ thì Brown mang vào ngay trong phố cho họ. Tao nghe nói, nếu người ta biết mật khẩu thì có thể mua ở bất cứ con hẻm nào, vào tối thứ bảy, một panh [21] rượu uýt-ki lấy ra từ ngực áo sơ-mi hắn.”
“Mật khẩu thế nào?” Người kia nói. “Bảy mươi lăm xen [22] .”
Byron nhìn hết người này đến người kia. “Thiệt vậy sao? Tụi nó làm chuyện đó à?”
“Đúng là chuyện Brown làm đó. Còn Christmas thì tao không biết. Tao không dám chắc. Nhưng Brown thì có bao giờ ở xa Christmas đâu. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã mà, như ông bà nói.”
“Đó là một việc có thật,” người kia nói. “Christmas có nhúng tay vào hay không thì tụi mình làm sao biết được. Không lẽ y đi khơi khơi trước mặt bàn dân thiên hạ mà không đề phòng gì, như thằng Brown này sao?”
“Y không cần làm vậy đâu,” Mooney vừa nói, vừa nhìn Brown.
Và Mooney nói đúng. Họ quan sát Brown suốt từ sáng cho đến trưa, một mình phía dưới đó, bên đống mùn cưa. Rồi còi hụ và họ lấy ra cà mèn đựng bữa ăn trưa rồi ngồi bệt ở căn nhà chứa máy bơm và bắt đầu ăn. Brown đi vào, dáng điệu ủ rũ, bộ mặt trông cau có và tổn thương cùng lúc, như một đứa con nít, và ngồi bệt xuống giữa họ, đôi bàn tay lúc lắc giữa hai đầu gối. Hôm nay, hắn không mang theo đồ ăn trưa.
“Mày không ăn miếng nào à?” một người nói.
“Ăn thứ đồ bẩn thỉu lạnh tanh trong cái cà mèn dính mỡ dơ dáy này sao?” Brown nói. “Bắt đầu làm từ sáng sớm, quần quật suốt cả ngày như một thằng mọi đen trời đánh thánh vật, chỉ được một giờ nghỉ trưa để nuốt mấy thứ bẩn thỉu lạnh tanh trong cái cà mèn thiếc.”
“Này, có lẽ là có những thằng làm việc giống như tụi mọi đen làm ở xứ tụi nó,” Mooney nói. “Nhưng một thằng mọi đen sẽ không trụ nổi đến khi còi hụ buổi trưa đâu, nếu nó làm việc ở đây theo kiểu mấy tên da trắng.”
Nhưng Brown, ngồi bệt dưới đất, bộ mặt ủ rũ, hai bàn tay lúc lắc, không có vẻ nghe hay để tai lắng nghe. Như thể hắn không lắng nghe ai cả, trừ hắn ra, như thể hắn chỉ nghe hắn thôi: “Đồ ngu! Chỉ đồ ngu mới làm việc này!”
“Mày có bị cột vào cái xẻng đó đâu,” Mooney nói.
“Tất nhiên là vậy rồi,” Brown nói.
Rồi tiếng còi vang lên. Cả đám quay lại làm việc. Và họ cứ quan sát Brown phía dưới đó, bên đống mùn cưa. Hắn xúc một lúc rồi bắt đầu chậm tay lại, càng lúc càng chậm cho đến khi hắn nắm chặt cái xẻng như thể nó là cái roi ngựa không bằng, và họ có thể thấy là hắn tự nói với mình. “Bởi vì không có ai khác ở phía dưới đó để hắn nói chuyện”, một người nói.
“Không phải vậy đâu,” Mooney nói. “Vì nó chưa tự thuyết phục mình được. Nó không phấn khởi lắm đâu.”
“Phấn khởi về chuyện gì?”
“Về chuyện là nó còn ngu hơn tao tưởng,” Mooney nói.
Sáng hôm sau hắn không đến xưởng. “Từ rày về sau, địa chỉ nó là ở tiệm hớt tóc,” người nào đó nói.
“Hay ở con hẻm ngay đằng sau tiệm đó,” một người khác nói.
“Tao cho là tụi mình sẽ gặp nó lần nữa,” Mooney nói. “Nó còn phải tới đây để lãnh lương làm ngày hôm qua chớ.”
Đúng vậy. Hắn đến khoảng mười một giờ. Hắn mặc bộ đồ lớn mới toanh, đầu đội mũ rơm, và hắn dừng chân ở nhà xưởng, đứng yên đó, đưa mắt nhìn đám thợ làm việc, y hệt Christmas đã từng đứng nhìn một ngày nọ ba năm trước, như thể không hiểu làm sao mà chính những thái độ của ông thầy đã tỏ ra trong kiếp trước đã thúc đẩy, dù ông này cũng không biết, các cơ bắp dễ bảo của đứa học trò, nó đã học quá nhanh và quá tốt đi thôi. Nhưng, trong khi ông thầy mang bộ mặt rầu rĩ, điềm tĩnh và chết người như một con rắn thì Brown, về phần mình, lại bày đặt tỏ ra nhớn nhác và vênh váo một cách rỗng tuếch. “Ê, đồ con hoang, đồ nô lệ, làm nhanh lên coi!” Brown nói, với cái giọng ầm ĩ và vui vẻ, dù bị hàng răng trước chặn bớt trong miệng.
Mooney nhìn Brown. Và hàng răng của Brown không còn lộ ra nữa.
“Này, không lẽ mày gọi tao vậy sao?” Mooney nói.
Bộ mặt linh hoạt của Brown biến đổi tức khắc, nó mang một trong những cái biến đổi mà họ thấy quen quá rồi. Như thể nó không được định hình nhưng được tạo ra một cách mềm mại đến mức Brown có thể thay đổi nó mà không thấy lúng túng gì cả, Byron nghĩ. “Tui có nói chuyện với ông đâu,” Brown đáp.
“À, vậy sao,” Mooney nói với một giọng dễ chịu, gần như thân mật. “Vậy là mày gọi mấy đứa kia là đồ con hoang.”
Ngay lập tức một người khác nói: “Có phải mày gọi tao như vậy phải không?”
“Tui chỉ nói với tui thôi mà,” Brown nói.
“Thôi được, ít ra mày nói lên lời Chúa thành tín một lần trong đời mày,” Mooney nói. “Tức là, mới có một nửa lời đó thôi! Mày có muốn tao lại gần và nói nhỏ bên tai mày cái nửa kia không?”
Và đó là lần cuối cùng họ nhìn thấy hắn ở xưởng bào. Nhưng Byron biết, và bây giờ nhớ lại chiếc xe hơi mới toanh đó (mà một hay hai thanh chắn sốc thì đã bị bẹp dúm liền), nó cứ chạy loanh quanh trong phố, nhàn rỗi, không mục đích, với Brown ung dung ngồi sau tay lái, không biết làm sao đóng cho hay vai kẻ vô công rồi nghề, phóng đãng và làm người khác nhìn theo mà chảy nước miếng. Thỉnh thoảng Christmas đi với hắn, nhưng không thường lắm. Và bây giờ hai đứa nó làm gì thì chẳng còn bí ẩn nữa. Đám thanh niên, và ngay cả tụi con nít, đều biết là người ta có thể mua uýt-ki từ Brown bất cứ lúc nào; và thành phố hàng ngày chờ thấy hắn bị tóm, chờ xem hắn lấy ra chai uýt-ki từ bên trong áo mưa để trao cho một viên cảnh sát chìm nào đó. Người ta vẫn chưa chắc chắn là Christmas có thông đồng với hắn không mặc dù không ai tin rằng Brown một mình lại đủ khôn ngoan để có thể kiếm lời trong việc buôn rượu lậu [23] ; và cũng có vài người biết là Christmas và Brown, cả hai đều ở trong một căn lều trong khuôn viên của cô Burden. Nhưng ngay cả những người này cũng không biết là cô Burden có biết điều đó hay không; vả lại, nếu họ biết thì họ cũng chẳng mở miệng nói với cô đâu. Cô đã vào tuổi trung niên và sống một mình trong ngôi nhà to tổ bố. Cô đã sống trong ngôi nhà đó từ khi ra đời, vậy mà người ta vẫn xem cô là một người xa lạ, một người nước ngoài mà cha mẹ từ miền Bắc đã xuống đây định cư trong Thời kỳ Tái thiết [24] . Một Yankee [25] chính hiệu, một người yêu thích dân da đen mà cả thành phố còn bàn tán xôn xao về những quan hệ lạ lùng với đám da đen sống trong thành phố hay nơi khác, mặc dù cách đây gần sáu mươi năm ông nội và anh của cô đã bị một tên trước đây là chủ nô lệ giết chết ở quảng trường vì cãi nhau về quyền bỏ phiếu của người da đen trong cuộc bầu cử tiểu bang. Nhưng vẫn có cái gì đó tối tăm, kỳ quặc và đáng lo ngại còn phảng phất xung quanh cô và ngôi nhà, dù cô chỉ là một người đàn bà và chỉ là con cháu của những người mà các tiền nhân của thành phố đã có lý do (hay nghĩ là có) để thù ghét hay lo sợ. Nhưng sự việc bày ra đó là: những hậu duệ của hai phe luôn phải đối mặt với những hồn ma của phía bên kia, và bao giờ cũng bị ngăn cách bởi cái bóng ma của cuộc đổ máu ngày trước, của sự ghê rợn, nỗi giận dữ và niềm sợ hãi khi xưa.
***
Nếu tình yêu đã từng hiện hữu, dù chỉ một lần, đàn ông và đàn bà hẳn sẽ nói rằng Byron Bunch đã quên nó. Hay là, có lẽ đúng hơn, tình yêu đã quên anh - người đàn ông nhỏ thó đã quá xa tuổi ba mươi, từ bảy năm nay cứ làm việc hết sáu ngày mỗi tuần ở xưởng bào, cặm cụi đút các tấm ván vào cỗ máy. Ngay cả chiều thứ bảy anh cũng có mặt ở đó, một mình, trong khi tất cả các người thợ khác đều lang thang dưới phố, diện bộ cánh ngày chủ nhật và đeo cà vạt ở cổ, trong sự nhàn rỗi khủng khiếp, bồn chồn và vô định thường thấy ở những người quen lao động.
Trong những chiều thứ bảy này, anh chất những tấm ván đã bào xong lên các toa hàng vì chỉ một mình anh thì không thể vận hành máy bào. Và anh canh giờ làm việc của mình cho tới đúng cái giây phút cuối cùng khi hồi còi tưởng tượng vang lên. Những người thợ khác, ngay cả thành phố, hay ít ra một phần của thành phố, mà còn nhớ hay nghĩ đến anh, đều tin rằng anh làm thế để lãnh thêm tiền ngoài giờ. Có lẽ đấy là lý do. Con người biết quá ít về đồng loại của mình! Dưới mắt chúng ta, đàn ông và đàn bà đều hành động dựa theo cùng những lý do thúc đẩy ngay chính chúng ta, nếu chúng ta điên khùng tới mức làm những gì mà họ đang làm. Thực ra, cả thành phố này chỉ có một người có thể nói về Bunch mà không sợ sai lầm, và thành phố thì không biết là Bunch và người này quen biết nhau, bởi vì họ chỉ gặp và nói chuyện với nhau vào ban đêm. Ông ta tên là Hightower. Hai mươi lăm năm trước, ông là mục sư ở một trong những nhà thờ quan trọng nhất, có lẽ là quan trọng nhất đó. Chỉ có ông mới biết được Bunch đi đâu vào mỗi tối thứ bảy khi tiếng còi tưởng tượng vang lên (hay khi cái đồng hồ to bằng bạc của Bunch nói với anh là còi đang hụ). Bà Beard, chủ nhà trọ của Bunch, chỉ biết mỗi thứ bảy, sau sáu giờ chiều một chút, là Bunch về nhà, tắm rửa và thay áo quần, mặc bộ đồ lớn bằng vải “xéc” rẻ tiền không còn mới, ăn bữa tối rồi thắng yên con la mà anh giữ trong cái chuồng ở sau nhà do chính anh sửa chữa và lợp mái, và ra đi trên lưng con la. Bà ta không biết anh đi đâu. Chỉ có một mình mục sư Hightower biết là Bunch cưỡi la đi ba mươi dặm về nông thôn, rồi trải qua ngày chủ nhật điều khiển đội hát thánh ca của một nhà thờ đồng quê - buổi lễ này kéo dài suốt cả ngày. Rồi vào khoảng nửa đêm, anh lại thắng cương con la, cưỡi nó quay về Jefferson, la đi nước kiệu chậm, suốt đêm không ngừng. Và vào sáng thứ hai, anh đã có mặt ở xưởng bào khi còi hụ vào làm, trong bộ quần yếm và áo sơ-mi sạch sẽ. Bà Beard chỉ biết là mỗi tuần, từ bữa ăn tối thứ bảy cho đến bữa ăn sáng thứ hai, căn phòng của anh cũng như cái chuồng la tạm bợ, thì trống vắng. Chỉ một mình Hightower biết anh đi đâu và anh làm gì ở đó, bởi vì hai hay ba đêm mỗi tuần Bunch đến thăm Hightower trong ngôi nhà nhỏ, nơi ông cựu mục sư này sống một mình, nơi mà dân trong thành phố gọi là nỗi ô nhục - một căn nhà nhỏ bé, tối tăm, không sơn phết, ít đèn đuốc, chứa mùi người và mùi ẩm mốc. Tại đây, trong căn phòng làm việc của ông mục sư, hai người nói chuyện một cách kín đáo: một người nhỏ con, hình dạng quá ư bình thường nên khó tả, và không hề ý thức là mình bị những bạn cùng làm ở xưởng bào cho là bí hiểm; và một người năm chục tuổi bị giáo hội của mình ruồng bỏ, khước từ.
Rồi Byron thấy trái tim mình đột ngột rung động vì ai. Anh phải lòng, ngược lại tất cả những truyền thống của nền giáo dục tỉnh lẻ mà anh thụ hưởng, vừa khắc khổ vừa đòi hỏi tới mức ghen tuông là người được yêu phải còn trinh bạch. Chuyện xảy ra vào một buổi chiều thứ bảy khi anh chỉ có một mình ở xưởng. Cách đấy hai dặm ngôi nhà vẫn đang cháy, khói vàng bốc lên ở chân trời, thẳng đứng như một cột tháp. Người ta đã thấy đám cháy trước buổi trưa khi khói bắt đầu bay lên cao hơn đầu các ngọn cây, trước khi còi hụ và các người thợ khác rời xưởng.
“Chắc hôm nay Byron cũng bỏ làm buổi chiều,” đám thợ nói với nhau. “Có đám cháy để xem miễn phí mà.”
“Đám cháy này lớn lắm,” một người khác nói. “Nó ở đâu vậy ta? Dưới miệt đó, tao không biết có cái gì đủ lớn để mà cháy ra nhiều khói như vậy, trừ phi đó là nhà cô Burden.”
“Có lẽ chính nó đó,” một người khác nói. “Cha tao nói ổng nhớ là năm mươi năm trước đây, người ta bảo phải đốt cái nhà đó đi, chỉ cần một chút mỡ người để bén lửa thật nhanh lúc đầu.”
“Có lẽ cha mày đã lẻn xuống dưới đó và châm lửa đốt nó,” một người thứ ba nói. Cả bọn cười ồ. Rồi họ quay lại làm việc, chờ cho còi hụ, thỉnh thoảng ngừng tay liếc nhìn cột khói. Một đỗi sau có chiếc xe tải chở các thân cây đến. Họ hỏi tên tài xế vì hắn đã đi xuyên thành phố để đến đây.
“Burden,” tên tài xế nói. “Đúng đó, chính là cái tên này. Có người dưới phố nói là ông cò [26] đã xuống đó xem rồi.”
“Chắc rồi, tao cho là lão Watt Kennedy thích ngắm nhìn hỏa hoạn, dù lão phải đi đến đó vì phận sự,” một người nào đó lên tiếng.
“Chỉ cần nhìn bãi đất thôi,” tên tài xế nói, “thì ông cò đâu có khó gì tìm ra một thằng nào ở dưới miệt đó mà ổng muốn tống vô tù.”
Còi trưa hụ vang. Mọi người ra về, trừ Byron. Anh bắt đầu ăn trưa, cái đồng hồ bằng bạc mở ra đặt sẵn bên cạnh. Khi nó chỉ một giờ đúng, anh quay lại công việc. Anh làm một mình ở kho bốc hàng, đi lại đều đặn, không ngừng, như con thoi giữa chiếc xe tải và nhà kho đó, với miếng vải bố gấp lại đặt lên vai như tấm đệm và vác những chồng gỗ ván thùng nặng trên vai mà thoạt nhìn người ta tưởng là anh không thể nhấc lên và vác đi. Chính lúc đó thì Lena Grove hiện ra ở cánh cửa ra vào, sau lưng anh, khuôn mặt rạng rỡ với nụ cười bình tâm sắp sửa toát ra, đôi môi sắp sửa lên tiếng. Anh nghe nàng, quay người lại và thấy vẻ mặt nàng tối lại như những vòng tròn chết dần trên mặt nước sau khi viên sỏi rơi xuống.
“Anh không phải ảnh,” nàng nói, đằng sau nụ cười héo dần, mang theo sự ngạc nhiên trầm trọng của một đứa bé.
“Thưa bà, không phải đâu,” Byron nói. Anh ngừng bước, quay nửa người lại, chồng gỗ ván được giữ thăng bằng trên vai. “Tôi nghĩ là không. Nhưng ảnh là ai mà tôi không phải ảnh chớ?”
“Lucas Burch. Người ta biểu tôi...”
“Lucas Burch à?”
“Người ta biểu là tôi có thể tìm ra ảnh ở đây mà.” Nàng nói với một thứ gì như sự bình thản chứa chút ngờ vực, chằm chằm nhìn anh không nháy mắt, như thể nàng nghĩ là anh đang tìm cách gạt nàng.
“Khi tôi đi đến gần thành phố, họ cứ gọi họ ảnh là Bunch thay vì Burch. Nhưng tôi chỉ nghĩ là họ gọi sai thôi. Hay có lẽ tôi nghe sai.”
“Thưa bà, phải đó,” anh nói. “Đúng như vầy nè: Bunch. Byron Bunch.” Anh nhìn nàng, chồng ván gỗ vẫn thăng bằng trên vai, nhìn thân hình căng ra của nàng, cái bụng nặng nề, nhìn đôi giày đàn ông nặng trịch lấm bụi đỏ ở chân nàng. “Bà có phải là bà Burch không?”
Nàng không trả lời tức khắc. Nàng đứng đó, ở ngay ngưỡng cửa, nhìn anh chằm chằm nhưng không hốt hoảng, vẫn với ánh mắt thản nhiên, chỉ hơi lúng túng, hơi nghi ngại. Đôi mắt nàng thì rất xanh màu biển. Nhưng chứa đựng một cảm giác mơ hồ là anh đang tìm cách gạt nàng. “Ở miệt dưới đó, trên đường tới đây, người ta biểu tôi là Lucas làm việc trong xưởng bào ở Jefferson. Rất nhiều người biểu tôi như vậy. Rồi tôi đến được Jefferson và người ta chỉ tôi đường đến xưởng bào, tôi hỏi quanh ở trong phố về Lucas Burch và người ta nói: ‘Có lẽ cô muốn hỏi tên Bunch chớ gì?’ rồi như vậy tôi cho là người ta biết sai họ ảnh, nhưng có vậy thì cũng không quan trọng gì. Ngay cả khi người ta biểu tôi rằng người mà họ muốn chỉ thì không phải da nâu. Không lẽ anh cũng nói anh không biết Lucas Burch ngoài này sao?”
Byron đặt gánh nặng trên vai xuống đất, sắp lại thành chồng ngay ngắn để sẵn sàng vác lại.
“Thưa bà, tôi không biết. Không phải ngoài này. Không có ai là Lucas Burch ở ngoài này. Tôi biết tất cả mọi người làm việc ở đây mà. Có thể ảnh làm đâu đó trong phố. Hay là ở một xưởng khác.”
“Bộ có một xưởng bào khác nữa sao?”
“Thưa bà, không có đâu. Nhưng lại có vài xưởng cưa, nhiều xưởng cưa là đằng khác.”
Nàng nhìn anh dò xét. “Ở miệt dưới đó, trên đường tới đây, người ta biểu tôi là ảnh làm việc ở xưởng bào mà.”
“Tôi không biết ai có họ đó ở đây,” Byron nói. “Tôi không nhớ ai có họ Burch, trừ tôi ra, và họ tôi lại là Bunch mà.”
Nàng cứ tiếp tục xem xét anh, vẻ mặt lộ ra không phải nỗi lo lắng cho tương lai mà đúng hơn là sự ngờ vực đối với hiện tại. Rồi nàng buông ra một tiếng thở. Đó không phải là tiếng thở dài: nàng đơn giản chỉ thở thật sâu và thật êm, một lần rồi thôi. “Được rồi,” nàng nói. Nàng quay nửa người, liếc nhìn xung quanh, nhìn những tấm gỗ đã cưa sẵn, những tấm ván thùng chồng lên nhau. “Chắc tôi phải ngồi xuống nghỉ một lát. Thiệt là mệt hết sức đi bộ trên mấy con đường thành thị này, cứng quá trời. Có vẻ như đi bộ trong phố xá làm tôi mệt hơn là cả quãng đường dài từ Alabama đến tận đây.” Nàng bước đến bên cạnh một chồng ván thấp.
“Chờ chút,” Byron nói. Anh vừa nhảy vọt tới, gần như thế, vừa bỏ miếng vải bố từ trên vai xuống. Người đàn bà chưa kịp ngồi thì anh vội vàng trải nó lên trên chồng ván đó. “Bà ngồi vậy êm hơn.”
“Ồ, anh thiệt tốt bụng.” Nàng ngồi xuống.
“Chắc là êm hơn chút đó chớ,” Byron nói. Anh móc túi lấy cái đồng hồ bằng bạc ra xem giờ; rồi anh cũng ngồi xuống, ở đầu bên kia chồng ván. “Tôi nghĩ rằng năm phút thì gần đúng đó.”
“Năm phút để nghỉ tay à?” nàng nói.
“Năm phút là từ khi bà vào đây. Có vẻ như tôi đã bắt đầu nghỉ tay rồi đó. Tối thứ bảy thì tôi tự chấm công lấy,” anh nói.
“Và mỗi lần anh ngưng làm một phút thì anh cũng tính à? Làm sao mà họ biết là anh ngừng chớ? Một vài phút, bộ cũng thành chuyện hay sao?”
“Tôi cho là người ta trả lương cho tôi đâu phải để ngồi không,” anh nói. “Vậy là bà đến từ Alabama?”
Bây giờ thì đến lượt nàng nói, ngồi tạm trên tấm đệm bằng vải bố, thân hình nặng nhọc, vẻ mặt bình thản và yên ả, và anh vừa nghe vừa nhìn nàng, cũng tỏ ra bình thản không kém. Nàng nói với anh nhiều hơn những gì nàng định bụng nói ra, giống như nàng đã làm với những khuôn mặt xa lạ mà nàng đã đi xa cùng họ suốt bốn tuần lễ với sự chậm rãi điềm nhiên của trời đất khi đổi mùa. Rồi Byron, đến phiên mình, từ từ thấy hiện ra hình ảnh của một cô gái trẻ bị phản bội và bỏ rơi thậm chí cũng không biết là mình đã bị bỏ rơi, và họ của nàng chưa phải là Burch.
“Không đâu, tôi không nghĩ là tôi biết anh ta,” cuối cùng anh nói. “Dù sao đi nữa, chỉ có mình tôi ở đây tối nay. Mọi người khác thì chắc đi xuống dưới kia xem đám cháy.” Anh chỉ cho nàng thấy cột khói vàng dựng thẳng trong bầu không khí đứng gió, phía trên những ngọn cây.
“Tụi tôi đã thấy nó khi ngồi trên xe la trước khi vào thành phố,” nàng nói. “Đám cháy chắc là to lắm.”
“Đó là một ngôi nhà xưa, nó bự lắm. Nó có đó từ lâu rồi. Không ai ở đó cả, trừ một người đàn bà, sống một mình. Tôi nghĩ, ngay đến tận bây giờ vẫn có nhiều người trong thành phố này gọi đó là trời hành, trời phạt. Cổ là người Yankee đó. Gia đình cổ đến định cư ở đây vào Thời kỳ Tái thiết, để khích động dân da đen. Hai người trong gia đình cổ bị giết khi làm chuyện đó. Người ta nói cổ vẫn còn giao du với tụi đen. Thăm viếng khi tụi nó đau ốm, như thể tụi nó là dân da trắng không bằng. Cổ không muốn thuê người nấu bếp bởi vì nếu vậy thì phải thuê một mụ da đen. Người ta nói cổ quả quyết là da đen hay da trắng đều cũng giống nhau thôi, đều cũng là con người cả. Chính vì lý do này mà người ta không bao giờ đặt chân đến nhà cổ. Trừ một...” Nàng vừa lắng tai nghe, vừa nhìn anh không rời mắt. Anh bây giờ không nhìn nàng, anh nhìn nghiêng chút xíu sang một bên. “Hay có lẽ hai đứa, theo những gì tôi nghe được. Tôi hy vọng tụi nó sẽ đến kịp để giúp cổ khiêng đồ đạc ra ngoài. Có lẽ tụi nó đã có mặt dưới đó rồi.”
“Tụi nó là ai mà có lẽ đã có mặt dưới đó rồi vậy?”
“Hai đứa cùng tên Joe ở đâu đó gần nhà cổ. Joe Christmas và Joe Brown.”
“Joe Christmas? Cái họ gì mà nghe mắc cười quá!”
“Thằng cha đó buồn cười lắm.” Anh lại nhìn nghiêng chút xíu sang một bên để tránh vẻ mặt chăm chú của nàng. “Tên làm chung với nó trông cũng lố bịch không thua gì. Brown. Nó cũng đã từng làm ở đây. Nhưng giờ thì đã bỏ đi, cả hai đứa nó. Và tôi cho là không ai thiệt mất cái lông chân vì vậy cả.”
Người đàn bà vẫn ngồi trên tấm đệm bằng vải bố, yên lặng và chăm chú. Tưởng chừng như cả hai người đang ngồi, vào một buổi chiều chủ nhật với bộ cánh đẹp nhất của mình, trong chiếc ghế bành bằng mây đặt trên mặt đất bằng phẳng có màu gỉ đồng, ngay đằng trước căn lều ở nông thôn. “Người bạn của anh ta cũng tên Joe phải không?”
“Thưa bà, đúng đó. Joe Brown. Tên họ thật của nó đó, có thể lắm chớ. Bởi vì, khi nghĩ đến ai đó có cái tên Joe Brown người ta liền hình dung ra một tên lẻo miệng lúc nào cũng cười nói oang oang. Vì vậy mà tôi tin đó là tên thật của nó, mặc dù Joe Brown thì không hiểu sao nghe có vẻ quá nhanh, quá dễ đối với một cái tên tự nhiên. Nhưng tôi nghĩ đúng là tên của nó. Bởi vì nếu chỉ làm bằng miệng không thôi thì bây giờ nó đã thành chủ nhân ông của cái xưởng này rồi. Vậy mà người ta có vẻ thích nó. Dù sao đi nữa, nó với thằng Christmas ăn ý với nhau lắm.”
Nàng nhìn anh chăm chăm. Khuôn mặt nàng vẫn bình thản nhưng bây giờ lại nghiêm trang, đôi mắt cũng nghiêm trang và chăm chú. “Anh ta và người kia làm gì?”
“Tôi cho rằng không có gì xấu cả. Ít ra thì tụi nó chưa bị tóm. Brown đã từng làm việc ít nhiều ở đây, mỗi khi nó không bận rộn cười giỡn và chọc phá người khác. Nhưng Christmas thì nghỉ việc. Hai đứa nó ở chung với nhau dưới kia, đâu đó dưới kia, gần cái nhà đang cháy đó. Và tôi cũng nghe chuyện tụi nó làm gì để kiếm sống. Nhưng đầu tiên, đó không phải là chuyện của tôi, và thứ hai là phần lớn chuyện người ta kể về người khác thường thì không đúng chút nào. Như vậy tôi nghĩ mình cũng không tốt hơn người khác đâu.”
Nàng nhìn anh chăm chăm. Thậm chí không chớp mắt. “Và một trong hai người đó nói họ của mình là Brown” Lẽ ra đây là một câu hỏi nhưng nàng không chờ đợi câu trả lời. “Anh còn nghe những chuyện đồn đại gì nữa mà người ta kể về những gì họ làm không?”
“Tôi không muốn làm hại ai cả,” Byron nói. “Tôi không nên nói nhiều như vậy. Sự thật là ai mà ngừng làm việc thì sớm rơi vào cảnh ‘nhàn cư vi bất thiện’ đó.”
“Người ta đồn đại chuyện gì?” nàng nói. Nàng vẫn ngồi yên. Giọng nàng thì điềm nhiên, nhưng Byron đã yêu nàng dù anh chưa biết chuyện này. Anh không nhìn nàng. Anh cảm thấy đôi mắt nghiêm trang, chăm chú của nàng đăm đăm nhìn khuôn mặt anh, nhìn miệng anh.
“Vài người quả quyết là hai đứa nó bán uýt-ki. Cất giấu rượu lậu ở chỗ cái nhà đang cháy đó. Rồi người ta cũng kể là Brown, vào một đêm thứ bảy say xỉn dưới phố, gần như nói ra oang oang chuyện gì đó mà đáng lẽ nó không nên nói ra: chuyện về nó và tên Christmas một đêm nọ ở Memphis, hay ở một con lộ tối tăm gần Memphis. Có dính dáng đến một khẩu súng lục trong việc này. Hay có lẽ hai khẩu. Song Christmas đã nhanh chóng bước đến, chặn họng Brown lại và kéo cổ nó đi. Dù sao đi nữa, có chuyện gì đó mà Christmas không muốn người khác biết, và ngay cả Brown, giá như không say thì đã tỉnh táo hơn để không kể ra. Đó là những gì tôi nghe được. Tôi đâu có mặt ở đó.”
Khi ngẩng đầu lên, anh nhận ra là mình đã nhìn xuống lần nữa ngay cả trước khi anh bắt gặp ánh mắt nàng. Anh dường như có linh cảm về cái gì đó giờ đây không thể vãn hồi được, cái gì đó không nên nhớ lại, anh đã tin trước đó là tại đây, một mình trong xưởng bào vào một buổi chiều thứ bảy, chắc anh đã không thể có cơ hội làm thương tổn hay gây hại cho bất cứ ai.
“Anh ta trông ra sao?” nàng nói.
“Christmas à? Tại sao -”
“Tôi có nói đến Christmas đâu.”
“Ồ, Brown. Được rồi. Cao to, trẻ tuổi. Ngăm ngăm đen; đàn bà thấy nó đẹp trai, nhiều bà thấy như vậy lắm, tôi nghe nói vậy. Một tên lúc nào cũng thích cười, thích đùa nghịch và ưa chọc ghẹo người khác. Nhưng tôi...” Giọng anh bỗng ngưng bặt. Anh không thể nhìn nàng, vì anh cảm thấy ánh nhìn chín chắn và vững vàng của nàng dán chặt vào khuôn mặt anh.
“Joe Brown,” nàng nói. “Có phải anh ta có một cái sẹo trắng nhỏ, ngay đây này, gần cái miệng không?”
Và anh không thể nhìn nàng, anh cứ ngồi đó, trên chồng ván, và bây giờ thì đã quá trễ, và bây giờ giá như anh cắn đứt cha cái lưỡi lẻo mép của mình cho rồi.