← Quay lại trang sách

Chương 12 NGƯỜI BAN LUẬT

Tôi phải trao cho dân chúng đầy đủ quyền của họ về tôn giáo. Các triết gia sẽ cười, nhưng dân tộc sẽ biết ơn tôi.

• Napoleon nói với Chaptal

Vinh quang thực sự của tôi không phải là đã thắng 40 trận… Mà là điều không gì phá hủy được, điều sẽ sống mãi, Luật Dân sự của tôi.

• Napoleon nói trên đảo St Helena

⚝ ✽ ⚝

Napoleon không hề có ý định hài lòng với những vòng nguyệt quế của mình sau trận Marengo. Với vốn liếng chính trị đang tăng lên của mình, ông quyết định thực hiện một canh bạc, nếu thành công sẽ làm tăng đáng kể sự ủng hộ trong nước dành cho ông. “Hành động táo bạo nhất Bonaparte đã thực hiện trong những năm đầu cầm quyền của ông”, Jean Chaptal viết, “là tái lập sự thờ cúng trên các nền tảng cũ của nó”. Napoleon muốn đảm bảo rằng không Giáo hội độc lập nào có thể cung cấp một tâm điểm chống lại sự cai trị của ông, và giải pháp đơn giản nhất là hợp tác với Giáo hoàng.

Chống tăng lữ từng là một động lực trong cuộc Cách mạng Pháp, nó đã tước đi sự giàu có của Giáo hội thiên Chúa giáo, trục xuất, và trong nhiều trường hợp là sát hại các tăng lữ của Giáo hội này, phá hủy các ban thờ. Nhưng Napoleon cảm thấy rằng nhiều người trong hàng ngũ những người ủng hộ tự nhiên của ông – những người lao động có kỹ năng, thợ thủ công và tiểu chủ cần cù, bảo thủ ở nông thôn – đã không chối bỏ đức tin của cha ông họ và mong muốn có một sự hòa giải giữa Giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã và Tổng tài mà họ ngày càng ngưỡng mộ. Tuy nhiên, bất cứ sự hòa giải nào cũng sẽ phải đảm bảo rằng những người đã mua lại các tài sản bị sung công trước đó thuộc quyền sở hữu của Giáo hội (được gọi là những người sở hữu ) được phép giữ lại tài sản của họ, và không thể có chuyện trở lại với quá khứ khi nông dân buộc phải trả thuế thập phân cho tăng lữ.

Napoleon đôi khi đã tôn trọng khả năng tổ chức các cuộc bạo động ở Italy của Giáo hoàng, ông từng nói với Đốc chính vào tháng Mười năm 1796 rằng “gây sự với thế lực đó là một sai lầm lớn”. Tại cuộc gặp gỡ “sau khi ân ái”(*) ngày 5 tháng Sáu năm 1800 với giới tăng lữ Milan, ông đã hứa “gỡ bỏ mọi chướng ngại trên con đường dẫn tới sự hòa giải hoàn toàn giữa Pháp và người đứng đầu Giáo hội”. Pius VI đã chết vào tháng Tám năm trước ở tuổi 81. Giáo hoàng mới, Pius VII, có trái tim của một tu sĩ giản dị và thánh thiện trong cách nhìn nhận về các vấn đề xã hội, được cho là không công khai thù địch với Cách mạng Pháp. Napoleon biết rằng bất cứ cuộc thương lượng nào cũng sẽ tế nhị và đôi lúc gay go, nhưng phần thưởng thật lớn lao: Giáo hội Thiên Chúa giáo Pháp đồng hành cùng sự nghiệp của Napoleon. Sự tán đồng của Giáo hoàng sẽ xóa bỏ đi một trong những nỗi bất bình chủ yếu của những người nổi dậy còn lại tại vùng Vendée, và có thể cải thiện cả mối quan hệ với người Thiên Chúa giáo tại Bỉ, Thụy Sĩ, Italy và vùng sông Rhine.

Dân số Pháp khi đó khoảng 28 triệu người, chỉ một phần năm số này sống tại các khu vực đô thị có trên 2.000 dân; phần lớn số còn lại sống tại 36.000 xã nông thôn có vài trăm dân. Napoleon đánh giá cao lợi ích vô giá nếu người đóng vai trò xã hội quan trọng như một trung tâm cung cấp thông tin tại các cộng đồng đó, thường là người có học vấn nhất và là người sẽ thông báo về các sắc lệnh của chính quyền, cũng là người làm việc cho chính quyền. “Giới tăng lữ là một quyền lực không bao giờ im lặng”, Napoleon có lần nói. Bạn không thể để mình phải tuân phục nó, do đó bạn cần trở thành chủ nhân của nó. Hiệp ước của ông với Giáo hoàng được mô tả một cách chính xác như là nỗ lực “nhằm chiêu mộ tăng lữ tại các giáo khu làm các quận trưởng tinh thần” cho Napoleon.

Như ta đã thấy, bản thân Napoleon là người luôn hoài nghi về Ki-tô giáo. “Jesus có từng tồn tại hay không?” ông hỏi Gaspard Gourgaud, thư ký của mình trên đảo St Helena, “Tôi nghĩ rằng chẳng có sử gia cùng thời nào từng nhắc đến ông ta”. (Rõ ràng ông không hề biết đến Thời cổ đại của người Do Thái của Josephus, tác phẩm quả thực có nhắc tới Jesus.) Tuy vậy, ông vẫn thích thú với các cuộc trao đổi về thần học và nói với bác sĩ cuối cùng của mình, Antommarchi, “Mong ước là một người vô thần không biến ông thành người đó”. “Cho dù Bonaparte không sùng đạo”, Chaptal ghi lại, phản ánh sự mơ hồ này, “ông ấy tin vào sự tồn tại của Chúa và vào sự bất tử của linh hồn. Ông ấy luôn nói về tôn giáo với sự tôn trọng”. Khi Lời thề trên Núi được đọc cho ông nghe ở St Helena, ông đã nói với Bertrand: “Jesus đáng lẽ không nên thực hiện những phép màu của mình ở những vùng hẻo lánh tại Syria, mà nên ở một thành phố như Rome, trước toàn thể dân chúng”. Vào một dịp khác, ông nói, “Nếu tôi phải có một tôn giáo, tôi sẽ tôn thờ Mặt trời – nguồn gốc của mọi sự sống – vị thần thực sự của Trái đất”. Nhưng vào một dịp khác, ông nói: “Tôi thích nhất Hồi giáo; nó có ít điều phi lý hơn tôn giáo của chúng ta”. Về chuyện này, ông đã đọc một bản ghi chép bác bỏ dưới góc độ tính khả thi về mặt hậu cần câu chuyện về nhu yếu phẩm trong Kinh Thánh nói rằng Moses đã có thể làm dịu cơn khát của 2 triệu người Do Thái bằng cách đánh vào một tảng đá. Một vấn đề căn bản với Ki-tô giáo, như ông nói với Bertrand, là nó “không kích thích lòng dũng cảm” vì “Nó quá chú tâm tới việc lên thiên đường.”

Bất chấp những thái độ của chính mình về bản chất của đức tin Ki-tô, ông không hề có chút nghi ngờ nào với sự hữu dụng của nó về mặt xã hội. “Trong tôn giáo”, Napoleon nói với Roederer, một trong số ít các ủy viên Hội đồng Quốc gia được tham dự vào các hiệp ước bí mật, “tôi không thấy sự huyền bí của Hiển linh, mà là sự huyền bí của trật tự xã hội. Nó kết hợp với Thiên đường về một ý niệm bình đẳng có thể giữ cho người giàu khỏi bị người nghèo tàn sát… Không thể có xã hội nếu không có bất bình đẳng; bất bình đẳng không thể chịu đựng được nếu không có một quy tắc về đạo đức, và một quy tắc về đạo đức không thể chấp nhận được nếu không có tôn giáo”. Ông đã cho thấy sự linh hoạt của mình ở Ai Cập trong việc sử dụng tôn giáo vì mục đích chính trị; như ông từng có lần nhận xét với Roederer: “Nếu tôi phải cai quản một dân tộc Do Thái, tôi sẽ xây lại ngôi đền của Solomon!” Về căn bản đây là quan điểm thực dụng với tôn giáo vốn phổ biến trong các nhà tư tưởng và nhà văn Khai Sáng. Edward Gibbon đã viết những dòng nổi tiếng trong cuốn Decline and Fall of the Roman Empire (Sự suy tàn và sụp đổ của Đế chế La Mã) rằng “Những hình thức thờ phụng khác nhau phổ biến trong thế giới La Mã đều được dân chúng coi là đúng đắn ngang nhau; với các triết gia chúng đều giả dối ngang nhau: và với các quan tòa chúng đều hữu ích ngang nhau”. “Ý tưởng về Chúa rất hữu ích”, Napoleon nói, “để duy trì trật tự, để giữ người ta trên con đường đức hạnh và giữ họ tránh xa tội ác”. “Với những kẻ trộm cướp và nô lệ chèo thuyền galley,(*) sự kiềm tỏa về thân xác được áp đặt”, ông nói với bác sĩ Barry O’Meara trên đảo St Helena, “để khai sáng cho dân chúng, những người có đạo đức.”

Tháng Sáu năm 1800, ngay khi ông vừa từ Milan về đến Paris, Napoleon bắt đầu các cuộc đàm phán với Bộ trưởng Ngoại giao của Vatican là Hồng y Hercules Consalvi, đề xuất khôi phục trọn vẹn việc thờ phụng công cộng ở Pháp nếu tất cả các giám mục Pháp từ bỏ chức giám mục của mình và cho phép Napoleon lựa chọn các giám mục mới mà sau đó sẽ được Giáo hoàng “bổ nhiệm”. (Kể từ năm 1790 các giám mục Pháp đã bị chia rẽ giữa những người Chính thống giáo chỉ thừa nhận quyền lực của Giáo hoàng, với những người theo Chủ nghĩa hợp hiến đã tuyên thệ trung thành với chính quyền.) Các cuộc đàm phán – về phía Pháp có Joseph Bonaparte và cựu thủ lĩnh Vendée là Étienne-Alexandre Bernier, về phía Vatican có Consalvi, Hồng y Giovanni Caprara đại diện toàn quyền của Giáo hoàng, và Charles Caselli cố vấn thần học của Giáo hoàng – được tiến hành bí mật, thậm chí không thông báo cho Hội đồng Nhà nước. Tổng cộng có 1.279 tài liệu được gửi qua gửi lại trong vòng một năm, và không ít hơn 10 dự thảo thỏa thuận. “Trả lại Chúa những gì thuộc về Chúa”, Napoleon sau này nói, “song Giáo hoàng không phải là Chúa”. Hồng y Consalvi tới thăm Tuileries vào tháng Tư năm 1802, và Napoleon đã cho xức nước hoa các căn phòng trước khi ông ta tới. Khi nhà hóa học Fourcroy bình phẩm về mùi hương, Napoleon nói đùa với ông này: “Đó là một thứ mùi thánh thiện để thanh tẩy những tội lỗi già nua của ông đấy.”

Khi các cuộc đàm phán lên tới đỉnh điểm vào đầu tháng Bảy năm 1801, Napoleon viết cho Talleyrand: “Tôi đã có một vết phồng rộp thứ hai trên cánh tay hôm qua. Quả là một khoảnh khắc phù hợp để đạt được thỏa thuận với các tu sĩ khi người ta bị bệnh”. Cho dù Giáo ước được ký kết chính thức vào tháng Bảy, nhưng văn bản này phải chín tháng nữa mới được phê chuẩn và công bố, sau khi Napoleon đã tìm cách làm dịu bớt sự chống đối quyết liệt của quân đội và giới lập pháp. “Chính quyền của nền Cộng hòa thừa nhận tôn giáo Thiên Chúa giáo La Mã thuộc Tòa Thánh là tôn giáo của đại đa số công dân Pháp”, bản Giáo ước mở đầu. “Theo đó, Đức Thánh Cha thừa nhận rằng tôn giáo này đã nhận được, và nhiều khả năng sẽ còn nhận được, sự huy hoàng lớn nhất từ việc thiết lập sự thờ phụng Thiên Chúa tại Pháp, và từ việc tôn giáo này được các tổng tài của nền Cộng hòa công khai tin theo”. Trong 17 điều sau đó, văn bản nêu rõ rằng đức tin Thiên Chúa giáo “sẽ được bày tỏ tự do tại Pháp… phù hợp với các quy định… mà Chính phủ coi là cần thiết cho trật tự công cộng.”

Có những giáo khu và xứ đạo mới được thành lập. 10 tổng giám mục (mỗi người nhận lương 15.000 franc một năm) và 50 giám mục (10.000 franc mỗi người) sẽ được đồng bổ nhiệm bởi Napoleon và Giáo hoàng; các giám mục sẽ tuyên thệ không “gây rối trật tự công cộng” và sẽ cung cấp mọi thông tin về hành tung của các cá nhân cho chính quyền; tất cả các buổi lễ cầu nguyện sẽ gồm một bài cầu nguyện cho nền Cộng hòa và các tổng tài; cho dù các giám mục sẽ bổ nhiệm các linh mục chánh xứ, nhưng họ không được bổ nhiệm bất cứ ai không được chính quyền chấp nhận. Giáo ước cũng thừa nhận các chuyển nhượng đất đai trong Cách mạng; mọi tài sản trước đây của Giáo hội sẽ thuộc về những người sở hữu “mãi mãi.”

Napoleon cũng chấp nhận một số nhượng bộ, song không có cái nào quá nặng nề. Tuần lễ có 10 ngày bị bãi bỏ, và Chủ nhật được khôi phục là ngày nghỉ; lịch Gregory cuối cùng cũng trở lại vào tháng Một năm 1806; trẻ em được đặt tên thánh hay theo truyền thống thay vì những cái tên hoàn toàn thế tục hay cách mạng; mọi tăng lữ đều được trả lương; các dòng nữ tu và truyền giáo được tái lập ở quy mô nhỏ, và giáo dục tiểu học được giao lại cho giới tăng lữ. Trong khi đó, Giáo hội sẽ hát bản thánh ca Te Deum để mừng các chiến thắng của Napoleon, đọc các thông cáo của ông từ những bục giảng kinh và mô tả quân dịch như một bổn phận ái quốc. Trong tất cả những điểm tranh cãi chính, Napoleon đều có được những điều ông muốn. Với việc kết thúc sự chia rẽ, không dưới 10.000 tu sĩ theo Chủ nghĩa hợp hiến trở lại với Giáo hội La Mã, và một trong những vết thương sâu nhất của cuộc Cách mạng đã lành. Tuy nhiên, bất cứ sự tin tưởng nào Pius có thể đã có về thành ý của Napoleon cũng đều bị sứt mẻ nghiêm trọng vào ngày 8 tháng Tư năm 1802, khi toàn bộ các hạn chế và quy định mới, được biết đến dưới tên gọi Các điều khoản Hữu cơ, được thêm vào bản Giáo ước mà không hề có sự tham vấn trước nhằm bảo vệ quyền của 700.000 người Tin lành và 55.000 người Do Thái tại Pháp.(*)

Cho dù nhìn chung được chào đón tại Pháp, nhất là tại vùng nông thôn bảo thủ, nhưng Giáo ước vẫn bị căm ghét sâu sắc trong quân đội, Hội đồng Nhà nước và Cơ quan Tư pháp – những nơi vẫn còn khá nhiều nhân vật cách mạng và cựu Jacobin. Nó được công bố chính thức trong một buổi lễ lớn Te Deum tại nhà thờ Đức bà Paris vào Chủ nhật Phục sinh, ngày 18 tháng Tư năm 1802, khi những tiếng chuông rung lên lần đầu tiên sau một thập kỷ, và Napoleon được Jean-Baptiste de Belloy-Morangle, Tổng Giám mục mới được bổ nhiệm của Paris, tiếp đón. Các quan chức nhà nước cao cấp được lệnh tới dự với sự trang trọng phù hợp, song người ta nhận thấy một số xe ngựa của họ trên thực tế là xe chở khách với số xe đã được sơn phủ. Các tướng lĩnh kéo lê cựa thúc ngựa và kiếm của họ trên sàn nhà thờ, từ chối nhường chỗ cho các tu sĩ và nói chuyện riêng trong cả buổi lễ, công khai bày tỏ sự tức giận của quân đội vốn rất bài tăng lữ với bản Giáo ước. Augereau xin phép vắng mặt, và bị Napoleon từ chối. Moreau đơn giản là tảng lờ mệnh lệnh và đứng hút xì gà đầy phô trương ngoài hiên Tuileries. Khi nghe được bình phẩm của Tướng Antoine-Guillaume Delmas: “Thật là một trò dạy đời lố bịch, duy nhất vắng mặt là 100.000 người lính đã chết cho mục đích rũ bỏ tất cả những thứ này!” Napoleon liền trục xuất ông ta ra khỏi Paris trong vòng bán kính 80 km.

Giáo ước đem đến cho Napoleon biệt danh “Người khôi phục Tôn giáo” từ phía tăng lữ, cho dù ít giáo sĩ đi xa tới mức như Tổng Giám mục của Besançon, người mô tả ông là “như Chúa vậy”. Trong vòng một tháng, Cơ quan Tư pháp đã phê chuẩn văn bản này với 78 phiếu thuận 7 phiếu chống. Tại các xóm làng và thị trấn nhỏ trên khắp Pháp, nó đã đem đến hiệu ứng mong đợi. “Những đứa trẻ ngoan ngoãn nghe lời bố mẹ hơn, thanh niên tôn trọng quyền lực của các quan tòa hơn, và việc gọi quân dịch giờ đây được thực hiện ở những nơi mà chỉ nguyên tên gọi của nó trước đây cũng đã gây ra chống đối”, Napoleon nói với các nhà lập pháp vào năm 1803, cho thấy rằng ông nhìn nhận việc hòa giải tôn giáo trước hết trên khía cạnh tuyên truyền và kỷ cương chung. Giáo ước tiếp tục là nền tảng cho các quan hệ giữa Pháp và Giáo hoàng trong một thế kỷ. Một nghiên cứu gần đây của Rouen về thời Tổng tài kết luận rằng những động thái được tán thành nhất của Napoleon gồm có Giáo ước, việc tiêu trừ trộm cướp, và việc đảm bảo quyền sở hữu đất đai cho những “người sở hữu”, theo thứ tự giảm dần.

Sau khi Giáo ước cuối cùng cũng được Viện Lập pháp thông qua, Lucien tổ chức một cuộc tiếp tân cho anh trai mình, tại đó Napoleon tìm ra triết gia Thiên Chúa giáo kiêm nhà văn François-René de Chateaubriand, tác giả của cuốn sách mới ra rất thành công Génie du christianisme (Sự thần thánh của Ki-tô giáo), một bản tụng ca đầy cảm xúc về đức tin Thiên Chúa giáo, “Từng hàng từng hàng tách ra”, Chateaubriand nhớ lại trong hồi ký của ông ta,

⚝ ✽ ⚝

Điều thú vị là Chateaubriand ngay sau đó đã chấp nhận một vị trí ngoại giao tại Vatican. Về sau, sự ngưỡng mộ của ông ta phai nhạt dần: năm 1804, ông ta rút lui khỏi ngành ngoại giao, và đến tháng Bảy năm 1807, ông ví Napoleon với Nero, vì thế đã bị trục xuất khỏi Paris.

•••

Vào cuối tháng Một năm 1801, Napoleon khởi động một dự án cải cách tư pháp đầy tham vọng mà các hệ quả của nó còn tồn tại lâu dài hơn cả Giáo ước. Thời chế độ cũ có không dưới 366 bộ luật địa phương còn hiệu lực, và miền Nam Pháp cho thấy có một hệ thống các nguyên tắc tư pháp khác biệt về căn bản, dựa trên luật La Mã thay vì các thông luật như ở miền Bắc. Trực giác mách bảo Napoleon rằng nếu Pháp muốn vận hành một cách hiệu quả trong thế giới hiện đại, nó cần một hệ thống luật pháp và sự thực thi luật pháp được chuẩn hóa, sự thống nhất về khối lượng và đo lường, một thị trường nội địa có đầy đủ chức năng, và một hệ thống giáo dục được quản lý tập trung sẽ cho phép những đứa trẻ vị thành niên có tài năng từ mọi giới đi vào mọi lĩnh vực tùy theo năng lực chứ không phải nguồn gốc.

Nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của ông là thống nhất 42 bộ luật của Pháp thành một hệ thống duy nhất. Trong công việc đồ sộ này, Napoleon tìm thấy một đồng minh vô giá là Cambacérès, người từng là thư ký của một ủy ban được giao nhiệm vụ rà soát lại Luật Dân sự vào năm 1792 và là tác giả của Dự án Luật Dân sự (1796). “Nếu toàn bộ Luật bị thất lạc”, Napoleon có lần châm biếm, “có thể tìm thấy nó trong đầu Cambacérès”. Để hỗ trợ Tổng tài Thứ hai trong việc tái khởi động cuộc cải cách đã chậm trễ quá lâu này, một ủy ban được thành lập từ những luật gia và chính trị gia xuất chúng nhất của đất nước, bao gồm Lebrun, François Tronchet, Félix Bigot de Préameneu, và Jean-Étienne Portalis. Napoleon chủ tọa không ít hơn 55 trong 107 phiên họp toàn thể của ủy ban, thường xuyên can thiệp vào các vấn đề ông đặc biệt quan tâm như ly hôn, nhận con nuôi và quyền của người ngoại quốc. Điệp khúc thường trực của Napoleon với những vấn đề về “lợi ích chung” và luật dân sự là: “điều này có công bằng không? Điều này có ích không?” Một số phiên họp bắt đầu từ trưa và kéo dài tới tận tối. Napoleon tham gia mật thiết vào toàn bộ quá trình lâu dài và phức tạp để đưa các dự luật mới thành các văn bản luật, từ những cuộc tranh luận ban đầu ở Hội đồng Nhà nước, quá trình soạn dự thảo, các ý kiến phê bình và những đề xuất sửa đổi của các nhóm lợi ích khác nhau, đến các ủy ban chuyên trách, những cuộc tấn công sau đó từ các nhóm lợi ích đặc biệt và những người vận động hành lang, rồi các tiến trình lập pháp tại Nghị viện. Không thể đoán trước được kết quả của việc phê chuẩn: tháng Mười hai năm 1801, dự luật sơ thảo đã bị Cơ quan Lập pháp bác bỏ với 142 phiếu thuận và 139 phiếu chống, và kết quả cũng tương tự tại Cơ quan Tư pháp. Nếu Napoleon không thể hiện sự ủng hộ cá nhân kiên quyết của mình, nó không bao giờ có thể trở thành luật. Cho dù Cambacérès đã thực hiện các công việc chính, thì bộ luật này vẫn xứng đáng được gọi là Luật Napoleon, vì nó là sản phẩm của thuyết phổ quát hợp lý từ tinh thần Khai sáng mà Napoleon đón nhận.

Về căn bản là một sự thỏa hiệp giữa luật La Mã và thông luật, Luật Napoleon bao gồm những bộ luật hợp lý và hài hòa được áp dụng như nhau trên tất cả các lãnh thổ do Pháp quản lý, lần đầu tiên kể từ thời Hoàng đế Justinian. Các quyền và nghĩa vụ của chính quyền cũng như các công dân được luật hóa thành 2.281 điều trong 493 trang với cách hành văn rõ ràng tới mức Stendhal cho biết mình đã đọc nó hằng ngày. Luật mới giúp gắn kết sự thống nhất quốc gia, nhất là vì nó dựa trên các nguyên tắc về tự do cá nhân và khế ước. Nó khẳng định sự chấm dứt các đặc quyền giai cấp cổ xưa, và (với ngoại lệ là giáo dục tiểu học) sự kiểm soát của giới tăng lữ trong bất cứ khía cạnh nào của xã hội dân sự Pháp. Trên hết, nó đem đến sự ổn định sau hỗn loạn của cuộc Cách mạng.

Luật Napoleon đơn giản hóa 14.000 sắc lệnh và luật đã được nhiều chính quyền cách mạng khác nhau thông qua kể từ năm 1789, và 42 bộ luật địa phương đang được sử dụng, thành một hệ thống luật thống nhất duy nhất áp dụng với mọi công dân, thiết lập những nguyên tắc chung và đưa ra những khoảng giới hạn rộng để các thẩm phán làm việc trong khuôn khổ đó. (“Không nên tạo cho mình một gánh nặng thái quá với những bộ luật quá chi tiết”, Napoleon nói với Hội đồng Nhà nước. “Luật pháp không được làm gì khác ngoài áp đặt một quy tắc chung. Sẽ là vô ích nếu muốn cố gắng lường trước mọi trường hợp có thể xảy ra; kinh nghiệm sẽ chứng minh rằng có nhiều thứ đã bị bỏ qua”.) Bộ luật đảm bảo sự bình đẳng của mọi người Pháp trước pháp luật, quyền tự do cá nhân được bảo vệ khỏi việc bị bắt giữ bừa bãi, tính ràng buộc của các khế ước hợp pháp được cam kết một cách tự nguyện, và không cho phép thừa nhận bất cứ đặc quyền nào của xuất thân. Phản ánh tinh thần của Các điều khoản Hữu cơ, bộ luật thiết lập sự khoan dung tôn giáo triệt để (bao gồm cả với những người vô thần), tách riêng Giáo hội và nhà nước. Nó cho phép mọi người trưởng thành được lựa chọn bất kỳ công việc nào và được sở hữu tài sản. Luật phải được phổ biến một cách thích đáng và ban hành chính thức, và không thể áp dụng việc hồi cứu. Các thẩm phán dĩ nhiên được yêu cầu vận dụng luật theo từng trường hợp cụ thể, song không được phép đưa ra các tuyên bố về mặt nguyên tắc, do đó những trường hợp cụ thể không thể tạo thành tiền lệ, như thông luật Anglo-Saxon. Lo ngại sự tan rã của gia đình như là thiết chế nền tảng của xã hội, các nhà làm luật đã trao cho người cha chủ gia đình quyền lực gần như tuyệt đối, bao gồm cả quyền với tài sản của người vợ. Theo điều 148, cần có sự đồng ý của người cha đối với việc kết hôn của con trai cho đến tuổi 25 và con gái cho đến tuổi 21, và tuổi kết hôn được nâng lên thành 15 với nữ giới, 18 với nam giới. Người cha cũng có quyền yêu cầu tống giam con mình vì không nghe lời trong một tháng với đứa con dưới 16 tuổi, và trong sáu tháng với đứa con từ 16 đến 21 tuổi.

Những phê phán chủ yếu nhắm vào bộ Luật này trong hai thế kỷ qua là nó bảo thủ về mặt xã hội, quá ủng hộ tầng lớp trung lưu, ủng hộ cá nhân và ủng hộ người cha chủ gia đình, nó buộc người vợ quá phụ thuộc vào chồng, và các điều khoản về thừa kế của nó gây tổn hại cho một nền kinh tế nông nghiệp. Theo tiêu chuẩn của thế kỷ 21, bộ Luật này rõ ràng là có sự phân biệt giới tính sâu sắc, với sự thiên vị rõ rệt dành cho người chồng. điều 213 của Luật Dân sự viết: “Một người chồng phải bảo vệ vợ mình, một người vợ phải phục tùng chồng mình”. Lý do cho ly hôn được giới hạn trong các hành vi: ngoại tình (và chỉ ở trường hợp người chồng thường xuyên đưa nhân tình về nhà của gia đình), bị kết án một tội nghiêm trọng, và lăng nhục hay bạo hành nghiêm trọng, nhưng ly hôn cũng có thể được thực hiện qua đồng thuận của hai bên khi lý do được giữ kín. Một người vợ có thể bị án tù hai năm vì ngoại tình, trong khi một người chồng chỉ phải chịu phạt. Một người chồng sẽ không bị truy tố nếu anh ta sát hại vợ khi bắt quả tang vợ đang ngoại tình. Bộ Luật bảo vệ những người đàn ông đã kết hôn hoặc độc thân không phải trợ cấp cho đứa con ngoài giá thú, hay kể cả chuyện xác minh tư cách làm cha. Nó cũng ngăn cản phụ nữ thực hiện các khế ước pháp lý, tham gia các vụ tranh tụng, làm nhân chứng trước tòa hay làm khai sinh, khai tử hoặc giấy giá thú. Người vợ không được bán hàng ngoài chợ nếu không được chồng cho phép, và bị cấm cho, bán hay thế chấp tài sản nếu không có sự đồng ý bằng văn bản của chồng. Phụ nữ chưa kết hôn không thể là người bảo trợ pháp lý hay làm nhân chứng di chúc. Trong tất cả những điểm này, bộ Luật phản ánh tư tưởng phân biệt giới tính sâu sắc của Napoleon: “Phụ nữ không nên được nhìn nhận là ngang hàng với nam giới”, ông nói. “Trên thực tế, họ chỉ là những cỗ máy đẻ ra những đứa trẻ.”

Bộ Luật cũng giáng một đòn chí tử vào quyền thừa kế của con trưởng. 25% của tổng tài sản có thể được để lại cho người ngoài gia đình theo di chúc, song phần còn lại phải được chia đều giữa tất cả các con trai khi cha họ qua đời, những đứa con ngoài giá thú thì không có bất cứ quyền thừa kế nào.(*) Luật cũng thể hiện sự thiên vị mạnh mẽ dành cho người sử dụng lao động, lời nói của họ được pháp luật chấp nhận về mọi mặt. Vào ngày 1 tháng Mười hai năm 1802, một đạo luật được thông qua đòi hỏi mọi người lao động phải giữ một sổ thông hành, nó phải được trao cho người sử dụng lao động vào đầu thời kỳ tuyển dụng, và được người sử dụng ký vào khi thôi việc, nếu không có sổ người lao động sẽ không được tuyển dụng và có thể bị sáu tháng tù.(*) Napoleon không phải là người sáng tạo ra các quy định chống bãi công và chống nghiệp đoàn khắc nghiệt trong Luật Dân sự, mà chúng đã được đưa ra từ Luật Le Chapelier năm 1791 và mãi tới năm 1884 mới bị bãi bỏ. Tuy nhiên, ông đã làm cho chúng trở thành có hiệu lực. Các công nhân xây dựng tham gia bãi công năm 1806 đã bị bắt ngay trên giường của họ.(*)

Luật Dân sự, trở thành luật từ năm 1804, chỉ là một trong những cải cách tư pháp được Napoleon triển khai, cho dù hiển nhiên đây là cải cách quan trọng nhất. Đến năm 1810, ngoài bộ luật này còn có thêm Luật Tố tụng Dân sự, Luật Thương mại, Luật Tố tụng Hình sự, và Luật Hình sự. (Trong bộ luật cuối cùng, các điều khoản hết sức hà khắc, song không hề thể hiện sự độc ác của luật hình sự Anh thời đó, theo đó trẻ em có thể bị lưu đày tới Australia và người lớn bị treo cổ vì lấy cắp đồ có giá trị lớn hơn 1 shilling.) Tất cả các bộ luật này được tập hợp lại dưới tên gọi Luật Napoleon. Luật được mở rộng tới gần như mọi vùng của Đế chế Pháp vào tháng Ba năm 1804. Nó được áp đặt tại các vùng lãnh thổ Tây Ban Nha bị thiết quân luật năm 1808 và ở Hà Lan sau khi sáp nhập năm 1810. “Người La Mã trao luật pháp của mình cho các đồng minh của họ”, Napoleon nói với anh trai Louis của mình, “vậy tại sao Pháp lại không để luật của mình được áp dụng tại Hà Lan?” Ở một số nơi, chẳng hạn như tại Naples, bộ luật này chỉ được thừa nhận ngoài miệng. Tuy nhiên, ở nhiều nơi khác, nó lại được ủng hộ tới mức được giữ lại ngay cả sau khi Napoleon đã sụp đổ. Bộ luật được sử dụng ở vùng Rhineland thuộc Phổ tới tận năm 1900, và tại Bỉ, Luxembourg, Mauritius, và Monaco, cũng như tại Pháp, ngày nay nó vẫn được áp dụng. Nhiều khía cạnh của bộ luật vẫn được lưu giữ trong hệ thống tư pháp của những vùng đất trên thế giới cách xa đất nước nơi nó ra đời như tại Nhật Bản, Ai Cập, Quebec, và Louisiana.

•••

Cho dù Luật Napoleon chuẩn hóa hệ thống pháp luật, nhưng vẫn cần phải có những cải cách cũng triệt để như vậy nhằm chuẩn hóa các khía cạnh khác trong đời sống của người Pháp mà Napoleon mong muốn hợp lý hóa. Chẳng hạn như tại vùng Corbières ở Languedoc – 129 địa phương ở vùng này nói tiếng Occitan thay vì tiếng Pháp, ngoại trừ ba làng phía nam nói tiếng Catalan – các hoạt động hành chính, tư pháp, cảnh sát, và thuế vụ được thực hiện bởi nhà chức trách của bốn thành phố Carcassonne, Narbonne, Limoux, và Perpignan, nhưng không có sự nhất quán trong việc thành phố nào quản lý những xã nào. Có không dưới 10 đơn vị đo thể tích khác nhau có thể được dùng cho thuật ngữ setier (thường tương đương 85 lít), và 50 đơn vị khác nhau để đo diện tích, một trong số này – sétérée – thay đổi tùy thuộc việc được sử dụng ở vùng đất thấp hay vùng núi cao. Cá nhân Napoleon không ngưỡng mộ hệ thống mét do Laplace phát minh ra, ông nói, “Tôi có thể hiểu được một phần mười hai của một inch, nhưng một phần nghìn của một mét thì không”, song dù sao ông vẫn áp đặt nó sau năm 1801 vì lợi ích của tính nhất quán trong thương mại. Ông cũng thiết lập một hệ thống tiền xu được chuẩn hóa: tiền xu đồng có các mệnh giá 2, 3 và 5 centime; tiền xu bạc mệnh giá ¼, ½, ¾ franc, 1 franc, 2 franc và 5 franc, tiền xu vàng mệnh giá 10, 20 và 40 franc. Tiền xu bạc 1 franc nặng 5 gram nhanh chóng trở thành đơn vị tiền tệ tiêu chuẩn của châu Âu. Giá trị và thành phần kim loại của nó vẫn không đổi cho tới năm 1926.

Trong dân số 28 triệu người, 6 triệu người hoàn toàn không biết tiếng Pháp và 6 triệu người nữa chỉ có thể diễn đạt một cách khó hiểu bằng thứ tiếng này. Tiếng Flander được nói ở vùng Đông bắc, tiếng Đức ở Lorraine, tiếng Breton ở Bretagne, và tiếng Basque, Catalan, Italy, Celt và Languedoc là thổ ngữ ở những nơi khác. Cho dù bản thân Napoleon cũng không thật sự giỏi tiếng Pháp, nhưng ông biết từ các kinh nghiệm cá nhân về tầm quan trọng của việc sử dụng ngôn ngữ để thiết lập các mối quan hệ. Các cải cách giáo dục của ông biến tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ giảng dạy duy nhất được chấp nhận, cũng như là ngôn ngữ duy nhất trong mọi văn bản chính thức.

Napoleon có quan điểm bảo thủ về giáo dục tiểu học, và như chúng ta đã thấy, ông trả nó lại cho giới tăng lữ, song ở giáo dục trung học bắt đầu từ tuổi 11 thì ông là một người cách mạng. Vào tháng Năm năm 1802, ông thông qua một đạo luật thành lập 45 trường trung học công lập (lycée) với mục đích đào tạo ra những quân nhân, nhà quản lý, và kỹ sư tương lai. Trường trung học công là câu trả lời của ông cho câu hỏi làm thế nào để tạo ra một thế hệ những nhà lãnh đạo tương lai ái quốc, trung thành. Mọi đứa trẻ Pháp biết đọc biết viết giờ đây đều được dạy tiếng Hy Lạp, tiếng Latin, tu từ học, logic học, luân lý học, toán học và vật lý, cả một số môn khoa học khác cùng các ngôn ngữ hiện đại. Trong các trường này tôn giáo được giữ ở mức tối thiểu: ông không muốn một hệ thống trường trung học bị Giáo hội thao túng giống như trong Chế độ cũ. Kỷ luật trong trường rất nghiêm khắc, đồng phục của trường với áo vét và quần xanh lơ cùng mũ tròn đội đầu được mặc tới năm 14 tuổi, và học sinh được tập hợp thành các đại đội với một trung sĩ và bốn hạ sĩ, do học sinh giỏi nhất được gọi là trung sĩ nhất chỉ huy.

Các trường trung học công cung cấp 6.400 học bổng toàn phần cho những đối tượng được gọi là “học sinh quốc gia”, nhưng đồng thời cũng mở cửa cho những học sinh khác nếu qua được kỳ thi đầu vào, và với số này thì bố mẹ phải trả học phí. Học sinh theo học một chương trình có các môn học bắt buộc, thay vì hệ thống cũ trong đó họ có thể lựa chọn. Các tỉnh trưởng và chủ tọa các tòa hình sự và tòa phúc thẩm giám sát việc quản lý những trường học mới này, và có cả một chức thanh tra chuyên nghiệp. Đến năm 1813, các trường trung học Pháp là tốt nhất ở châu Âu, và một số trường trung học công ban đầu của Napoleon, chẳng hạn như Condorcet, Charlemagne, Louis-le-Grand, và Henri IV, vẫn nằm trong số những trường tốt nhất tại Pháp hai thế kỷ sau đó. Mô hình này được du nhập khá xa ngoài Pháp; nó trở thành hình mẫu tại Tây Ban Nha và Hà Lan, những nơi này chấp nhận các quan điểm giáo dục Pháp dù họ phản đối sự chiếm đóng của người Pháp.

Trong một bài phát biểu không chuẩn bị trước tại Hội đồng Nhà nước năm 1806 mà ông phải nói chỉ vì Bộ trưởng Giáo dục Antoine Fourcroy đã không mang bản báo cáo của mình tới cuộc họp, Napoleon đã gần như thi vị hóa giáo dục là:

⚝ ✽ ⚝

Napoleon có kế hoạch thành lập các trường trung học công trên khắp nước Pháp. Nhìn chung, các cải cách giáo dục của ông cũng như những kế hoạch kiến trúc của ông cho Paris là đáng ngưỡng mộ, song đã bị cắt ngang khá sớm trước khi chúng kịp có thành quả. Vào ngày 17 tháng Ba năm 1808, Napoleon đẩy việc tái tổ chức của mình đi xa hơn bước nữa khi ông ban hành một sắc lệnh về việc thành lập Đại học Đế chế, tổ chức sẽ giám sát toàn bộ hoạt động giáo dục tại Pháp. Tất cả giảng viên là thành viên của một trong năm khoa của trường (Thần học, Luật, Y, Văn học, Toán & Lý). Ông thiết kế một cấu trúc thứ bậc theo kiểu quân sự, với một vị hiệu trưởng danh dự là Louis Fontanes có tính cách mạnh mẽ, Chủ tịch Cơ quan Lập pháp từ năm 1804 đến 1810, và dưới ông này là một Hội đồng Ba mươi để kiểm soát các trường trung học và đại học Pháp. Trường Sorbonne từng bị Cách mạng đóng cửa, nhưng năm 1808 Napoleon đã hồi sinh cho nó.

Quan điểm phân biệt giới tính sâu sắc của Napoleon cũng xuất hiện trong các chính sách về giáo dục của ông như ở mọi lĩnh vực khác. “Nền giáo dục công gần như luôn làm những phụ nữ xấu trở nên đồng bóng, hay làm đỏm và không ổn định”, ông nói với Hội đồng Nhà nước vào tháng Ba năm 1806. “Trường học chung cho cả hai giới là điều rất tốt cho nam giới, nhất là trong việc dạy họ cách giúp đỡ lẫn nhau và chuẩn bị cho họ bước vào trận chiến cuộc đời thông qua tình bạn, lại trở thành ngôi trường hủ bại cho nữ giới. Nam giới được mở ra với cuộc sống hào hoa, trong khi nữ giới bị khép kín trong cuộc sống gia đình và trong xó nhà”. Cũng như với Luật Napoleon, ở đây việc thiếu vắng giáo dục chính thống cho nữ giới cũng cần được nhìn nhận trong bối cảnh thời ông sống: vào đầu thế kỷ 19 có rất ít trường dành cho nữ sinh tại Anh và Mỹ, và không có trường nào do nhà nước điều hành.

•••

Những cải cách lớn nhất của chế độ Tổng tài được thực hiện từ tháng Bảy năm 1800 tới tháng Năm năm 1803, khi Napoleon ở Paris và thường xuyên họp cùng Hội đồng Nhà nước, một tổ chức được cấu thành chủ yếu từ những nhân vật cộng hòa ôn hòa và những người cựu bảo hoàng, cho dù có những lúc một số thành viên hội đồng phải ngồi cạnh những thành viên khác từng đưa bố hay anh trai họ lên máy chém. “Chúng ta đã đoạn tuyệt với sự lãng mạn của Cách mạng”, ông nói trong một cuộc họp thời kỳ đầu của Hội đồng Nhà nước, “giờ đây chúng ta phải bắt đầu lịch sử”. Napoleon đưa ra cho Hội đồng các chỉ thị, đề xuất, những nét lớn của các chính sách, điều đã được tóm lược lại một cách chính xác là “một tình yêu dành cho quyền lực, tính thực tế, sự coi thường đặc quyền và các quyền khó hiểu, sự chú ý tỉ mỉ tới từng chi tiết và tôn trọng thứ bậc trật tự xã hội”. Ông là thành viên trẻ nhất của Hội đồng, và như Chaptal nhớ lại,

⚝ ✽ ⚝

Hội đồng thảo luận về những vấn đề đa dạng khác thường. Một ví dụ ngẫu nhiên, chỉ riêng trong ngày 17 tháng Sáu năm 1802, chương trình nghị sự của Hội đồng bao gồm việc kiểm tra các bác sĩ phẫu thuật; tổ chức của các nhà hóa học; bổ nhiệm người đứng đầu cho các quận quan trọng; tình trạng mùa màng; người tị nạn Malta; một dự thảo luật về lực lượng Vệ binh Quốc gia; trách nhiệm tu bổ đường bộ; việc quản lý cục quân nhu; hoạt động cầm đồ; tài khoản của các xã lớn; những người gác rừng; các phòng thương mại; luật cho phép những người lưu vong quyền trở về một số vùng cụ thể; luật bầu cử; việc xây cầu ở tỉnh Ardèche; sáp nhập hai tỉnh ở Corse thành một; và phân định ranh giới các tỉnh ở bờ trái sông Rhine.

Một số phiên họp của Hội đồng kéo dài 8 đến 10 tiếng, và Chaptal nhớ lại Napoleon luôn là “người tham gia nhiều nhất bằng lời nói và sự căng thẳng thần kinh. Sau những cuộc họp này, ông ấy còn triệu tập những người khác đến trao đổi về những vấn đề khác nhau, và chưa bao giờ người ta thấy đầu óc ông ấy bị suy giảm”. Khi các thành viên mệt mỏi trong các cuộc họp kéo dài suốt đêm, ông nói: “Nào, các ngài, chúng ta vẫn chưa kiếm được đồng lương của mình đâu!” (Sau khi họ kết thúc, đôi lúc vào 5 giờ sáng, ông đi tắm, với niềm tin rằng “Một giờ trong bồn tắm đáng giá bốn giờ ngủ với tôi”.) Ngoài lúc trên chiến trường, đây chính là nơi Napoleon thể hiện ấn tượng nhất. Các thành viên Hội đồng đều đưa ra lời xác nhận giống nhau – dù sau này họ ủng hộ hay từ bỏ ông, dù họ viết ra những lời đó vào cùng thời gian hay rất lâu sau khi ông đã thất bại – về năng lực thảo luận của ông, sự năng động của ông, tốc độ nắm bắt một chủ đề của ông, và sự cương quyết không bao giờ bỏ cuộc cho tới khi ông làm chủ được những điểm cốt yếu và đưa ra được quyết định cần thiết. “Còn trẻ và nhìn chung không được chỉ dẫn nhiều về những lĩnh vực khác nhau của quản lý nhà nước”, một trong số họ hồi tưởng lại những ngày đầu của chế độ Tổng tài, “nhưng ông ấy đã đem đến cho các cuộc thảo luận một sự rõ ràng, một sự chính xác, một năng lực tư duy và tầm nhìn khiến chúng tôi kinh ngạc. Là một người làm việc không biết mệt mỏi với nguồn năng lực vô hạn, ông ấy kết nối và điều phối các sự kiện và quan điểm nằm rải rác khắp một hệ thống quản lý nhà nước rộng lớn với một sự sáng suốt vô song”. Ông nhanh chóng tự luyện cho mình cách đưa ra những câu hỏi ngắn, đòi hỏi những câu trả lời trực tiếp. Theo đó, thành viên Hội đồng Emmanuel Crétet, Bộ trưởng Công chính, từng bị hỏi “Chúng ta tới đâu với Khải hoàn Môn rồi?” và “Tôi sẽ bước trên cầu Jena khi quay về chứ?”

Hội đồng Nhà nước được chia thành các ban để phụ trách những lĩnh vực quản lý khác nhau – quân đội, hải quân, tài chính, tư pháp, nội vụ, cảnh sát, và các tỉnh. “Chiếc bàn dài hình móng ngựa với những người rất khác biệt về nguồn gốc và quan điểm ngồi quanh”, Bá tước Molé nhớ lại, “đã đơn giản biến đổi khi nhà tổ chức thiên tài xuất hiện trên một chiếc bục ở cuối hình móng ngựa”. Một người khác nhớ rằng “Chỗ ngồi của ông ấy – một chiếc ghế tựa bằng gỗ gụ với đệm ngồi và tay vịn bọc da morocco màu xanh lục – nhỏ hơn một chiếc ghế văn phòng, được đặt cao hơn sàn trên một bậc cấp”. Nó bị hành hạ dữ dội, vì trong các cuộc thảo luận Napoleon thường thể hiện một số dấu hiệu kinh điển của sự bồn chồn căng thẳng:

⚝ ✽ ⚝

Những người tham vọng thích ở những vị trí thứ yếu trong vai trò thành viên dự thính tại Hội đồng hơn là những vị trí cao hơn ở nơi khác trong bộ máy dân sự, vì đây là một nơi tốt để lọt vào mắt Napoleon. Họ xây dựng các dự thảo luật mà Hội đồng đã nhất trí. Khi ông nhiều tuổi hơn, nếu ông muốn một thành viên dự thính nào đó báo cáo với Hội đồng, ông sẽ dùng một chiếc ống nhòm vốn sử dụng trong nhà hát để lia ra chỗ họ đang ngồi bên cạnh các cửa sổ. Nhiều người đã nhìn nhận đúng đắn rằng một chỗ tại Hội đồng là con đường thăng tiến nhanh hơn so với một ghế tại Thượng viện.

Đôi khi Napoleon sẽ thông báo trước rằng ông sẽ tới dự một phiên họp, còn ở những phiên họp khác các thành viên Hội đồng không hề biết ông sẽ tới cho tới khi họ nghe thấy tiếng trống trên cầu thang Tuileries. Ông sẽ ngồi vào chỗ của mình, hỏi những câu hỏi tìm tòi, chìm vào những cơn mơ màng, bật ra những tràng độc thoại. “Ông có biết vì sao tôi cho phép thảo luận nhiều đến thế tại Hội đồng không?” có lần ông khoe khoang với Roederer. “Bởi tôi là người tranh luận mạnh mẽ nhất trong cả Hội đồng. Tôi để chính mình bị tấn công, vì tôi biết cách bảo vệ bản thân ra sao”. Một dự thảo sắc lệnh sẽ được đọc lên, sau đó ủy ban chuyên trách sẽ báo cáo về nó, rồi tiếp đến Napoleon thúc giục các chuyên gia đã được thừa nhận về lĩnh vực này lên tiếng. Lời lẽ phải có tính thực tế, còn những nỗ lực hùng biện lớn tiếng thường chỉ dẫn tới sự nhạo báng.

•••

Napoleon không cần che giấu mẫu hình của ông với tư cách một nhà làm luật, nhà kiến trúc, và nhà kiến tạo quốc gia. “Ông ấy cải cách lịch”, ông viết về Julius Caesar, “ông ấy soạn thảo các bộ luật dân sự, hình sự. Ông ấy thực hiện những dự án để tô điểm cho Rome với nhiều công trình đẹp. Ông ấy thiết lập một bản đồ chung của Đế chế cũng như con số thống kê của các tỉnh; ông ấy giao cho Varro xây dựng một thư viện công cộng lớn; ông ấy công bố dự án tháo cạn đầm lầy Pontine”. Cho dù còn quá sớm để nói liệu những thiết chế mà Napoleon đã thiết lập có tồn tại lâu dài như di sản của Caesar hay không, song rõ ràng ông đã để lại những thứ mà ông gọi là “một vài khối đá hoa cương(*) như những mỏ neo trong tâm hồn Pháp.”