Chương 3
Từ cửa sổ phòng làm việc ông có thể nhìn ra đường. Con đường nằm không xa lắm, vì sân cỏ trước nhà không rộng. Cái sân cỏ đó thì nhỏ, trồng độ nửa tá cây phong lùn. Ngôi nhà, một cái “bơn-ghơ-lô” [27] khiêm tốn bằng gỗ nâu không sơn phết, thì cũng nhỏ. Những khóm cây hải đào, tử đinh hương và thục quỳ gần như che kín nó, chỉ để lại một khoảng trống nhờ qua đó ông quan sát con đường từ cửa sổ phòng làm việc. Ngôi nhà bị che kín đến nỗi ngọn đèn ở góc đường chỉ soi được nó lờ mờ.
Từ cửa sổ ông cũng có thể thấy cái tấm biển mà ông gọi là đài kỷ niệm của mình. Nó được cắm ở một góc sân, khá thấp, quay mặt ra ngoài đường. Dài chín tấc, cao bốn tấc rưỡi [28] - một hình chữ nhật gọn gàng, người đi ngoài đường thấy mặt phải, còn ông thì chỉ thấy mặt trái của nó. Nhưng ông không cần đọc nó, bởi vì một khi hiểu ra là ông phải bắt đầu kiếm tiền để ăn, mặc, sưởi ấm, ông đã chịu khó tự mình làm ra cái biển hiệu này với búa và cưa một cách kỹ lưỡng và ông đã sơn phết những chữ trên đó cũng kỹ lưỡng không kém, tuy thấy chán ngắt. Khi rời khỏi chủng viện, ông có một ít thu nhập được thừa kế từ người cha. Và ngay từ khi nhận được ngôi nhà thờ dành cho mình, ông bắt đầu gửi tặng toàn bộ số tiền mình nhận được mỗi ba tháng đó đến một cơ sở từ thiện chuyên chăm lo những cô gái trẻ phạm pháp ở Memphis. Rồi ông bị đuổi ra khỏi ngôi nhà thờ của mình, bị đuổi ra khỏi giáo hội, và điều cay đắng nhất mà ông chưa hề chịu đựng trước đó, theo ý ông, - thậm chí cay đắng hơn sự cách chức và nỗi ô nhục - là lá thư mà ông viết để báo tin là từ nay về sau ông chỉ có thể gửi cho họ một nửa số tiền mà ông từng gửi trước đây.
Vậy là ông tiếp tục chia sẻ với họ số lợi tức mà nếu không gởi thì nó cũng chỉ vừa đủ cho ông sống. “May sao là còn có những việc mà mình có thể làm được,” ông nói vào lúc đó. Vì vậy mà có cái tấm biển gỗ này do ông tự tay đóng cẩn thận và tự tay ông tạo chữ bằng những mảnh thủy tinh vỡ vụn khéo léo trộn với nước sơn để mà vào ban đêm, khi ngọn đèn ở góc đường chiếu lên tấm biển thì các hàng chữ lấp lánh sáng gợi lên hình ảnh lễ Giáng sinh:
Rev. [29] Gail Hightower, D.D. [30]
Nhận dạy vẽ, nhạc
Làm thiệp Giáng sinh & Sinh nhật vẽ bằng tay
Tráng, in ảnh
***
Nhưng thời đó đã lâu lắm rồi, ông chẳng bao giờ có được một học viên nghệ thuật nào và có rất ít thiệp Giáng sinh hay tấm kính ảnh; lớp sơn và vụn kính đã bị tróc khỏi những hàng chữ phai màu. Tuy nhiên người ta vẫn còn đọc được, nhưng cũng giống như chính Hightower, ít ai trong đám dân phố cần đọc nó làm gì nữa. Tuy vậy, thỉnh thoảng vẫn có một mụ vú da đen với những đứa con nít da trắng của mụ dừng chân trước tấm biển và to tiếng đánh vần các từ, với vẻ ngu ngốc và trống rỗng của loại người rảnh rỗi và dốt nát như mụ. Đôi khi một người lạ mặt xuất hiện trên con đường yên tĩnh, xa xôi, không lát đá và ít người qua lại này, ngừng bước và đọc tấm biển rồi ngước mắt nhìn ngôi nhà nhỏ, màu nâu và gần như bị che kín rồi tiếp tục đi; và năm thì mười họa người lạ mặt đó nói đến tấm biển với vài người quen biết trong phố. “Đúng rồi đó,” người bạn nói. “Hightower. Hắn sống một mình ở đó. Hắn đến sinh sống ở đây như là mục sư của giáo hội Trưởng lão [31] nhưng con vợ hắn đã chơi xỏ hắn một vố nặng. Nàng ta thỉnh thoảng lẻn đi Memphis để vui chơi thỏa thích. Nói vậy chứ cũng hai mươi lăm năm rồi đó, ngay sau khi hắn dọn đến đây. Vài người quả quyết rằng hắn biết chuyện chứ không đâu, rằng chính hắn không thể hay không muốn thỏa mãn con vợ, và rằng hắn biết chuyện nàng ta làm. Rồi vào một đêm thứ bảy nàng ta bị giết, trong một ngôi nhà hay đâu đó, ở Memphis. Báo chí đăng đầy chuyện này. Hắn bị buộc phải rời bỏ ngôi nhà thờ của mình, nhưng vì lý do nào đó, hắn không muốn đi khỏi Jefferson đây. Người ta đã thử ép hắn ra đi, vì lợi ích của riêng hắn cũng như của thành phố và giáo hội. Thật tình thì chẳng dễ chịu gì cho giáo hội đâu, bạn thấy đấy, khi có nhiều người ở xa đến đây và nghe ra chuyện này và chuyện hắn không chịu ra đi. Hắn muốn ở lại thành phố. Và từ đó đến nay hắn sống dưới đó, một thân một mình, tại cái nơi mà trước kia là con đường chính. Giờ thì nó không còn là đường chính nữa, vậy là được lắm rồi. Nhưng rồi thì hắn không còn làm phiền ai nữa, và tôi tin là người ta phần lớn đã quên hắn. Hắn tự làm việc nhà lấy. Tôi tin là chẳng có ma nào đặt chân vào trong nhà đó từ hai mươi lăm năm nay. Người ta không biết tại sao hắn cứ ở lì đó. Nhưng nếu bạn đi ngang đó, bất cứ ngày nào, vào lúc chạng vạng hay khi đêm xuống, bạn có thể thấy hắn ngồi bên cửa sổ. Chỉ ngồi đó thôi, tuyệt không làm gì khác. Phần thời gian còn lại, người ta hầu như không thấy hắn bao giờ, trừ đôi lần hắn làm việc trong vườn nhà.”
Như vậy, tấm biển mà ông đóng và vẽ chữ thì đối với ông còn có ít ý nghĩa hơn là đối với thành phố; ông không còn ý thức về nó như một tấm biển, như một lời truyền đạt. Ông quên bẵng nó cho đến khi ông ngồi vào chỗ bên cửa sổ phòng làm việc, khi đêm xuống. Lúc đó, nó chỉ là một hình dạng chữ nhật, quen thuộc và hoàn toàn vô nghĩa, được đặt thấp ở một đầu sân cỏ hẹp nằm sát đường. Nó cũng hẳn là có thể mọc ra từ lòng đất bi thảm và tất yếu, giống như những cây bụi và cây phong có nhánh trải thấp mà ông không ngăn cản hay chăm bón cho chúng nảy nở. Thậm chí ông không nhìn nó nữa, như ông thực sự không thấy cây cối phía dưới khi chăm chú nhìn ra đường xuyên qua chúng, chờ đêm tới, chờ cái thời điểm chính xác mà màn đêm buông xuống. Ngôi nhà, phòng làm việc đều tối sau lưng ông, và ông đang đợi cái khoảnh khắc mà mọi ánh sáng trong bầu trời đều biến mất và trời sụp tối ngoại trừ cái ánh sáng lờ mờ mà cỏ cây còn giữ lại và lưu luyến chia tay, làm mặt đất còn sáng chút ít dù đêm đã đến đủ đầy. Bây giờ, trong chốc lát thôi , ông nghĩ; trong chốc lát thôi, bây giờ. Ông không nói, ngay cả với chính mình: “Ở đó vẫn còn một chút danh dự và lòng tự trọng, một chút cuộc đời.”
***
Khi Byron Bunch, bảy năm trước đây, lần đầu đến Jefferson và thấy tấm biển nhỏ Gail Hightower D.D. Nhận dạy vẽ, nhạc Làm thiệp Giáng sinh & Sinh nhật vẽ bằng tay Tráng, in ảnh anh nghĩ, ‘D.D. là cái gì vậy cà, D.D.?” và anh đi hỏi và người ta bảo anh nó có nghĩa là Done Damned [32] . Gail Hightower D.D. ít ra là bị đọa đày ở Jefferson rồi, họ nói với anh. Và họ cũng nói rằng Hightower đã đến thẳng Jefferson từ chủng viện, sau khi từ chối tất cả những sự bổ nhiệm khác; rằng ông đã đi chạy chọt khắp nơi để được gởi đến Jefferson. Ông đến đây với cô vợ trẻ, mặt mũi lộ vẻ phấn khích ngay từ khi bước xuống tàu lửa, mở miệng chào hỏi, nói với những lão ông, lão bà, tức những cột trụ của ngôi giáo đường của ông, là ông đã hết lòng chọn Jefferson ngay từ đầu, ngay lần đầu tiên ông quyết định trở thành mục sư; và kể với họ, với một thứ gì giống như niềm vui sướng, về những lá thư ông đã viết và những nỗi lo lắng ông đã trải qua và những ảnh hưởng ông đã sử dụng để được bổ nhiệm đến Jefferson. Đối với dân chúng trong thành phố, chuyện này nghe ra giống như tên lái ngựa tỏ lòng vui sướng khi thấy có lời to trong một chuyến buôn. Có lẽ đây là điều mà các trưởng lão của nhà thờ cảm thấy lúc đó. Họ đã lắng nghe ông với chút gì đó lạnh nhạt, ngạc nhiên và nghi ngại bởi vì ông có vẻ bận tâm trước hết đến chuyện sống ở thành phố này hơn là đến nhà thờ và các con chiên mà ông muốn phục vụ. Như thể ông không quan tâm đến những con người, những con người đang sống đây, như thể ông không muốn biết đến việc họ có muốn ông giữ chức vụ này hay không. Hơn nữa, ông thì cũng trẻ và các lão ông, lão bà đã thử làm dịu bớt sự phấn khích vui sướng của ông bằng cách đề cập đến những vấn đề nghiêm trọng và trách nhiệm của nhà thờ và những trách nhiệm của riêng ông. Và họ tiếp tục kể với Byron rằng, dù sáu tháng đã qua, ông mục sư trẻ vẫn còn phấn khích, vẫn còn nói về cuộc Nội chiến và ông nội của mình, một sĩ quan kỵ binh đã tử trận, và về những kho tiếp liệu của tướng Grant [33] đã bốc cháy ở Jefferson, vẫn phát ngôn một cách ngông cuồng đến mức lời nói của ông chẳng còn nghĩa lý gì. Họ kể với Byron rằng khi đứng trên bục giảng, ông dường như cũng ăn nói kiểu đó, cũng bạt mạng không kém, nói chuyện đạo y như nói chuyện nằm mộng. Không phải là cơn mộng dữ đâu, nhưng là cái gì đó đi nhanh hơn những lời trong Kinh thánh, một thứ gió xoáy, nó thậm chí không cần chạm đến mặt đất. Và các lão ông, lão bà thì cũng chẳng ưa điều này chút nào.
Như thể, ngay cả trên bục giảng đạo, ông không đủ sức tách rời đạo giáo với sự xung phong của đoàn kỵ binh và ông nội đã chết, bị giết trên lưng ngựa phi nước đại. Và có lẽ ở nhà, ông cũng không thể phân biệt những chuyện này trong cuộc sống riêng tư của mình. Có lẽ ở nhà ông cũng chẳng thèm phân biệt làm gì, Byron nghĩ, trong khi anh đang nghĩ đó là cách thức mà cánh đàn ông cư xử với những người đàn bà thuộc về họ, và đó là lý do tại sao đàn bà phải tỏ ra mạnh mẽ và người ta không nên khiển trách họ về những gì họ làm với đàn ông, cho đàn ông và vì đàn ông, bởi vì Chúa biết rõ rằng làm vợ một người nào đó không phải là điều đơn giản. Họ kể với anh rằng người vợ của ông mục sư là một cô gái nhỏ nhắn, trông có vẻ trầm lặng, thoạt đầu gây ra cảm tưởng nơi thành phố là cô chẳng có gì đáng chú ý. Và thành phố nói rằng, giá như Hightower là loại người đáng tin cậy hơn, loại người mà một mục sư đúng ra phải là như vậy, thay vì được sinh ra khoảng ba mươi năm sau cái ngày duy nhất mà ông dường như đã sống thực sự - cái ngày mà ông nội của mình bị bắn chết trên lưng ngựa phi nước đại - thì cô hẳn đã là người tốt rồi. Nhưng ông không phải loại người đó, và các ông bà hàng xóm đã nghe cô khóc trong căn nhà riêng dành cho mục sư trong đêm khuya hay vào buổi chiều, và các người hàng xóm này biết là ông mục sư chẳng thể làm gì được về việc này bởi vì ông không biết đâu là chỗ sai, chỗ trái. Đôi khi, thậm chí ngày chủ nhật, cô không đi nhà thờ, nơi mà chồng cô giảng đạo, và người ta nhìn ông và tự hỏi không biết ông có nhận ra là vợ mình vắng mặt không, không biết ông có quên là mình có một người vợ không, một khi đứng trên cao đó, trên bục giảng, với hai bàn tay lượn đi lượn lại xung quanh mình; và các tín điều mà ông có nhiệm vụ rao giảng thì đầy những cuộc xung kích của kỵ binh, những cuộc bại trận và những nỗi vinh quang. Và cũng y chang như vậy khi ông ráng sức kể cho họ nghe, ở ngoài đường, những con ngựa phi nước đại khi tiến công thì câu chuyện của ông lại pha trộn với sự xá tội và các dàn đồng ca của những thiên thần thượng đẳng hiếu chiến. Đến nỗi mà, thì cũng tất nhiên thôi, các vị trưởng lão của nhà thờ tin rằng những gì ông rao giảng trong chính ngôi nhà của Chúa, vào chính ngày của Chúa, thì tiến quá gần sự phạm thánh.
Và họ kể với Byron rằng sau một năm ở Jefferson, cô vợ bắt đầu mang vẻ mặt đông cứng, và khi các quý bà trong giáo xứ đến gặp Hightower, chỉ một mình ông tiếp họ, mặc độc cái áo sơ-mi, không mang cổ cồn, dáng điệu thì bồn chồn, và trong một lúc ông thậm chí có vẻ không hiểu mục đích của cuộc gặp gỡ và ông phải làm gì đây. Ông mời họ vào, mở miệng xin lỗi rồi biến mất. Và họ không nghe một tiếng động nào đến từ bất cứ nơi nào trong nhà, họ ngồi đó, trong bộ cánh dành cho ngày chủ nhật, đưa mắt nhìn lẫn nhau hay nhìn quanh phòng, lắng tai nhưng chẳng nghe gì cả. Rồi ông trở lại, lần này thì mặc áo choàng và cổ cồn, ngồi xuống và chuyện trò về nhà thờ và những người bệnh, và họ trò chuyện, trả lời ông một cách hoạt bát và điềm tĩnh, nhưng họ lúc nào cũng lắng tai để nghe cái gì đó, có lẽ cũng để mắt coi chừng cửa ra vào, và có lẽ tự hỏi ông có biết những chuyện mà họ tin là họ đã biết không.
Các quý bà này ngừng hẳn việc lui tới nhà ông. Chẳng mấy chốc, họ thậm chí không còn thấy cô vợ của ông mục sư ở ngoài phố nữa. Và ông cứ xử sự như thể mọi việc đều ổn cả. Rồi, cô bắt đầu vắng mặt một hay hai ngày. Người ta thấy cô lên chuyến tàu sớm buổi sáng, khuôn mặt bắt đầu gầy đi, hốc hác hẳn ra như thể cô không bao giờ ăn uống đầy đủ, và vẫn mang cái vẻ đông cứng như thể cô không thấy những gì mà cô nhìn đến. Và ông mục sư nói là cô đi thăm gia đình ở đâu đó dưới miền Nam của tiểu bang, cho tới một ngày kia, vào một trong những lần vắng mặt của cô, có mụ đàn bà ở Jefferson đi mua sắm ở Memphis bất chợt nhận ra cô đang vội vã đi vào một khách sạn. Đó là một ngày thứ bảy, mụ đàn bà nọ quay về nhà và kể ra chuyện này. Tuy vậy, ngày hôm sau Hightower vẫn lên bục giảng, thao thao bất tuyệt về đạo giáo trộn lẫn lần nữa với những đợt xung phong của kỵ binh, và cô vợ trở về ngày thứ hai, rồi ngày chủ nhật tiếp đó thì cô lại đến dự lễ ở nhà thờ, lần đầu tiên sau sáu hay bảy tháng, ngồi một mình ở hàng ghế cuối. Sau đó, cô đến nhà thờ đều đặn mỗi chủ nhật, trong một thời gian. Rồi cô lại bỏ đi, lần này vào giữa tuần (khi đó vào tháng bảy và trời rất nóng), và Hightower nói là cô đi thăm gia đình lần nữa, ở vùng quê trời mát; các lão ông, tức là các trưởng lão của nhà thờ, và các lão bà quan sát ông đều đều nhưng họ không biết ông có tin vào những gì ông nói hay không, và đám trẻ thì mở miệng xì xào sau lưng ông.
Nhưng họ đã không thể nói chắc là chính ông có tin hay không vào những điều ông kể ra với họ, là ông có quan tâm hay không, với cái thói quen pha lẫn chuyện đạo giáo với chuyện ông nội của mình bị bắn chết trên lưng ngựa phi nước đại, như thể hạt giống mà ông nội truyền cho ông cũng ở trên lưng ngựa, vào cái đêm đó, cũng bị giết chết; và thời gian thì ngưng lại ngay ở chỗ đó, vào lúc đó đối với cái hạt giống đó; và như thể từ thời điểm đó thì vẫn không có gì nảy sinh trong thời gian, ngay cả chính ông.
Cô vợ trở về trước ngày chủ nhật. Trời thì nóng bức. Các người già bảo rằng thành phố chưa bao giờ chịu đựng một đợt nóng khủng khiếp như vậy. Cô đến nhà thờ dự lễ ngày chủ nhật và ngồi ở hàng ghế cuối, một mình. Rồi ngay giữa bài thuyết giáo, cô đứng bật dậy và bắt đầu gào thét, và vừa khoa tay, vừa hét lên cái gì đó về phía bục giảng, nơi mà chồng cô đã ngừng nói, người khom ra đằng trước, bất động, hai bàn tay còn ở giữa khoảng không. Vài người ngồi gần tìm cách giữ chặt cô lại nhưng cô vùng vẫy chống cự, và người ta kể lại với Byron là cô bây giờ đứng ở gian giữa của nhà thờ, miệng hét, tay vung về phía bục giảng, nơi mà chồng cô khom người, bàn tay còn trên cao, bộ mặt hốt hoảng, đông cứng theo hình dạng của đoạn ngụ ngôn vang như sấm mà ông đã không thể kể xong. Họ không biết cô vung tay nhắm vào người chồng hay vào Chúa. Rồi ông bước xuống, đến gần vợ và cô ngừng giãy giụa và ông đưa cô ra ngoài. Tất cả những cái đầu đều quay nhìn khi hai người đi ngang, cho đến khi viên giám thị nhà thờ bảo người nhạc công đàn ống đánh đàn lên. Ngay chiều hôm đó, các trưởng lão nhà thờ họp kín. Người ta không bao giờ biết chuyện gì xảy ra trong phòng họp, nhưng Hightower trở lại, đi vào phòng áo lễ và cũng đóng kín cánh cửa sau lưng mình.
Nhưng người ta không biết chuyện gì đã xảy ra. Họ chỉ biết là nhà thờ đã trích ra một số tiền để gởi cô vợ đến một cơ sở từ thiện, một viện điều dưỡng, và chính Hightower đã đưa vợ đi đến đó rồi quay về và giảng đạo vào ngày chủ nhật tiếp theo, như thường lệ. Những bà, những cô hàng xóm, một vài người trong bọn họ đã không đặt chân vào nhà thờ từ nhiều tháng nay, lại tỏ ra tử tế với ông, thỉnh thoảng mang các món ăn nấu sẵn cho ông, kể cho nhau hay kể lại với chồng là căn nhà dành cho ông mục sư thì bừa bãi quá cỡ và ông có vẻ ăn uống như con thú - chỉ ăn khi nào thấy đói và chỉ ăn những gì có thể tìm ra. Mỗi hai tuần ông đi thăm vợ ở viện điều dưỡng nhưng ông bao giờ cũng quay về sau một hay hai hôm; và ngày chủ nhật ông vẫn lên lại bục giảng, như thể toàn bộ sự việc đã không hề xảy ra. Dễ thương và tò mò, nhiều người hỏi thăm sức khỏe cô vợ, và ông cám ơn họ. Rồi, ngày chủ nhật, lại đứng trên bục giảng, với những điệu bộ lộn xộn tùy hứng, với giọng nói hoang dại đầy đam mê, ông oang oang trộn lẫn, giống như những bóng ma, nào Chúa và sự cứu rỗi, nào ông nội đã chết và đoàn ngựa phi nước đại trong khi ở bên dưới các trưởng lão và đám giáo dân ngồi nghe, hoang mang và bất bình. Vào mùa thu, cô vợ trở lại nhà. Cô trông khỏe mạnh hơn. Mập ra chút đỉnh. Cô thậm chí còn thay đổi sâu sắc hơn thế. Có lẽ là hiện giờ cô có vẻ bị kiềm chế, hay ít ra là tỉnh thức. Dù sao, cô giờ đây giống như người mà các quý bà đã muốn cô luôn luôn là như vậy, như họ tin rằng một người vợ mục sư phải là như vậy. Cô đều đặn đi lễ nhà thờ, dự những buổi cầu nguyện, và các quý bà thăm viếng cô và cô thăm viếng họ, ngồi im lặng và khiêm tốn ngay cả trong nhà mình trong khi họ chỉ bảo cô làm sao chăm sóc nhà cửa, mặc áo quần gì, nấu món gì cho chồng ăn.
Người ta thậm chí có thể nói là họ đã tha thứ cho cô. Không tội ác nào, không một vi phạm nào thực sự được nêu ra, và không một hình phạt nào thực sự được áp dụng. Nhưng thành phố không tin rằng các quý bà đã quên những chuyến đi bí ẩn trước đây, nơi đến là Memphis, và với mục đích gì thì ai ai cũng đồng ý dễ dàng. Tuy nhiên, không ai hé miệng nói ra bao giờ, không hề oang oang cho đầu hè cuối ngõ cùng nghe, bởi vì thành phố tin rằng những người đàn bà đứng đắn không dễ dàng quên chuyện này, chuyện nọ đâu, dù xấu hay tốt, vì sợ rằng sự nếm trải và hương vị của lòng tha thứ sẽ biến mất khỏi vòm miệng của lương tâm họ. Bởi vì thành phố tin rằng các quý bà biết rõ sự thật, bởi vì nó cũng tin rằng những người đàn bà phạm tội có thể để mình lầm lạc về mặt tội lỗi, vì họ phải tiêu tốn một số thời gian để tìm cách tránh gây ra ngờ vực, trong khi những người đàn bà đứng đắn thì ngược lại, họ không thể lầm lạc, vì chính mình đã là người đứng đắn rồi thì họ không phải lo ngại về sự đứng đắn của mình hay của bất cứ ai khác; vì vậy mà họ có dư thì giờ để đánh hơi tội lỗi. Cho nên, người ta nghĩ, cái tốt hầu như lúc nào cũng có thể đánh lừa họ bằng cách làm cho họ tin nó là cái xấu, nhưng chính cái xấu thì không thể đánh lừa họ. Như vậy, sau bốn hay năm tháng, khi cô vợ vắng mặt lần nữa và người chồng lặp lại là cô đi thăm gia đình, thành phố tin rằng lần này thì ngay cả ông cũng không còn bị lừa. Dù sao đi nữa, cô trở về và ông tiếp tục giảng đạo mỗi ngày chủ nhật cứ như chẳng có chuyện gì xảy ra, ông vẫn đi thăm viếng người này, kẻ nọ và các bệnh nhân, và vẫn nói về nhà thờ của mình. Nhưng cô vợ không còn đi nhà thờ nữa, và chẳng mấy chốc các quý bà ngừng đến thăm cô, ngừng đến hẳn căn nhà của mục sư. Và cả đến những người hàng xóm hai bên cũng không thấy cô chung quanh nhà. Chẳng bao lâu thì như thể cô không còn ở đó nữa, như thể mọi người đều đồng tình là cô không còn ở đó nữa, là ông mục sư đã không hề có vợ. Và ông vẫn giảng đạo cho họ vào mỗi chủ nhật, ông thậm chí không còn bảo họ là cô vợ đã đi thăm gia đình ở xa. Có lẽ ông vui về chuyện này, thành phố nghĩ. Có lẽ ông vui vì không phải nói láo nữa.
Vậy là không ai thấy khi cô lên tàu lửa vào ngày thứ sáu đó, hay có lẽ thứ bảy, ngày của biến cố. Chính tờ báo sáng chủ nhật mà họ đọc, nó đưa tin là trong đêm thứ bảy, cô đã nhảy, hay ngã xuống, từ cửa sổ một khách sạn ở Memphis, và cô đã chết. Và có một người đàn ông trong phòng với cô. Hắn bị bắt. Hắn say xỉn. Hai người đã đăng ký với khách sạn như vợ chồng, dưới tên giả. Cảnh sát đã tìm ra tên thật của cô được viết trên một mảnh giấy mà cô đã xé sau đó và ném vào sọt rác. Các tờ báo in đầy đủ tên cô cùng với câu chuyện: vợ của mục sư Gail Hightower, ở Jefferson, bang Mississippi. Theo câu chuyện thì tờ báo đã điện thoại cho ông chồng lúc hai giờ sáng và ông này trả lời là mình chẳng có gì để nói. Và khi các giáo dân đến nhà thờ vào sáng chủ nhật đó thì thấy trong sân đầy các phóng viên đến từ Memphis đang chụp ảnh ngôi nhà thờ và căn nhà dành cho mục sư. Rồi Hightower đến. Các phóng viên tìm cách chặn ông lại nhưng ông đi xuyên qua họ, vào thẳng trong nhà thờ, bước lên bục giảng. Những lão bà và một vài lão ông đã có mặt trong nhà thờ tỏ ra khiếp sợ và phẫn nộ, không phải vì chuyện xảy ra ở Memphis mà vì sự hiện diện của đám phóng viên. Nhưng khi Hightower vào và thực sự leo lên bục giảng, họ thậm chí không còn nghĩ đến đám phóng viên nữa. Các bà đứng dậy đầu tiên và bắt đầu bỏ đi. Rồi các ông cũng đứng dậy, và rồi nhà thờ không còn ai, ngoại trừ ông mục sư trên bục giảng, hơi nghiêng người về phía trước, hai bàn tay chống hai bên cuốn Kinh thánh đã mở, đầu giữ thẳng, và các phóng viên Memphis (họ đã theo ông vào bên trong nhà thờ) thì ngồi ngay hàng ở chiếc ghế dài cuối cùng. Họ nói là ông không nhìn các con chiên của mình bỏ đi. Ông không nhìn cái gì cả.
Người ta kể cho Byron tất cả mấy chuyện đó: cuối cùng ông mục sư cẩn trọng gập cuốn Kinh thánh lại, và bước xuống, đi dọc theo gian vách của ngôi nhà thờ giờ đây trống vắng, mắt không một lần nhìn đến đám phóng viên đang ngồi, giống như các con chiên đã ngồi trước đó, và ra khỏi cửa. Ở bên ngoài, các tên chụp ảnh đang chờ ông, sẵn sàng với máy ảnh đã mở, đầu họ đã trùm vải đen. Ông mục sư rõ ràng là đã nghĩ đến chuyện này, bởi vì ông bước ra khỏi nhà thờ với một cuốn thánh ca mở sẵn che ngang mặt. Nhưng đám chụp ảnh rõ ràng cũng nghĩ đến chuyện này, bởi vì họ qua mặt được ông. Chắc là ông không quen với trò này vì vậy ông bị qua mặt dễ dàng, người ta kể với Byron. Một trong những người chụp ảnh đã đặt máy ảnh ở một bên, và ông mục sư không thấy nó chút nào, hay thấy quá trễ. Ông đã che mặt mình đối với cái máy ảnh đằng trước thôi, và ngày hôm sau xuất hiện trên báo tấm ảnh chụp nghiêng, cho thấy ông đang bước, tay cầm cuốn thánh ca che mặt. Và, đằng sau cuốn đó, đôi môi ông hếch lên như thể ông đang mỉm cười. Nhưng hai hàm răng nghiến lại và bộ mặt ông trông giống như bộ mặt của Sa-tăng [34] trong các bức tranh khắc cổ. Ngày hôm sau ông mang vợ về chôn cất. Thành phố đến dự buổi lễ. Nhưng nó không phải là một tang lễ. Ông không mang xác vợ đến nhà thờ. Ông đem thẳng ra nghĩa địa và khi ông đang chuẩn bị cho chính mình đọc từ cuốn Kinh thánh thì một mục sư khác đến gần và giật nó từ tay ông. Rất nhiều người, nhất là những thanh niên nam nữ, ở lại lặng ngắm ngôi mộ sau khi ông bỏ đi cùng những người khác.
Sau đó, ngay cả những con chiên của những giáo phái khác cũng biết là các trưởng lão của ông đã yêu cầu ông từ chức, và ông không chấp thuận. Ngày chủ nhật tiếp theo, rất nhiều người từ các giáo phái khác đến nhà thờ ông để xem chuyện gì xảy ra. Ông đến và đi vào nhà thờ. Cả giáo đoàn đồng loạt đứng lên như một người và đi ra, bỏ lại ông mục sư và những người thuộc các giáo phái khác đã đến đây như thể đến xem một cuộc biểu diễn. Thế là ông giảng đạo cho họ, như ông từng giảng đạo xưa nay, với sự hăng hái say mê mà người ta đánh giá là phạm thánh và những con chiên các giáo phái khác cho là hoàn toàn mất trí.
Ông không chấp nhận từ chức. Các trưởng lão yêu cầu hội đồng chủ giáo gọi ông về. Nhưng sau câu chuyện đó, sau các tấm ảnh trên báo và mọi thứ khác, không một thành phố nào khác muốn nhận ông về. Mọi người đều khăng khăng là họ không có gì chống cá nhân ông cả. Ông không được may mắn, thế thôi. Ông sinh ra dưới một ngôi sao xấu, thế thôi. Và người ta ngừng đến nhà thờ, ngay cả những người của các giáo phái khác lúc trước có đến một thời gian vì tò mò: giờ đây ông không còn là cuộc biểu diễn nữa; giờ đây ông chỉ còn là một sự xúc phạm. Nhưng, vào mỗi sáng chủ nhật, đúng giờ giấc như trước, ông vẫn đến nhà thờ, và bước lên bục giảng, và cả giáo đoàn đồng loạt đứng dậy và bỏ đi ra, và những kẻ ăn không ngồi rồi và đồng bọn tụ tập trên khúc đường bên ngoài nhà thờ và lắng nghe ông giảng đạo và cầu nguyện trong ngôi giáo đường trống không của mình. Rồi vào sáng chủ nhật sau đó, khi ông đến thì cánh cửa ra vào đã bị đóng chặt, và những kẻ rỗi hơi thấy ông tìm cách mở nó rồi bỏ cuộc, nhưng ông vẫn đứng đó, đầu không cúi xuống, ngoài đường thì đầy bọn người chẳng bao giờ đi lễ nhà thờ và đám con nít không biết chính xác chuyện gì xảy ra nhưng cảm thấy là có chuyện gì đó, dừng lại và mở to mắt nhìn người đàn ông đang đứng gần như bất động trước cánh cửa đóng kín. Ngày hôm sau thành phố nghe tin là ông đã đi gặp các trưởng lão và thuận tình từ chức, vì lợi ích của giáo hội.
Rồi thành phố lúc đó thấy tiếc là đã tỏ ra hả hê, giống như có những người thỉnh thoảng lại thấy thương xót cho những kẻ mà họ đã ép buộc làm theo ý họ. Tất nhiên, người ta nghĩ là giờ đây ông sẽ bỏ đi, và giáo hội đã xuất ra một số tiền để ông ra đi định cư ở nơi khác. Nhưng ông không chịu rời thành phố. Họ kể cho Byron nghe là thành phố tỏ ra sững sờ, hơn cả bất bình nữa, khi họ biết được là ông đã mua một căn nhà nhỏ trên một con đường hẹp trong một khu phố nghèo mà ông ở hiện nay và bao giờ cũng ở đó từ dạo ấy tới nay; và các trưởng lão lại nhóm họp lần nữa vì các vị này nói là họ đã cho ông tiền để đi nơi khác, và việc ông đã nhận rồi tiêu xài số tiền đó vào chuyện khác là một sự lạm dụng tín nhiệm. Họ đến gặp ông và bảo ông như vậy. Ông xin lỗi vắng mặt một chút; rồi ông trở lại phòng với số tiền, cũng y chang những tờ bạc, và chính xác tới từng xen , mà họ đã cho ông trước đó, và ông cố nài họ lấy lại. Nhưng họ từ chối, và ông không nói ra ông đã lấy tiền ở đâu để mua nhà. Vậy là ngày hôm sau, người ta kể với Byron, có người nói là ông trước đó đã mua bảo hiểm nhân thọ cho cô vợ và rồi ông đã thuê ai đó giết cô. Nhưng mọi người đều biết chuyện này là không có thật, kể cả những kẻ đã phao hay lập lại tin này và những kẻ đã lắng nghe khi nó được kể.
Ông cứ trụ lại thành phố. Rồi một ngày kia người ta thấy tấm biển nhỏ mà chính ông đã làm ra và sơn phết và đặt ở bãi cỏ trước nhà, và họ hiểu là ông đã quyết định không đi đâu nữa. Ông vẫn giữ lại người bếp, một mụ da đen. Mụ nấu ăn cho ông từ trước đến nay. Nhưng họ kể cho Byron nghe là ngay khi vợ ông vừa chết, người ta hình như bỗng dưng nhận ra mụ đen đó là đàn bà, và ông có mụ một mình suốt ngày trong nhà với ông. Và cô vợ nằm chưa lạnh chỗ trong nấm mồ ô nhục đó thì những lời đồn bắt đầu: ông đã đẩy vợ mình vào con đường hư hỏng và cuối cùng tự sát bởi vì ông không phải là một người chồng bình thường, một đàn ông bình thường, và chính mụ da đen đó là nguyên do. Vậy là đâu cần phải thêm thắt gì nữa; chỉ thiếu độc chuyện đó thôi. Byron vừa im lặng lắng nghe, vừa nghĩ trong đầu là con người khắp nơi đều giống nhau, nhưng dường như ở thành phố nhỏ, nơi mà người ta khó phạm điều ác hơn, nơi mà đời sống riêng tư dễ bị soi mói hơn, thì người ta lại có thể bịa đặt nhiều chuyện hơn về kẻ nọ, người kia. Và đâu cần thêm thắt gì nữa: chỉ cái ý đó, chỉ cái lời nói vu vơ độc nhất đó, truyền từ đầu người này sang đầu người khác. Rồi một ngày nọ, mụ bếp bỏ đi. Người ta nghe đồn là một nhóm người chỉ bịt mặt qua loa đến nhà ông mục sư và ra lệnh ông phải đuổi việc mụ. Rồi họ nghe là ngày hôm sau, mụ kể là mụ tự ý bỏ đi vì ông chủ đòi mụ làm điều gì đó mà mụ nói là trái với Chúa và trái với tự nhiên. Và người ta quả quyết là những kẻ bịt mặt đó đã làm mụ khiếp sợ để mụ phải ra đi, bởi vì mụ được biết đến như người có màu da nâu sáng [35] ; và người ta biết là có hai hay ba người trong thành phố phản đối mụ làm bất cứ việc gì mà mụ cho là nghịch lại với Chúa và tự nhiên [36] , bởi vì, như vài người trẻ hơn nói, nếu một mụ đàn bà da đen cho việc đó là trái với Chúa và tự nhiên thì việc đó hẳn là khá tồi tệ. Dù gì đi nữa, ông mục sư đã không thể hay không muốn thuê người đàn bà nào khác nấu bếp. Có thể là cùng đêm đó, những kẻ bịt mặt đã làm khiếp sợ tất cả đàn bà da đen khác trong thành phố. Vậy là ông tự nấu ăn lấy trong một thời gian cho tới một ngày kia họ nghe là có một tên da đen, đực rựa, nấu bếp cho ông. Ôi, đến thế là cùng! Bởi vì ngay tối đó, vài tên đàn ông, lần này chẳng thèm bịt mặt, đến bắt tên da đen ra khỏi nhà và dùng roi dần cho nó một trận nhừ tử. Và khi Hightower thức dậy sáng hôm sau thì thấy cửa sổ phòng làm việc bị đập bể, trên sàn nhà có một cục gạch dằn một mảnh giấy với hàng chữ ra lệnh ông phải rời khỏi thành phố trước khi mặt trời lặn, và mang chữ ký của tổ chức K.K.K [37] . Và ông không bỏ đi, rồi sáng ngày hôm sau, có người tìm thấy ông trong rừng, cách thành phố độ một dặm đường. Ông bị trói vào một thân cây và bị đánh đến ngất xỉu.
Ông không chịu hé miệng nói ra kẻ nào đã ra tay. Thành phố biết là ông sai khi giữ im lặng như vậy, vài người đến gặp và một lần nữa cố gắng thuyết phục ông rời bỏ Jefferson, vì lợi ích của chính ông, nếu không thì lần tới “họ” có thể giết ông. Nhưng ông không chấp thuận ra đi. Thậm chí ông không muốn nói đến trận đòn nhừ tử ông đã lãnh, ngay cả khi họ đề nghị truy tố những kẻ đã đánh ông. Nhưng ông không muốn chuyện này lẫn chuyện kia. Ông không muốn nói ra cũng như không muốn rời đi. Rồi bỗng dưng cả sự việc có vẻ bay biến đi như một ngọn gió độc. Như thể thành phố rốt cuộc nhận ra rằng ông là một phần trong đời sống của họ cho tới ngày ông chết đi, rằng cả hai bên tốt hơn là nên hòa giải với nhau. Như thể, Byron nghĩ, toàn bộ sự việc chỉ là một tấn hài kịch do rất nhiều người thủ diễn, và bây giờ, tất cả cuối cùng đã đóng xong vai trò được giao phó cho mình, họ có thể thanh thản sống với nhau từ rày về sau. Họ để yên ông mục sư. Họ thấy ông làm việc này, việc nọ trong sân hay trong vườn, thấy ông ngoài đường và trong các cửa tiệm, tay mang giỏ xách nhỏ, và họ nói chuyện với ông. Họ biết là ông tự mình nấu ăn và làm việc nhà, và sau một thời gian, những người hàng xóm lại bắt đầu đưa sang cho ông các món ăn nấu sẵn, dù cho đó là những thứ món ăn mà họ hẳn sẽ gửi đến một gia đình sống trên tiền lương ít ỏi của xưởng cưa hay xưởng bào. Nhưng đó là thực phẩm và ý định thì tốt. Bởi vì, Byron nghĩ, con người thường quên đi rất nhiều chuyện trong hai mươi năm. ‘Tại sao,’ bây giờ anh nghĩ, ‘Mình cho là ở Jefferson đây mình là người duy nhất biết ông ngồi đó, bên cạnh cửa sổ, từ lúc mặt trời lặn cho đến khi tối mịt, ngày nào cũng vậy; người duy nhất biết bên trong căn nhà trông ra sao. Thậm chí người ta không biết là mình biết, nếu không họ chắc sẽ nắm đầu cả hai đứa lôi ra ngoài dùng roi quất cho một trận lần nữa, vì lẽ rằng người ta dường như có thể nhớ lại những gì họ đã quên cũng nhanh chóng như họ có thể quên.’ Bởi vì còn có một chuyện khác mà Byron biết được và quan sát từ ngày anh đến Jefferson đây để sống.
Hightower đọc rất nhiều. Nghĩa là Byron đã xem xét, với một thứ gì đó như là sự sững sờ đầy vẻ kính trọng và trầm ngâm, những cuốn sách để dọc theo các bức tường phòng làm việc: sách về tôn giáo, lịch sử và khoa học mà Byron đã chưa hề nghe nói đến là chúng có mặt trên đời. Một ngày kia, cách đây khoảng bốn năm, một tên da đen ba chân bốn cẳng chạy đến nhà ông mục sư. Hắn sống trong một túp lều ở ngoài rìa thành phố, ngay sau lưng căn nhà ông, và hắn nói vợ hắn sắp sửa đẻ. Hightower không có điện thoại và bảo hắn chạy sang nhà hàng xóm để gọi bác sĩ. Ông đứng nhìn tên da đen đi tới cổng ngôi nhà bên cạnh. Nhưng thay vì vào trong, tên da đen cứ đứng đó một lúc rồi đi ngược lại con đường về phía thành phố, bước đi chứ không chạy. Hightower hiểu là tên đàn ông da đen đó, thay vì hỏi một người đàn bà da trắng điện thoại bác sĩ giùm mình, sẽ lội bộ suốt cả quãng đường dài đến thành phố và chắc phải mất hết ba mươi phút nữa để tìm ra bác sĩ, theo cách lóng nga lóng ngóng, coi thì giờ chẳng ra cái thá gì của bọn đen. Rồi ông đi xuống phía cửa bếp và ông có thể nghe tiếng rên la của người đàn bà từ túp lều không xa lắm. Ông không đợi thêm nữa. Ông chạy đến túp lều và thấy người đàn bà đã ra khỏi giường, tại sao thì ông không bao giờ biết; và bà ta giờ ở dưới đất, vừa chống hai bàn tay và đầu gối cố gắng leo lại lên giường, vừa rên rĩ và la hét. Ông đỡ bà vào giường, bảo bà nằm im, ông làm cho bà sợ để bà nghe lời mình, rồi chạy vội về nhà và lấy ra một cuốn sách từ kệ và đem theo dao cạo và một đoạn dây rồi ba chân bốn cẳng chạy ngược lại túp lều và đỡ đẻ cho bà. Nhưng đứa bé đã chết rồi. Khi viên bác sĩ đến, ông ta nói là chắc chắn bà đã gây ra thương tích cho đứa bé khi bà rời khỏi giường và ở trong tư thế mà Hightower tìm thấy bà lúc nãy. Ông ta cũng tán thưởng việc đỡ đẻ của Hightower và người chồng tỏ ra bằng lòng nữa.
‘Nhưng cái việc này theo sau việc kia gần quá đi,’ Byron nghĩ, ‘dẫu rằng mười lăm năm đã trôi qua giữa hai việc.’ Bởi vì chỉ nội hai ngày thôi mà đã có người nói đứa bé là con của Hightower và ông đã cố tình để nó chết đi. Nhưng Byron tin rằng ngay cả những kẻ độc mồm độc miệng này cũng không tin chuyện đó. Anh tin rằng thành phố đã có thói quen lâu ngày quá rồi nên không thể tự ngăn mình nói ra những điều về ông mục sư bị ô nhục này mà chính họ cũng không tin. ‘Bởi vì,’ Byron nghĩ, ‘khi cái gì đó trở thành một thói quen thì bao giờ nó cũng xoay sở sao đó để đi xa sự thật và sự việc có thật.’ Anh nhớ lại một buổi tối khi Hightower và anh nói chuyện với nhau, Hightower nói: “Họ đều là những người tử tế. Họ phải tin những gì họ phải tin, nhất là chính tôi, trong một thời gian, vừa là ông chủ, vừa là đầy tớ cho niềm tin của họ. Vậy thì tôi không nên xúc phạm đến niềm tin của họ và Byron Bunch cũng không nên nói là họ sai. Vì tất cả những gì mà một con người có quyền hy vọng, chính là người ta để mình sống yên ổn giữa đồng loại của mình.” Những lời này được nói ra một thời gian ngắn sau khi Byron đã nghe được câu chuyện trên, ngay sau khi bắt đầu những cuộc thăm viếng Hightower ở phòng làm việc vào buổi tối và Byron còn tự hỏi tại sao Hightower ở lại Jefferson, nơi mà ông hầu như thấy được, hầu như nghe được ngôi nhà thờ đã từ bỏ và đuổi ông đi. Một buổi tối kia, Byron hỏi ông điều đó.
“Tại sao bạn lại làm việc chiều thứ bảy ở xưởng bào trong khi những người khác thì vui chơi dưới phố?” Hightower nói.
“Tôi không biết,” Byron nói. “Tôi cho là cái phận tôi nó vậy.”
“Vậy thì tôi cho đó cũng là cái phận tôi,” người kia nói. ‘Nhưng bây giờ thì tôi biết tại sao,’ Byron nghĩ. ‘Chính vì con người tỏ ra sợ sự rắc rối có thể xảy ra cho họ hơn là sự rắc rối mà họ đã chịu đựng. Họ sẽ bám lấy sự rắc rối mà họ đã quen hơn là đánh liều thay đổi. Đúng vậy. Con người hay nói về ý muốn thoát khỏi những người sống của mình. Nhưng chính những người chết mới làm họ tổn thương. Chính những người chết nằm im đâu đó và không tìm cách giữ họ lại, mà họ không thể thoát khỏi.’
Tiếng vó ngựa [38] giờ đã rầm rầm chạy qua rồi lặng lẽ tan biến trong buổi hoàng hôn; đêm đã buông xuống đủ đầy. Tuy nhiên, ông còn ngồi đó, bên cửa sổ phòng làm việc; sau lưng ông, bóng tối đã tràn ngập. Ngọn đèn ở góc đường lóe lên rồi chiếu sáng, khiến cho cái bóng có hình răng cưa của những cây phong tuy đứng gió nhưng có vẻ đung đưa nhẹ nhàng trên bóng đêm tháng tám. Ông có thể nghe ở đàng xa vẳng lại những con sóng âm thanh, yếu ớt nhưng rõ ràng, của những giọng nói tập hợp trong nhà thờ: âm thanh đó, cùng lúc khắc khổ và ấm áp, đê hèn và kiêu hãnh, nở rộng ra rồi thu nhỏ lại trong bóng đêm mùa hè yên tĩnh như tiếng hòa âm của thủy triều.
Rồi ông thấy một người đàn ông ở trên đường đang đi đến gần. Vào bất cứ đêm nào khác trong tuần ông hẳn đã nhận ra dáng vẻ, hình thù, bộ tịch và tướng đi. Nhưng vào buổi tối chủ nhật, và với tiếng dội từ những móng guốc của các bóng ma còn va đập lặng lẽ trong căn phòng làm việc đầy bóng hoàng hôn, ông quan sát cái bóng người đi bộ nhỏ bé, tiến tới với sự khéo léo bấp bênh và giả tạo thường thấy ở những con thú giữ thăng bằng trên hai chân sau; sự khéo léo đó, mà bây giờ con người-thú tỏ ra hãnh diện một cách ngờ nghệch, lại liên tục phản hắn bằng các định luật tự nhiên như trọng lực, băng giá, cũng như bằng những đồ vật đến từ bên ngoài mà chính hắn ta đã sáng chế ra như xe hơi, bàn ghế tủ giường trong bóng tối, và ngay cả đồ ăn dư thừa của chính hắn vứt trên sàn nhà hay trên mặt đường; và khi nhìn tên đàn ông từ bên đường đi ngang qua tấm biển thấp, qua cánh cổng, lại gần căn nhà, ông nghĩ thầm là cổ nhân đã tỏ ra đúng đắn biết bao khi biến con ngựa thành biểu hiệu và tượng trưng cho các chiến binh và vua chúa. Ông khom người ra trước, nhìn tên đàn ông bước đến trên lối đi tối tăm về phía cánh cửa trong bóng tối; ông nghe hắn vấp phải bậc tam cấp tối tăm thứ nhất một cách nặng nề. “Byron Bunch,” ông nói. “Ở lại thành phố tối chủ nhật sao! Byron Bunch mà ở lại thành phố ngày chủ nhật sao!”