← Quay lại trang sách

Chương 20 IBERIA

Không có nước nào ở châu Âu mà người nước ngoài có thể can thiệp vào công việc của nó vô ích như là ở Tây Ban Nha.

• Công tước Wellington nói với Huân tước Castlereagh, năm 1820

Cuộc chiến bất hạnh đó hủy hoại tôi; nó chia tách lực lượng của tôi, nhân lên gấp bội những trách nhiệm của tôi, làm suy sụp tinh thần… Tất cả các bối cảnh tạo nên những tai họa của tôi đều gắn liền với cái nút thắt tai họa đó.

• Napoleon nói về Chiến tranh Bán đảo

⚝ ✽ ⚝

Napoleon ý thức được sự cần thiết về một trật tự xã hội mới tại Pháp dựa trên việc phụng sự quốc gia thay vì sự may rủi của xuất thân, nên khi trở về Paris vào mùa hè năm 1807, ông bắt tay vào sắp xếp lại nó. “Chính tại Tilsit mà những tước vị chính của một giới quý tộc mới đã được thiết lập”, Anatole de Montesquiou, con trai Chánh thị thần của Napoleon, người khi đó là sĩ quan pháo binh dưới quyền Davout, nhớ lại. “Trong một thời gian dài, mọi chính phủ châu Âu đều chê trách Hoàng đế về việc thiếu các tước vị quanh ông. Theo họ, điều này mang lại cho Pháp một diện mạo có vẻ cách mạng”. Binh đoàn Danh dự ít nhiều đã đi tới thiết lập một hệ thống đặc quyền mới dựa trên năng lực, nhưng không thể cung cấp nền tảng cho cả một hệ thống xã hội. Vào tháng Năm năm 1802, Napoleon đã phàn nàn rằng huân chương mới của ông sẽ chỉ như “những hạt cát rời rạc” trừ phi nó được neo lại “bởi vài tảng đá hoa cương”. Là một sĩ quan quân đội, đương nhiên đầu óc ông hướng tới một hệ thống thứ tự về cấp bậc và tước vị, song ông cũng muốn tránh những khiếm khuyết tai hại của Chế độ cũ – những khiếm khuyết về thừa kế và đặc quyền tư pháp. Như vẫn vậy, ông nhìn vào thế giới cổ đại để tìm chỉ dẫn. “Một ông hoàng chẳng đạt được gì từ việc xóa bỏ giới quý tộc”, sau này ông viết trong Những cuộc chiến tranh của Caesar , “ngược lại ông ta đưa mọi thứ trở lại trật tự bằng cách để nó tồn tại ở trạng thái tự nhiên của mình, bằng cách khôi phục những gia tộc cũ dưới những nguyên tắc mới.”

Vào tháng Ba năm 1808, các tước vị bá tước, nam tước, và hiệp sĩ của Đế chế được lập ra. Bằng cách tạo nên một giới quý tộc dựa trên năng lực – trong đó 20% xuất thân từ tầng lớp lao động và 58% từ tầng lớp trung lưu – Napoleon đã kiểm soát được tham vọng phụng sự đất nước của người Pháp mang phẩm chất cách mạng. Ông không coi sự tái lập tầng lớp quý tộc là mâu thuẫn với tinh thần của Cách mạng. “Người Pháp chiến đấu vì một điều duy nhất: bình đẳng trong mắt pháp luật”, ông nói với Cambacérès. “Giờ đây, giới quý tộc của ta, như phong cách của họ, trên thực tế không phải là giới quý tộc, vì nó không hề có đặc quyền hay kế vị thế tập… sự kế vị thế tập của nó phụ thuộc vào ý chí của bậc quân chủ thông qua việc xác nhận tước vị cho con trai hay cháu của người giữ tước vị đã quá cố”. Không giống như bất cứ đâu ở châu Âu, vị thế quý tộc của một gia đình Pháp đơn giản sẽ biến mất nếu thế hệ kế tiếp thể hiện không đủ để xứng đáng được chuyển tiếp nó. Những tước vị mới của Napoleon do đó tương ứng với khái niệm quý tộc một đời của Anh, mà mãi tới năm 1958 mới được thể chế hóa.

Những gì được mô tả là sự “tái lập thứ bậc” trong đời sống Pháp bao gồm một quá trình tái tổ chức triệt để hệ thống xã hội. Trên đỉnh là các sĩ quan quân đội cao cấp, bộ trưởng, thành viên Hội đồng Đế chế, tỉnh trưởng, chủ tịch các hội đồng địa phương, thẩm phán cao cấp, thị trưởng các thành phố lớn, và một số ít học giả, chuyên gia, và nghệ sĩ. Dưới họ là hơn 30.000 thành viên của Binh đoàn Danh dự. Thấp hơn nữa là 100.000 quận trưởng, thị trưởng các thành phố nhỏ hơn, quan chức thuộc các ngành giáo dục, tư pháp, và hành chính của nhà nước, thành viên các hội đồng địa phương, các phòng thương mại, thành viên của các hội đồng quận, và các quan chức, nhân sĩ khác. Những người này chính là “những tảng đá hoa cương” của Napoleon. Nằm sâu trong lòng cuộc Cách mạng Pháp là những hạt giống tạo nên sự hủy diệt của chính nó, bởi các khái niệm tự do, bình đẳng, và bác ái vốn loại trừ lẫn nhau. Một xã hội có thể được hình thành quanh hai trong ba khái niệm, nhưng cả ba thì không bao giờ. Tự do và bình đẳng, nếu chúng được xem xét một cách nghiêm túc, sẽ xóa sạch bác ái; bình đẳng và bác ái sẽ dập tắt tự do; và bác ái cùng tự do chỉ có thể có được bằng cách hy sinh bình đẳng. Nếu kết quả bình đẳng tuyệt đối là mục đích tối hậu, như đã là vậy với phái Jacobin, nó sẽ nghiền nát tự do và bác ái. Với việc sáng lập ra một tầng lớp quý tộc mới, Napoleon đã xóa đi khái niệm bình đẳng đó, và thay vào đấy là thể hiện trong chính thể Pháp khái niệm về bình đẳng trước pháp luật mà ông hoàn toàn tin tưởng vào.

Dưới Chế độ cũ, giới quý tộc ở mọi nơi có số lượng dao động giữa 80.000 và 400.000 người; dưới thời Napoleon con số này trở nên chính xác và hạn chế hơn nhiều. Năm 1808, ông phong tước quý tộc cho 744 người, 1809 là 502, 1810 là 1.085, 1811 là 428, 1812 là 131, 1813 là 318, và 1814 là 55. Như vậy, trong khi vào năm 1789 cứ 10.000 người Pháp có bảy quý tộc thì đến năm 1814 chỉ có một trên mỗi 10.000 người. Trong số 3.263 quý tộc được Napoleon phong tước, 59% là quân nhân, 22% là viên chức, và 17% là nhân sĩ. Một số bác sĩ, nhà khoa học, nhà văn, và nghệ sĩ cũng được phong tước quý tộc.(*) Không dưới 123 trong số 131 tỉnh trưởng của Napoleon được phong tước quý tộc, còn Tòa Thượng thẩm Paris có tới bốn bá tước, ba nam tước, và 11 hiệp sĩ. Vào năm 1811, trừ ba người, tất cả các đại sứ đều là quý tộc. Hệ thống này cũng cho phép Napoleon làm sống mãi tên của các chiến thắng, bằng đất phong và tước vị mang các tên gọi như Castiglione, Auerstädt, Rivoli, và Eckmühl.(*)

Tách biệt với tầng lớp quý tộc mới, cho dù thường xuyên xen kẽ với nó, ông cũng đưa ra tầng lớp những người được trợ cấp vào năm 1806, theo đó các thần dân trung thành, các donataire , nhận được đất đai và tài sản tịch thu từ kẻ thù bị đánh bại tại các vùng lãnh thổ chinh phục được. Kèm với chúng thường là các khoản niên bổng, thường tới từ Italy, Đức, và sau này cả Ba Lan. Đến năm 1815 có 6.000 người nhận được những quà tặng bằng đất đai như thế, với tổng trị giá 30 triệu franc.

Việc lập nên giới quý tộc của đế chế cũng song hành với thái độ cứng rắn hơn trước những bất đồng quan điểm nội bộ của Napoleon. Ngày 9 tháng Tám năm 1807, ông nói tại một cuộc họp bất thường của Hội đồng Nhà nước rằng ông muốn Cơ quan Tư pháp, “mà tên gọi và mục đích của nó có vẻ xa lạ với một chính thể quân chủ”, phải bị giải thể. Việc này được thực hiện gọn ghẽ bằng một sắc lệnh sau đó 10 ngày. Một thiểu số thành viên của Cơ quan Tư pháp đã phát biểu và bỏ phiếu chống lại Giáo ước, Binh đoàn Danh dự, nhiều điều khoản của Luật Dân sự và bản tuyên bố thành lập Đế chế. Cho dù Cơ quan Tư pháp được thành lập nhằm mục đích lắng nghe những chính kiến khác biệt, nhưng Napoleon ngày càng thiên về cái nhìn của một sĩ quan quân đội trước những sự biểu lộ bất đồng quan điểm này trong hàng ngũ các nhà lập pháp; quả thực đáng chú ý khi một cơ quan như vậy đã tồn tại được dưới quyền ông tới tận tám năm. Savary giải thích trong hồi ký của mình rằng Napoleon không bao giờ bận tâm về chuyện người khác bất đồng với mình, chừng nào họ còn làm thế với tinh thần trung thành và cá nhân: “Ông không bao giờ thù hằn bất cứ ai thẳng thắn bày tỏ sự đối lập với quan điểm của mình; ông thích quan điểm của mình được bàn luận”. Trong khi ông thích bàn luận về quan điểm của mình với Cambacérès và Hội đồng, ông lại ít hào hứng hơn về việc các thành viên Cơ quan Tư pháp như Constant, Daunou, và Chénier làm điều đó. “Hãy để mắt tới Benjamin Constant”, ông nói với Cambacérès về kẻ tán gái trứ danh, “nếu ông ta xen vào bất cứ chuyện gì, ta sẽ đưa ông ta tới Brunswick ở bên cạnh bà vợ ông ta”. Cùng thời điểm ban hành sắc lệnh giải thể Cơ quan Tư pháp, Napoleon nâng giới hạn độ tuổi tối thiểu cho mọi thành viên cơ quan lập pháp lên 40. Bản thân ông vẫn chỉ mới 38 tuổi.

•••

Ngay khi trở lại Paris, Napoleon đã tập trung vào việc cải thiện nền tài chính Pháp, một nhiệm vụ được trợ giúp đắc lực từ những chiến thắng trước đó không lâu của ông. Tháng chín năm 1807, Daru lập một bản danh sách chi tiết về tiền mặt và cung ứng hàng hóa mà 22 thành phố Phổ phải trả như một phần của thỏa thuận tại Tilsit, gồm 72.474.570 franc và 7 centime tiền mặt, cùng 30.994.491 franc và 53 centime giá trị hàng hóa. Sau khi các khu vực khác được thêm vào, tổng giá trị lên tới trên 153 triệu franc. Số tiền này, cũng như việc ban bố hòa bình, đã tạo ra sự tăng vọt về niềm tin vào chính quyền của Napoleon trên Sở giao dịch Chứng khoán Paris: 5% trái phiếu chính phủ, vốn được giao dịch ở mức 17,37 vào tháng Hai năm 1800, đã vọt lên 93 vào ngày 27 tháng Tám năm 1807, rồi sau đó ổn định ở quanh 85.

Giai đoạn khi trở về sau cái mà ông gọi là chiến tranh Ba Lan không hoàn toàn thuận lợi cho Napoleon. Ngày 4 tháng Mười năm 1807 ông được ghi nhận là đã chuyển 30.000 franc cho Nữ bá tước de Barral, người phụ trách trang phục của Pauline và là vợ của một thị thần nổi tiếng phóng túng của Jérôme tại Westphalia. Ông cũng thể hiện bản tính thích kiểm soát của mình khi ra lệnh bắt giam ông Kuhn, Lãnh sự Mỹ tại Genoa vào tháng Chín năm 1807, vì đã đeo Huân chương Malta do người Anh trao cho ông này. Cùng tháng đó, ông yêu cầu được biết những nhà quý tộc Bordeaux nào và tại sao đã tẩy chay buổi vũ hội của Thượng nghị sĩ Lamartillière. Ông thậm chí còn đảm nhiệm vai trò thám tử nghiệp dư trong một vụ án mạng bí hiểm, chỉ thị cho Fouché mở lại cuộc điều tra một vụ đầu độc xảy ra từ tháng Năm năm 1805 liên quan tới “một người nào đó có tên Jean-Guillaume Pascal, đến từ Montpellier. Tên khốn này được cho là đã sát hại vợ hắn”. Napoleon ra lệnh cho cảnh sát thẩm vấn em vợ của Pascal, và một cuộc khám nghiệm được tiến hành trên con chó của cặp vợ chồng mà ông nghi ngờ có thể cũng đã bị đầu độc.

Sau một thời gian vắng mặt vì đi chiến dịch lâu như vậy, lần đầu tiên ông được tận hưởng cuộc sống gia đình trong gần một năm. Hồi Napoleon còn ở Ai Cập, Josephine đã vay tiền để mua Malmaison, một lâu đài đẹp đẽ cách Paris hơn 11 km về phía tây, và bà cùng Napoleon đã chia thời gian của họ giữa nơi này và Tuileries. Với một chuồng chim, một nhà ấm trồng cây dành cho các loại cây ngoại lai, một ngôi lầu hóng mát mùa hè, một cái tháp, một “ngôi đền tình yêu”, ruộng nho, và các cánh đồng nằm kề sông Seine, bất động sản Malmaison có tới 120 héc-ta vườn, rừng, và cánh đồng, cùng một bộ sưu tập tượng tuyệt đẹp.(*) Josephine cũng có tại đây một vườn thú với chuột túi, chim, sóc bay, linh dương, đà điểu, lạc đà không bướu, và một con vẹt mào chỉ biết nói mỗi một từ (‘Bonaparte’) mà nó nhắc đi nhắc lại không ngừng. Thỉnh thoảng bà lại để một con đười ươi cái mặc chiếc sơ mi trắng ngồi ăn củ cải cùng khách của mình tại bàn. Napoleon mang những con linh dương về từ Ai Cập, và thỉnh thoảng cho chúng hít thuốc lá.(*) “Chúng rất thích thuốc lá”, thư ký riêng của ông nhớ lại, “và có thể hít sạch cả hộp trong một phút mà chẳng làm sao cả”. Mặc dù Napoleon giữ một khẩu súng săn trong phòng làm việc của mình tại Malmaison, và thỉnh thoảng ông dùng nó để bắn chim từ một cửa sổ mở, nhưng Josephine thuyết phục ông không bắn vào những con thiên nga của bà. (Có khả năng là ông đã bắn trượt; hầu phòng Grégoire nhớ lại rằng ông “đã không tì khẩu súng trên vai đúng cách, và vì Hoàng đế yêu cầu nhồi chặt thuốc, nên cánh tay ngài luôn ám đen sau mỗi phát súng”. Có lần, ông phải bắn bảy phát mới hạ được con hươu đã bị dồn vào một góc.)

Ở thời điểm đỉnh cao, gia sản của Napoleon bao gồm 39 cung điện,(*) gần như là một quốc gia trong một quốc gia, cho dù ông chưa bao giờ tới thăm một số nơi trong đó. Lấy Louis XIV làm hình mẫu của mình, ông tái lập các lễ cầu kinh, các bữa ăn và tiếp tân buổi sáng trước công chúng, các lễ hội âm nhạc và nhiều màn trình diễn khác về Vua Mặt Trời. Ông tin chắc rằng những biểu hiện bề ngoài của sự tráng lệ sẽ tạo nên cảm giác kính phục từ dân chúng – “Chúng ta cần nói với những đôi mắt” ông nói – cũng như cổ vũ ngành công nghiệp sản xuất hàng xa xỉ của Pháp. Các cung điện có ngân sách hằng năm 23 triệu franc, lớn hàng thứ sáu trong tất cả các chi tiêu công của Pháp. Tổng cộng, ông đã tập hợp được 54.514 viên đá quý trong kho tàng cá nhân của mình, được ông nhìn nhận là không thể tách rời khỏi ngân khố Pháp (cho dù chuyện đó chẳng có gì bất thường: danh sách các khoản chi tiêu công của Anh chỉ bắt đầu được thiết lập từ năm 1760).(*)

Khi ông đi vòng quanh Pháp, tùy tùng của ông đi trên 60 cỗ xe ngựa trong một nỗ lực có chủ ý để gây ấn tượng, không khác gì việc ngày nay đoàn xe của Tổng thống Mỹ có thể lên tới 45 chiếc, một phép ẩn dụ bằng hình ảnh cho quyền lực của vị trí này. Tuy nhiên, trong đời sống riêng, ông duy trì sự giản dị của một sĩ quan quân đội xuất thân từ quý tộc nhỏ, điều vẫn luôn thể hiện con người đích thực của ông. “Khi tiếp khách từ ngai của mình”, Chaptal nhớ lại, “ông ấy xuất hiện rất xa hoa. Các huân chương ông ấy đeo được cẩn những viên kim cương rất đẹp, tương tự với chuôi kiếm của ông ấy, dây ngù và khuy trên mũ cùng khóa mũ của ông ấy. Những thứ trang phục này chẳng mấy phù hợp với ông ấy, ông ấy có vẻ khó chịu, và thường cởi bỏ chúng ra ngay khi ông ấy có thể”. Trang phục hằng ngày của ông thường là quân phục bình thường màu xanh dương của một đại tá thủ pháo thuộc Cận vệ Đế chế, hoặc quân phục màu xanh lục của khinh kỵ cũng thuộc lực lượng này, và khi biết không thể tìm ra thứ vải màu xanh lục như thế trên đảo St Helena, ông đã đơn giản lộn ngược mặt vải trong áo khoác của mình ra ngoài.

Sự đối lập giữa chuyện vắng bóng trang sức trên trang phục cá nhân của Napoleon ngoài những dịp nghi lễ trọng thể, với sự hào nhoáng về trang phục của những người ở quanh ông đã được nhiều người ghi nhận, đúng như chủ ý của việc tạo ra nó; quả thực Denon đã chỉ thị cho họa sĩ François Gérard “Chú ý nhấn mạnh sự lộng lẫy trên quân phục các sĩ quan ở quanh Hoàng đế, để điều này đối lập với sự giản dị ông ấy thể hiện và do đó lập tức làm ông ấy nổi bật lên giữa họ”. Đại úy Blaze cũng nhận xét rằng “Chiếc mũ nhỏ của ông ấy và chiếc áo khoác khinh kỵ màu xanh lục làm ông ấy nổi bật giữa đám đông các ông hoàng và tướng lĩnh đầy những kim tuyến trang hoàng trên từng đường chỉ”. Ngoài huân chương Binh đoàn Danh dự, Napoleon còn đeo huy chương Vương miện Sắt Italy của mình, nhưng ngoài ra ông không đeo thêm bất cứ huân huy chương nào trong số rất nhiều cái được trao tặng, một sự trưng diện có thể sẽ thu hút sự chú ý của một xạ thủ bắn tỉa trên chiến trường (một sự lưu tâm Nelson đáng lẽ cũng nên cân nhắc tới). Năm 1811, một danh sách tất cả trang phục của Napoleon được lập, bao gồm chỉ có chín áo khoác (để dùng trong ba năm), hai áo ngủ, 24 đôi tất lụa, 24 đôi giày, và bốn chiếc mũ. “Không được chi tiêu bất cứ khoản nào ngoại trừ sau khi được Hoàng thượng tán thành”, bản danh sách ghi chú, và khi thị thần-Bá tước Charles de Rémusat chi tiêu quá nhiều cho tủ quần áo của Napoleon, ông ta đã bị bãi chức.

Mọi thứ trong việc tổ chức các cung điện của Napoleon đều xoay quanh công việc. Bữa tối được dọn lúc 6 giờ nhưng ông thường xuyên bỏ lỡ nó, thay vì thế ăn vào bất cứ lúc nào công việc cho phép; hàng tá gà được đưa lên xiên cả ngày để lúc nào cũng có một con sẵn sàng cho ông (khó mà phù hợp với mong muốn tiết kiệm của ông). Ông ăn bất cứ đồ ăn nào được mang tới cho mình, không theo thứ tự nào cụ thể. Ông không phải là người kén ăn, và rất thích ăn mì ống. “Napoleon thích những món ăn đơn giản nhất”, một trong những thị thần của ông nhớ lại, “ông không uống rượu vang nào khác ngoài Chambertin, và hiếm khi không pha loãng”. Ngay cả Chambertin cũng không phải luôn là loại ngon nhất; khi được hỏi quan điểm của mình, Augereau đánh giá, “Tôi còn biết nhiều hơn”. Thứ rượu mạnh được đặt tên Napoleon quả thực không thích hợp chút nào vì ông không bao giờ uống rượu mạnh, và có thói quen uống một tách cà phê sau bữa sáng và một tách nữa sau bữa tối. Không có bằng chứng nào được biết rõ về việc ông từng say. Napoleon thừa nhận ông không phải là người thích ăn ngon. “Nếu ông muốn ăn một bữa tối ngon lành, hãy ăn với Cambacérès”, ông nói với Tướng Thiébault trong thời kỳ còn làm Tổng tài, “nếu ông muốn ăn một bữa tối tồi, hãy ăn với Lebrun; nếu ông muốn ăn một bữa tối nhanh chóng, hãy ăn với tôi”. Nhìn chung, ông thường dành ra không đến chục phút tại bàn ăn, trừ những bữa tối gia đình vào các tối Chủ nhật, khi đó ông có thể ngồi lại tối đa nửa tiếng. “Tất cả chúng tôi đều tuân theo dấu hiệu rời bàn ăn của Hoàng đế”, một người cùng ăn tối với ông kể lại, “phong cách của ngài khi thực hiện nghi lễ này thật dứt khoát và đột ngột. Ngài sẽ bất thần đẩy cái ghế ra, rồi đứng phắt dậy như thể bị điện giật”. Napoleon đã có lần nói rằng cho dù một số người, nhất là Josephine, từng nói với ông là ông cần phải nán lại bàn ăn lâu hơn, nhưng ông coi thời gian mình trải qua ở đó “đã là một sự lạm dụng quyền lực rồi.”

Khi ở nhà cũng như trong chiến dịch, ông chỉ ngủ khi ông cần, bất kể lúc nào trong ngày. “Nếu ông ấy ngủ”, Bộ trưởng Tài chính của ông, Bá tước Molé nhớ lại, “thì chỉ vì ông ấy nhận ra sự cần thiết của giấc ngủ và vì nó tái tạo sức lực mà ông ấy sau đó sẽ cần đến”. Ông cần ngủ bảy tiếng trong 24 tiếng, song như một thư ký nhớ lại, ông ngủ “thành vài cữ ngắn, chia ra vào ban đêm cũng như ban ngày”. Vì phòng ngủ luôn ở cạnh phòng làm việc của ông tại tất cả các cung điện, nên ông có thể làm việc trong bộ đồ ngủ vào bất cứ thời điểm nào ngày cũng như đêm, cùng với các thư ký thay nhau xoay vòng để ghi lại. “Ông ấy thường thức dậy”, một thư ký khác nhớ lại, “sau một giờ ngủ, đầu óc tỉnh táo và sáng suốt như thể ông ấy đã ngủ ngon cả đêm.”

Napoleon rất giỏi trong việc phân biệt thứ tự ưu tiên, giải quyết ngay những vấn đề khẩn cấp, tập hợp các giấy tờ quan trọng nhưng không khẩn cấp thành một tập để xem xét sau đó và ném tất cả những gì ông coi là không quan trọng xuống sàn. Trong khi Louis XVIII có một con dấu chữ ký của mình, thì Napoleon luôn đọc hết các thư từ trước khi tự tay ký tên lên chúng, còn vì tốc độ đọc cho chép lại của ông đồng nghĩa với việc các thư ký có thể đôi khi viết không chính xác. “Ý tưởng xuất hiện cực nhanh”, Napoleon nói để giải thích việc ông cần các thư ký, “và thế là tạm biệt các lá thư và dòng kẻ! Giờ đây ta chỉ có thể đọc cho chép lại. Đọc cho chép lại rất thuận tiện. Nó giống như thể người ta đang hội thoại vậy”. Ông hầu như không bao giờ ngồi xuống bàn làm việc của mình, ngoại trừ để viết thư cho những người vợ và tình nhân của ông (họ là người nhận được những lá thư duy nhất ông không đọc cho chép lại) và ký các văn bản. Ba thư ký riêng của ông – Bourrienne, người giữ vị trí này từ năm 1797 tới 1802, Claude-François de Méneval (1802-1813) và Agathon Fain (1813-1815) – tất cả đều phát triển kiểu tốc ký của riêng họ để bắt kịp cơn cuồng phong từ ngữ của ông tại bàn viết nhỏ của họ, trong khi ông ngồi trên một chiếc sô-pha bọc lụa trơn trong phòng làm việc tại Tuileries, gần một tấm rèm gấp nếp che khuất ông sau lò sưởi, một cách bố trí được lặp lại ở tất cả các cung điện của ông. Nếu họ vẫn còn làm việc vào lúc 1 giờ sáng, thỉnh thoảng Napoleon sẽ dẫn thư ký của mình vi hành ra phố Saint-Honoré, tại đó họ cùng uống những tách sô-cô-la nóng. (Có lần ông phàn nàn với Cảnh sát trưởng vào sáng hôm sau rằng những ngọn đèn tại cổng cung điện đã bị hỏng: “Ông ta không thể tưởng tượng nổi làm thế nào ta phát hiện ra điều đó”.)

Mỗi thư ký và bộ trưởng của ông lại có câu chuyện riêng về trí nhớ cũng như khả năng đọc cho chép lại phi thường của Napoleon. Câu chuyện của Bộ trưởng Nội vụ Jean Chaptal về việc ông muốn thành lập một học viện quân sự tại Fontainebleau có thể được coi là một điển hình. Napoleon bảo Chaptal ngồi xuống và đọc cho chép lại 517 điều giùm ông, hoàn toàn không có ghi chú. Chaptal mất cả đêm để sắp xếp chúng lại, sau việc đó Napoleon “nói với tôi nó ổn nhưng không đầy đủ”. Có lần ông kể với Méneval là sau khi rời Brienne, ông bắt đầu làm việc 16 tiếng mỗi ngày và không bao giờ ngừng nghỉ.

Mọi thứ quanh Napoleon diễn ra với nhịp độ chóng mặt. Molé nhớ lại ông đi từ một buổi lễ cầu kinh tới một buổi tiếp kiến ban sáng tại Saint-Cloud vào mùa hè năm 1806, “bước đi nhanh nhẹn, với một đội tháp tùng là các ông hoàng ngoại quốc và… các quan chức Pháp cao cấp, những người thở không ra hơi trong nỗ lực để theo kịp ông ấy”. Ông căm ghét việc lãng phí dù chỉ mỗi phút trong ngày, và thường xuyên thực hiện cùng lúc vài nhiệm vụ. Ông thích những cữ tắm nước nóng lâu lâu, điều ít gặp ở người châu Âu đầu thế kỷ 19, ông làm thế gần như mỗi ngày, nhưng trong một hay hai tiếng ngâm mình trong bồn tắm như thế, ông sẽ yêu cầu đọc báo hay các bài viết chính trị cho mình nghe, và ông cũng làm thế khi người hầu phòng cạo râu cho mình, và đôi khi cả trong bữa sáng. Ông gần như thích tự ngược đãi bản thân khi lắng nghe đọc báo chí Anh, thứ mà các thư ký ghét phải dịch cho ông: ông khăng khăng đòi nghe mọi thứ viết về mình, cho dù là nhục mạ. Trong những chuyến đi dài của họ bằng xe ngựa, Josephine đọc các cuốn tiểu thuyết cho ông, được lựa chọn từ bản tóm tắt những cuốn sách mới xuất bản mà ông yêu cầu tiểu thuyết gia lịch sử, nữ Bá tước de Genlis lập cho mình hằng tuần.

Cho dù ông bắt mọi người làm việc cực nhọc một cách khác thường, nhưng Napoleon rất quan tâm đến những người giúp việc cho mình, hầu như tất cả họ đều ngưỡng mộ ông. Ông quả thực là một anh hùng với những người hầu, sĩ quan phụ tá và sĩ quan liên lạc của mình, và số người phục vụ trực tiếp tình nguyện đi lưu đày cùng ông đông hơn nhiều số mà người Anh có thể cho phép, một biểu hiện đáng kể cho tài năng của ông với tư cách ông chủ. Cô Avrillon, người phục vụ cho Josephine, nhớ lại ông là người “cực kỳ lịch thiệp” và “rất rộng lượng khi ai đó phạm phải một sai sót nhỏ”. Thị thần của ông, Bá tước de Bausset, viết: “Tôi có thể thẳng thắn nói rằng hiếm có ai chừng mực trong tính cách và dễ mến trong cách cư xử như thế”. Agathon Faint nghĩ “Napoleon là một người bạn trung thành và là ông chủ tốt nhất”, không chỉ vì “ông sẵn sàng chiều lòng mọi người”. Một người đánh xe nghiện rượu được giữ lại làm việc nhiều năm sau khi anh ta lẽ ra đã bị sa thải, vì anh ta từng điều khiển một cỗ xe chở vũ khí ở Marengo.

“Tôi đã trông đợi sẽ thấy ông ấy cục cằn, và có tính khí khó lường”, Méneval nhớ lại, “thay vì thế tôi thấy ông ấy kiên nhẫn, khoan dung, dễ làm hài lòng, không đòi hỏi quá mức, vui vẻ với một sự vui vẻ thường là ồn ào và giễu cợt, và đôi khi thân thiện đầy cuốn hút”. Người thư ký duy nhất viết về Napoleon đầy phê phán là Bourrienne, vốn bị giáng chức năm 1802 vì tham nhũng nghiêm trọng. Napoleon sau này đã cho ông ta một công việc khác, Thống đốc Hamburg, nhưng Bourrienne cũng lạm dụng nó để thủ lợi cá nhân, và ông ta sau đó còn đáp lại sự tử tế của chủ nhân mình bằng nhiều năm phỉ báng.

Trong chừng mực có lúc nào đó có một buổi tối bình thường trong cuộc đời của Napoleon, nó bao gồm rất nhiều những thú vui của đời sống gia đình thị dân Pháp bình thường. Như Méneval nhớ lại:

⚝ ✽ ⚝

Napoleon khiêu vũ tại những vũ hội nhỏ tổ chức ở Malmaison vào các tối Chủ nhật, khen ngợi các con riêng của vợ về những vở kịch ngắn của họ và “tìm thấy sự cuốn hút trong đời làm cha của mình”. Ông săn hươu và lợn rừng, chủ yếu để vận động hơn là vì thú vui săn bắn, và thỉnh thoảng lại ăn gian khi chơi cờ hoặc chơi bài – cho dù ông thường trả lại tiền thắng được trong những trường hợp này. Đơn giản là vì ông không chịu nổi việc thua.

•••

Vào đầu năm 1808, Phổ đã bị khuất phục và đang có quan điểm gần gũi với Nga. Napoleon giờ đây đã có thể chuyển sự chú ý của mình sang các biện pháp để ông có thể ép Anh ngồi vào bàn đàm phán. Sau Trafalgar, đã rõ là ông không thể tái khởi động các kế hoạch tấn công, nhưng người Anh vẫn đang tích cực hậu thuẫn cho hoạt động buôn lậu trên khắp châu Âu trong nỗ lực nhằm phá hủy Hệ thống Lục địa, phong tỏa các cảng của Pháp, và không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào muốn chấm dứt chiến tranh. Vậy là Napoleon nhìn xuống phía nam với hy vọng gây tổn hại cho thương mại Anh, điều ông luôn nghĩ là chìa khóa để bắt “quốc gia của các ông chủ cửa hàng” phải quỳ gối. Kể từ tháng Mười một năm 1800, khi ông viết cho Joseph, “Tổn hại lớn nhất chúng ta có thể gây ra cho thương mại Anh sẽ là chiếm lấy Bồ Đào Nha”, thì Napoleon đã nhìn nhận đồng minh lâu đời nhất của Anh là gót chân Achilles của nước này.(*) Trong lúc đang phi nước đại qua Dresden ngày 19 tháng Bảy năm 1807, ông đã yêu cầu Bồ Đào Nha đóng cửa các cảng của họ với tàu Anh từ tháng Chín, bắt giữ tất cả người Anh tại Lisbon và tịch thu hàng hóa Anh. Bồ Đào Nha đã không trả khoản bồi thường mà mình đồng ý trả khi cầu xin hòa bình năm 1801. Nước này cho phép tàu Anh vào các cảng của mình để mua rượu vang, mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của mình, và có những thuộc địa rộng lớn cùng một hạm đội đáng kể, song quân đội chỉ có 20.000 người. Nước này được cai trị bởi Vương hầu João, lười biếng, béo phì, trì độn nhưng chuyên chế, bà vợ người Tây Ban Nha Carlota của ông ta đã tìm cách lật đổ chồng vào năm 1805.

Sau khi người Pháp tấn công Etruria ngày 29 tháng Tám năm 1807 để tìm cách dẹp bỏ nạn buôn lậu hàng Anh thường diễn tại đây, Thủ tướng Tây Ban Nha, Don Manuel de Godoy y Álvarez de Faria, biết mình cần hợp tác với Napoleon để giành được sự đền bù thỏa đáng cho Công chúa María Luisa, là Hoàng hậu của Etruria và là con gái của Vua Tây Ban Nha Charles IV, có chồng là Vua Louis I đã qua đời vì động kinh vào tháng Năm năm 1803. Napoleon không thích và không tin tưởng Godoy; vào năm 1801, khi Godoy yêu cầu Lucien một bức chân dung của Napoleon, ông đã vặn lại: “Anh sẽ không bao giờ gửi chân dung mình cho một kẻ đã giam giữ người tiền nhiệm của hắn trong hầm [Godoy đã cầm tù Thủ tướng trước, Bá tước Aranda, sau một thất bại của Tây Ban Nha trước bàn tay người Pháp năm 1792] và là kẻ làm theo những thói tục của Tòa án Dị giáo. Anh có thể sử dụng hắn, nhưng anh không có gì dành cho hắn ngoài sự khinh bỉ”. Ông hết sức nghi ngờ khi Godoy huy động quân đội Tây Ban Nha vào cùng ngày diễn ra trận Jena, chỉ để rồi lại nhanh chóng bãi bỏ lệnh đó khi biết kết cục của nó. Godoy cho rằng sẽ là khôn ngoan khi cho phép quân Pháp đi qua Tây Ban Nha để tấn công Bồ Đào Nha.

Trên hết, Bồ Đào Nha phải được kéo ra khỏi ảnh hưởng của Anh”, Napoleon viết cho Vua Charles ngày 7 tháng Chín năm 1807, “để buộc nước này phải cầu xin hòa bình”. Ngày 27 tháng Mười, đại diện của Godoy ký Hiệp ước Fontainebleau, bao gồm những điều khoản bí mật về việc chia Bồ Đào Nha thành ba, miền Bắc sẽ dành cho Công chúa María Luisa như sự đền bù lại Etruria, miền Trung nằm dưới sự chiếm đóng quân sự của Pháp-Tây Ban Nha, và miền Nam trở thành lãnh địa riêng của bản thân Godoy điển trai, quỷ quyệt, bỉ ổi và phô trương, người sẽ trở thành Vương hầu xứ Algarves. Ông ta vốn đã mang danh xưng Vương hầu Hòa bình có tính tự đề cao bản thân, nó nhắc tới Hiệp ước Basle mà ông ta đã thương lượng với Pháp năm 1795. (Ông ta thích danh xưng này hơn biệt danh quen thuộc “Thợ làm Xúc xích” bám chặt lấy mình, vì ông ta quê ở Estremadura, trung tâm nuôi lợn của Tây Ban Nha.) Hiệp ước đảm bảo toàn vẹn các lãnh thổ của Charles IV và sẽ cho phép ông ta mang danh xưng “Hoàng đế của Hai châu Mỹ.

Napoleon phê chuẩn Hiệp ước ngày 29 tháng Mười, thời điểm mà quân Pháp đã tiến sâu vào bán đảo Iberia. Ngày 18 tháng Mười, Junot đã vượt sông Bidasoa vào Tây Ban Nha trên đường tới Bồ Đào Nha. Ông ta không gặp bất kỳ sự kháng cự nào kể cả tại Lisbon, và ngày 29 tháng Mười một hoàng gia Bồ Đào Nha kịp trốn thoát tới Rio de Janeiro trên các chiến hạm của Hải quân Hoàng gia Anh, bị đám đông phản đối la ó trên cầu cảng vì sự tháo chạy của họ. Napoleon lệnh cho Junot đảm bảo rằng các kỹ sư công binh của ông ta vẽ lại được các tuyến đường Tây Ban Nha trên đường hành quân. “Hãy cho ta thấy khoảng cách giữa các làng, thiên nhiên của đất nước này, và các nguồn lực của nó”, ông viết, cho thấy ngay từ thời điểm đó ông đã cân nhắc tới việc tấn công đồng minh của mình.

Nền chính trị của Tây Ban Nha đang quá mục nát, còn triều đại Bourbon Tây Ban Nha thì quá sa đọa và bệnh hoạn, tới mức ngôi báu của họ có vẻ đã đến lúc chín muồi để đoạt lấy. Charles IV và người vợ độc đoán của mình, María Luisa xứ Parma, đều căm ghét Ferdinand Hoàng tử xứ Asturias, là con trai cả 24 tuổi và là người kế vị của họ (sau này là Ferdinand VII), cảm xúc này cũng được đáp lại hoàn toàn tương xứng. Cho dù ông ta có cả vợ lẫn nhân tình sống trong nhà mình, nhưng Godoy cũng là nhân tình của Hoàng hậu. Nhà vua tỏ ra cam chịu tới mức khi Godoy chặn một lá thư từ Napoleon gửi Charles cảnh báo ông ta về việc Godoy cắm sừng ông ta vài năm trước, nhưng ông ta đã đơn giản cho qua. Quyền lực của Godoy tại Tây Ban Nha lớn tới mức ông ta được phong đô đốc mà không cần lấy một lần ra biển. Ferdinand, một người cũng yếu đuối và nhu nhược như cha mình, căm ghét Godoy, một cảm xúc tương đồng từ cả hai phía. Thực tế Godoy bị căm ghét trên toàn Tây Ban Nha vì ông ta đã đưa đất nước lâm vào tình trạng thê thảm năm 1808, và nhất là vì để mất các thuộc địa vào tay Anh, thảm họa tại Trafalgar (nơi Tây Ban Nha mất 11 chiến hạm chủ lực), nền kinh tế yếu kém, tham nhũng, nạn đói, việc bán đất nhà thờ, bãi bỏ đấu bò tót, và thậm chí vì dịch sốt vàng da bùng phát ở miền Nam.

Một viễn cảnh đầy cám dỗ tự nó xuất hiện vào tháng Mười năm 1807, khi Ferdinand viết cho Napoleon – hay đúng hơn là cho “người anh hùng đã làm lu mờ tất cả những người đi trước mình”, như Hoàng tử này nịnh nọt tôn xưng – đề nghị được kết hôn với thành viên nhà Bonaparte. Cha của ông ta đã cho bắt giữ ông ta vì tội phản nghịch (dưới những cái cớ giả tạo) vào tháng đó, chỉ để rồi thả ông ta ra đầy miễn cưỡng, còn Ferdinand nhiều khả năng muốn qua mặt cha mẹ mình cũng như bảo vệ ngôi báu khỏi một cuộc xâm lăng của Pháp. Lẽ ra đây đã có thể là giải pháp lý tưởng, giúp Napoleon tránh khỏi thứ mà sau này ông gọi là “khối ung nhọt Tây Ban Nha”, nhưng ứng viên tốt nhất, đứa cháu gái lớn tuổi nhất của ông là Charlotte con gái của Lucien mới 12 tuổi. Trong thời gian ngắn ngủi lưu lại triều đình của Napoleon, cô bé đã viết vài lá thư cho cha mẹ ở Rome phàn nàn về sự đồi bại của triều đình này và xin được về nhà, và Napoleon, người đã chặn những lá thư ấy, đã nhượng bộ.(*)

Ngay khi Junot chiếm được Lisbon, ông ta chính thức phế truất hoàng tộc Braganza đang vắng mặt và tịch thu tài sản của họ, áp đặt một khoản “đóng góp” 100 triệu franc, và ban hành một bản hiến pháp bao gồm bao dung tôn giáo, bình đẳng trước pháp luật, và tự do cá nhân. Ông ta tuyên bố đường xá sẽ được xây dựng, các tuyến kênh sẽ được đào, công nghiệp và nông nghiệp sẽ được cải thiện, giáo dục công sẽ được trợ giúp, song người Bồ Đào Nha vẫn hoài nghi. Napoleon ra sắc chỉ rằng quân của Junot sẽ nhận được một chai vang Bồ Đào Nha mỗi ngày ngoài khẩu phần thường lệ của họ.

Với Bồ Đào Nha có vẻ đã được bình định, Napoleon gửi quân dưới quyền Murat tới miền Bắc Tây Ban Nha vào tháng Một năm 1808, bề ngoài là để giúp Junot, song trên thực tế là để chiếm lấy các pháo đài lớn ở San Sebastián, Pamplona, Figueras, và Barcelona, tất cả đều với sự ủng hộ của Godoy, người quyết tâm trở thành một vị quân chủ thực thụ theo các điều khoản bí mật của Hiệp ước Fontainebleau. Tây Ban Nha bị xâm lăng về mọi mặt chỉ trừ trên danh nghĩa, với sự hỗ trợ của Thủ tướng nước này. Đến 13 tháng Ba, Murat đã ở Burgos cùng 100.000 quân, và tiến về Madrid. Để đánh lừa người Tây Ban Nha, Napoleon ra lệnh “phát tán rộng rãi thông tin rằng đó là một phần trong kế hoạch của ta… vây hãm Gibraltar và tiến sang châu Phi”.(*)

Tối 17 tháng Ba năm 1808, Godoy đã bị lật đổ bởi “cuộc bạo động Aranjuez”, một sự nổi dậy của quần chúng ở cách Madrid 40 km về phía nam, nơi gia đình hoàng tộc có cung điện mùa đông, được thổi bùng lên bởi tin đồn ông ta đang lên kế hoạch đưa nhà vua và hoàng hậu sang châu Mỹ qua đường Andalusia. Một đám đông ùa vào nhà Godoy để hành hình ông ta, song ông ta đã ẩn nấp thành công trong một tấm thảm được cuộn lại (hoặc có thể là một  tấm thảm rơm nào đó). Hoàng tử Ferdinand ủng hộ cuộc nổi dậy, và hai ngày sau Charles IV thoái vị. Trước đó một ngày, ông ta đã buộc phải bãi chức Godoy một cách miễn cưỡng, dẫn tới những cuộc ăn mừng rầm rộ tại Madrid. “Ta đã rất sẵn sàng cho một số thay đổi ở Tây Ban Nha”, Napoleon nói với Savary khi nghe tin, “song ta tin rằng ta thấy mọi việc đang đi theo một lộ trình khác với điều ta trông đợi”. Nhìn thấy một cơ hội để mở rộng ảnh hưởng của mình, Napoleon đã từ chối công nhận Ferdinand là vua, nói rằng Charles từng là một đồng minh trung thành của ông.

Vì tuyệt vọng, muốn có thức ăn và nước uống sau 30 tiếng lẩn trốn, nên Godoy tìm cách nộp mình cho nhà chức trách, nhưng đám đông đã tóm lấy ông ta, làm ông ta gần như bị mù một bên mắt và bị thương vào hông, song dẫu sao ông ta còn bị bắt khi vẫn sống. Bộ trưởng Tài chính của ông ta thì bị sát hại tại Madrid, nhà cửa của gia đình và bạn bè ông này thì bị đám đông cướp phá trước khi chuyển sang các cửa hàng bán rượu vang. Vào lúc đó, Napoleon đang được công chúng Tây Ban Nha và báo chí Anh nhìn nhận là người chủ mưu cuộc bạo động, dù không phải thế. Tuy vậy, ông sẽ cố gắng khai thác cơ hội mà điều này tạo ra bằng cách khiến cho các phe phái chống lại nhau. Tây Ban Nha quá quan trọng về mặt chiến lược và kinh tế nên không thể cho phép nằm lại trong tay Ferdinand, người mà Napoleon nghi ngờ chỉ là con tốt trong tay các quý tộc phản kháng và các phần tử thuộc Giáo hội (điều này ông đúng) và đang có liên minh bí mật với người Anh (điều này thì ông sai vào thời điểm ấy).

Napoleon khó có thể chấp nhận để một tình trạng hỗn loạn xảy ra tại biên giới phía nam của mình, đặc biệt khi quốc gia này cho tới lúc đó vẫn luôn đều đặn cung cấp cho ông 5 triệu franc mỗi tháng, và ngay cả sau trận Trafalgar vẫn sở hữu một lực lượng hải quân lớn mà ông sẽ cần đến nếu có lúc nào đó muốn làm sống lại giấc mơ tấn công Anh của mình. Quyền lực vốn không thích có khoảng trống, và nhà Bourbon – vốn đã cai trị Tây Ban Nha mới chỉ từ năm 1700, khi được louis XIV dựng lên – quả thực đã tạo ra điều đó. Như đảo chính ngày 18 tháng Sương mù đã cho thấy, Napoleon hoàn toàn sẵn sàng và có khả năng thực hiện một cuộc đảo chính nếu ông cho rằng nó có lợi.

Giờ đây, sau Tilsit, Đại quân không có nhiệm vụ nào trên lục địa ngoài việc đồn trú và vài hoạt động tiễu trừ du kích ở Calabria. “[Ta] đã không tấn công Tây Ban Nha nhằm đưa một người trong gia đình [mình] lên ngôi báu”, Napoleon sau này tuyên bố vào năm 1814, “mà để cách mạng hóa nó; để biến đất nước này thành một vương quốc của luật pháp, để xóa bỏ Tòa án Dị giáo, các quyền phong kiến, và những đặc quyền bất thường của một số tầng lớp”. Ông hy vọng là công thức hiện đại hóa, thứ đã có vẻ được thực hiện rất tốt tại Italy, Bỉ, Hà Lan, và những phần thuộc miền Tây Liên bang sông Rhine, có thể cũng sẽ khiến người Tây Ban Nha chấp nhận sự cai trị của ông. Tất nhiên trong tất cả chuyện này cũng có không ít lý giải duy lý khi sự đã rồi, song ông đã chân thành kỳ vọng các cải cách của mình được chào đón với một số tầng lớp tại Tây Ban Nha, và ở một mức độ nhất định đúng là như vậy. Phủ nhận việc mình thèm muốn sự giàu có từ thuộc địa Mỹ Latin rộng lớn của Tây Ban Nha, ông nói rằng tất cả những gì mình cần là 60 triệu franc mỗi năm để Pháp hóa Tây Ban Nha. Tuy nhiên, bất chấp khát vọng này, đây sẽ là một cuộc chiến tranh để thiết lập triều đại, không giống bất cứ cuộc chiến nào trước đó của ông, và theo nghĩa đó nó đại diện cho một sự đoạn tuyệt với những cuộc Chiến tranh Cách mạng trong quá khứ.

Ngày 21 tháng Ba, Charles IV rút lại tuyên bố thoái vị với lý do hoàn toàn hợp lý là tuyên bố đó đã được đưa ra dưới sự cưỡng ép. Hai ngày sau, Murat chiếm Madrid với 50.000 quân thuộc các quân đoàn của Moncey và Dupont. Lúc đầu mọi thứ có vẻ yên bình, thậm chí cả sau khi Ferdinand đã tới Madrid trong cảnh chào đón nồng nhiệt vào hôm sau. Ferdinand có cảm giác rằng Napoleon chỉ muốn loại bỏ Godoy khỏi quyền lực, và ngày 10 tháng Tư ông rời Madrid để tới một cuộc hội kiến với Napoleon gần biên giới Tây Ban Nha ở Bayonne, nơi cha mẹ ông cũng đang tới nhưng không đi cùng nhau. Trên đường ông tới Bayonne, những người dân thường Tây Ban Nha đã cởi áo khoác của họ ra và đặt dưới bánh xe ngựa của ông để “ghi lại dấu ấn của một chuyến đi đem đến khoảnh khắc hạnh phúc nhất đời họ”, họ phỏng đoán – cũng như chính Ferdinand – rằng Napoleon sẽ thừa nhận ông ta là vị vua hợp pháp của Tây Ban Nha.

•••

Napoleon tới Bayonne ngày 15 tháng Tư năm 1808, và ở tại lâu đài Marracq gần đó, ông sẽ lưu lại đó hơn ba tháng với một đơn vị Cận vệ Đế chế đóng trại ngoài bãi cỏ. Trên chiến trường, ông luôn tìm cách giành lợi thế trước đối thủ bằng cách tấn công vào điểm bản lề nơi lực lượng địch yếu nhất: giờ đây ông sắp sửa làm điều tương tự trong cuộc đàm phán với nhà Bourbon. Sự căm ghét mà Charles và María Luisa dành cho Ferdinand con trai họ và của Ferdinand dành cho họ còn lớn hơn bất cứ cảm xúc nào mà ai trong số họ cũng cảm thấy về ông. Ông rất sẵn sàng can dự vào nỗi phiền muộn riêng tư của gia đình cực kỳ bất ổn này, và vì ông có 50.000 quân đóng tại Madrid nên không bên nào có thể trị vì nếu không có sự ủng hộ của ông. Điều này cho phép ông thực hiện một ý tưởng thực sự đáng chú ý.

Theo điều khoản của một loạt các thỏa thuận tại Bayonne, Ferdinand sẽ nhường vương miện Tây Ban Nha lại cho Charles IV cha mình, với điều kiện Charles sau đó sẽ ngay lập tức nhường ngôi cho Napoleon, rồi ông sau đó sẽ lại nhường ngôi cho chính Joseph anh trai mình. Trong khi đó, Godoy được Murat đưa ra khỏi Tây Ban Nha trước sự hân hoan của María Luisa vì giờ đây có thể ở bên ông ta, và có vẻ như thêm một quốc gia nữa lại rơi vào vạt áo nhà Bonaparte. “Trừ phi ta nhầm lẫn”, Napoleon viết cho Talleyrand ngày 25 tháng Tư, “vở bi kịch này đang ở hồi năm; đoạn kết sẽ sớm diễn ra.”

Ông đã lầm: hồi hai chỉ mới sắp sửa bắt đầu. Ngày 2 tháng Năm, với các tin đồn rò rỉ từ Bayonne và điều xấu nhất ở thời điểm này đang được chờ đợi, người dân Madrid nổi dậy chống lại sự chiếm đóng của Murat, giết chết khoảng 150 binh lính của ông ta trong cuộc bạo dộng El Dos de Mayo.(*) Như ở Pavia, Cairo và Calabria, người Pháp đàn áp tàn nhẫn cuộc nổi dậy. Tuy nhiên, họ đã không phải đối mặt với một cuộc nổi dậy thống nhất dân tộc ở Tây Ban Nha. Tại một số vùng như Aragon có rất ít sự chống đối lại sự cai quản của người Pháp, nhưng ở những vùng khác như Navarre thì hoạt động chống đối diễn ra rất nhiều. Cortes(*) ở Cadiz nhận thấy việc đánh thuế hay gọi quân dịch cũng khó khăn như Joseph sẽ nhận ra. Tây Ban Nha rộng lớn tới mức tại những tỉnh nổi dậy, các chính quyền khởi nghĩa địa phương (các junta ) có thể được thành lập khắp đất nước, và Pháp phải chiến đấu trong một cuộc chiến với cả quân đội chính quy Tây Ban Nha lẫn các toán du kích địa phương.

Quân Pháp bắt đầu bằng việc vây hãm Girona, Valencia, Saragossa, và các thành phố có tầm quan trọng chiến lược khác – trên thực tế đã có nhiều cuộc hãm thành diễn ra trong Chiến tranh Bán đảo hơn tất cả các chiến trường khác trong các cuộc Chiến của Napoleon cộng lại. Như vậy, ngay trong khi Calabria vẫn còn chưa được bình định, Napoleon đã thực hiện việc chiếm đóng một vùng lãnh thổ khác rộng lớn hơn rất nhiều, ở đó cũng có rất nhiều yếu tố tương đồng: giao thông liên lạc khó khăn, các tu sĩ Thiên Chúa giáo cuồng tín, một tầng lớp nông dân bán khai, bướng bỉnh, một vị quân chủ nhà Bourbon chính thống nhận được sự trung thành từ dân chúng hơn nhiều so với ứng viên Bonaparte, và mọi triển vọng được tái tiếp tế dễ dàng nhờ Hải quân Hoàng gia Anh. Tây Ban Nha đã bị Pháp đánh bại dễ dàng vào thời kỳ 1794-1795, và Napoleon dự đoán rằng với việc không có bất cứ tướng lĩnh hay đạo quân Tây Ban Nha xuất sắc nào, chuyện này sẽ lại xảy ra. Bất chấp trải nghiệm ở Calabria, ông đã không nhận ra rằng đôi khi một cuộc nổi dậy du kích có thể hiệu quả đến thế nào nhằm chống lại kể cả đội quân hùng mạnh và có kỷ luật nhất. Tình hình càng tồi tệ hơn với việc Napoleon can thiệp vào việc chiến đấu trong cuộc chiến tại Tây Ban Nha của các tướng lĩnh sau khi ông rời đi, điều động các đơn vị từ nơi họ đã quen thuộc với địa hình, và gửi cho các sĩ quan những mệnh lệnh chỉ tới nơi sau khi chúng đã trở nên vô nghĩa trước tình hình thực tế.

•••

“Đạn chùm và lưỡi lê đã dọn quang các đường phố”, Murat báo cáo với Napoleon từ Madrid. Sau khi cuộc nổi dậy kết thúc, Murat đã xử bắn những nhóm nông dân nổi dậy bằng các đội xạ thủ, những cảnh mà sau này được Francisco Goya biến thành bất tử trong tranh của mình và ngày nay có thể xem tại Prado. Những năm sau, thư ký của Napoleon đã thêm vào hồi ký của ông một lá thư hoàn toàn ngụy tạo của Napoleon gửi Murat từ Bayonne ngày 29 tháng Ba năm 1808, hối thúc phải thận trọng và kiềm chế. Nhiều thế hệ sử gia đã mắc lừa lá thư giả mạo Bonaparte này trước khi sự thật được phát giác, bất chấp thực tế là Napoleon mãi tới ngày 15 tháng Tư mới tới Bayonne. Tuy nhiên, Napoleon quả thực đã gửi Murat một lá thư vào ngày Dos de Mayo, viết: “Ta sẽ cho ông vương quốc Naples hoặc Bồ Đào Nha. Hãy trả lời ta ngay lập tức vì chuyện này cần diễn ra trong một ngày”. (May cho ông là Murat đã chọn Naples, vì trong vòng ba tháng sau đó một đạo quân Anh đã tới Bồ Đào Nha.)

Cho dù cuộc nổi dậy Dos de Mayo hiển nhiên có những khía cạnh ái quốc, chống Pháp, chống vô thần, và ủng hộ Ferdinand, nhưng cũng có cả những vấn đề giai cấp, sở hữu đất đai, đào ngũ, buôn lậu, chủ nghĩa vùng miền, những kẻ bất tuân pháp luật chống quân dịch, phong trào bài tăng lữ, sự thiếu thốn lương thực, và sự suy sụp về thương mại, đã khiến cuộc chiến sắp xảy ra phức tạp hơn nhiều so với bản tường thuật đơn thuần về cuộc đấu tranh giữa những kẻ xâm lược Pháp tham tàn và những người kháng chiến Tây Ban Nha anh dũng, cho dù chắc chắn là có những yếu tố này. Một số toán vũ trang đánh lại người Pháp được tổ chức tốt – như lực lượng của Juan Martín Díez ở Guadalajara và Francisco Espoz y Mina tại Navarre, nhưng nhiều nhóm khác không hơn là mấy so với các băng cướp như Napoleon đã trấn áp tại Pháp khi còn là Tổng tài Thứ nhất, và bất cứ chính quyền nào cũng sẽ trấn áp. Như trong bất cứ cuộc nổi dậy du kích nào, động cơ của một số du kích là chủ nghĩa ái quốc, số khác là báo thù cho những hành vi tàn khốc không thể chối cãi, số khác là chủ nghĩa cơ hội, và số còn lại là những băng cướp tấn công chính đồng bào Tây Ban Nha của mình. Đại úy Blaze thuộc Cận vệ Đế chế đã gặp nhiều ngôi làng mà cư dân địa phương ở đây đơn giản không phân biệt giữa quân đội Pháp với các băng cướp Tây Ban Nha.

Khi tin về Dos de Mayo được đưa tới từ Madrid, Napoleon quyết định thực hiện cái kết cục mà những người nổi dậy đã hy vọng tránh được nhất. Ngày 6 tháng Năm, sau buổi lễ kéo dài một tiếng, trong đó tất cả mọi người – kể cả Charles IV ông vua già khốn khổ bị thống phong và thấp khớp – đều phải đứng, Ferdinand VII ký Hiệp ước Bayonne, thoái vị nhường ngôi lại cho cha mình.(*) Rất muốn đứa con trai đáng ghét không thể kế vị mình, hai ngày sau Charles đã trao lại tất cả quyền lực của mình cho Napoleon và đề nghị được cư trú tại Pháp. Viết thư thuyết phục Joseph chấp nhận ngôi vua, Napoleon nói: “Tây Ban Nha không phải là Naples; nó có 11 triệu dân, thu nhập hơn 150 triệu franc, chưa kể tới nguồn thu nhập lớn từ thuộc địa và quyền sở hữu ‘toàn bộ châu Mỹ.’ Đó là vương miện đưa anh vào Madrid cách Pháp ba ngày đường, nơi che chắn cho một trong các đường biên giới của Pháp. Naples ở tận cùng thế giới”. Sau này, ông sẽ ân hận vào lúc thư nhàn, nói rằng “Tôi đã phạm sai lầm lớn khi đưa gã ngốc Joseph đó lên ngai vàng Tây Ban Nha”. Khi Joseph đăng quang tại Madrid vào tháng Bảy, Murat đã nhận lãnh vương miện Naples của ông ta, và đứa con trai lớn nhất còn sống của Louis và Hortense, Vương hầu Napoleon-Louis 3 tuổi, thế chỗ Murat làm Đại Công tước xứ Berg.

Để giữ ông ta nằm dưới sự kiểm soát của Napoleon nếu người dân Tây Ban Nha bác bỏ những dàn xếp tại Bayonne, Ferdinand ở lại dinh thự đồng quê của Talleyrand tại Valençay, ông ta để cho những người ủng hộ mình coi đấy như một sự bắt cóc và giam cầm.(*) Khi viên đại tá 28 tuổi bảnh bao Don José de Palafox thuộc đội cận vệ của Ferdinand đề nghị ông ta nên tìm cách đào thoát, Ferdinand nói ông ta thích ở lại đó để thêu thùa và cắt giấy nghệ thuật. (Khi ông ta trở lại Tây Ban Nha vào mùa xuân năm 1814, ông ta đã bãi bỏ mọi cải cách tự do của Napoleon, thậm chí thiết lập lại Tòa án Dị giáo.) “Vua Phổ là một người anh hùng nếu so sánh với Hoàng tử xứ Asturias”, Napoleon nói với Talleyrand; “ông ta dửng dưng với mọi thứ; rất thiên về vật chất, ăn bốn lần một ngày và chẳng có một ý tưởng nào trong đầu”. Napoleon yêu cầu Talleyrand làm sao để Ferdinand ưa thích Valençay. “Nếu Hoàng tử xứ Asturias trở nên gắn bó với một phụ nữ xinh đẹp, sẽ chẳng có hại gì cả”, ông viết, “nhất là nếu chi phối được cô”. Ferdinand bị ảnh hưởng bởi thứ mà ngày nay được gọi là Hội chứng Stockholm, nên ông ta đã viết thư cho Napoleon vào tháng Mười một năm 1808 để chúc mừng ông nhân một chiến thắng của Pháp trước quân đội Tây Ban Nha trong trận Tudela, và thêm lần nữa cố đề nghị kết hôn với nhà Bonaparte. Charles IV cha ông ta thoạt đầu tới Marseilles, rồi sau đó tới sống lặng lẽ tại Rome trong phần đời còn lại. Cho dù Napoleon đồng ý trả cho nhà Bourbon khoản trợ cấp 10 triệu franc hằng năm, nhưng ông cũng đảm bảo rằng tất cả sẽ được Tây Ban Nha hoàn lại, và ngay từ tháng Bảy năm 1808 đã viết cho Mollien: “Không phải vội trong việc trả trợ cấp cho Vua Tây Ban Nha – ông ta không thiếu tiền.”

Với mọi lời chỉ trích sẽ trút xuống Napoleon về cuộc cướp bóc Tây Ban Nha của ông, người ta hay quên rằng trong cùng năm đó Sa hoàng Alexander đã chiếm Phần Lan từ tay Thụy Điển trong một cuộc chiến ngắn song cũng bất chính không kém. “Ta bán Phần Lan lấy Tây Ban Nha”, như Napoleon nói, song ông đã nhận được phần tệ nhất trong cuộc trao đổi. Ông đã không cần đưa ra những lời đe dọa thẳng thừng với bất cứ ai, hay thậm chí còn chẳng phải thực sự chiến đấu để ngai vàng Tây Ban Nha rơi vào tay mình, song sai lầm của ông là đã tin rằng, như ông nói với Talleyrand hồi tháng Năm, “Người Tây Ban Nha cũng giống các dân tộc khác và không phải là một giống nòi riêng; họ sẽ vui mừng chấp nhận các thiết chế của đế chế”. Thay vì vậy, họ gọi Joseph là “El Rey Intruso” (vị vua không mời mà tới), và thậm chí trước khi ông ta tới Madrid ở đây đã nổ ra những cuộc nổi dậy quy mô lớn tại Biscay, Catalonia, Navarre, Valencia, Andalusia, Estremadura, Galicia, León, Asturias, và một phần của cả hai xứ Castile, đồng thời nhiều cảng trên bán đảo Iberia được bàn giao cho Hải quân Hoàng gia Anh. Sự nóng vội đã thắng thế trong Napoleon. Như Savary sau này thừa nhận: “Chúng ta đã vội vã đẩy câu chuyện đến hồi kết, và chúng ta đã không thể hiện đủ sự quan tâm tới lòng tự tôn dân tộc.”

Ngày 2 tháng Sáu, Napoleon tập hợp ở Bayonne tất cả các quý tộc cao cấp Tây Ban Nha mà ông có thể, để thông qua bản hiến pháp thành văn đầu tiên của thế giới nói tiếng Tây Ban Nha. Hiến pháp này bãi bỏ các đặc quyền và Tòa án Dị giáo, giữ lại Nghị viện quốc gia (Cortes) với ba cấp, và thiết lập Thiên Chúa giáo là tôn giáo duy nhất của đất nước. Nó chắc chắn thu hút những người cộng tác thân Pháp, phần lớn thuộc tầng lớp trung lưu ở các ngành nghề chuyên môn, được khai sáng và theo khuynh hướng tự do, được gọi là các josefino hay afrancesado (thân Pháp), song họ chỉ là thiểu số rất nhỏ trong dân cư của một quốc gia mà vào thời điểm đó đa số vẫn sống ở nông thôn, mù chữ, lạc hậu về kinh tế, nhiệt thành Thiên Chúa giáo, và phản động. (Các ghế tại hội đồng thành phố ở Tây Ban Nha vẫn là thế tập tới tận năm 1804 và Tòa án Dị giáo vẫn hoạt động.)

“Ta đã túm sát sạt cơ hội Định mệnh ban cho ta để phục hưng Tây Ban Nha”, Napoleon sau này nói với một trong các thư ký của ông. Có lẽ một trong những lý do khiến ông trông đợi người Tây Ban Nha sẽ cộng tác với chế độ của mình là chính bố ông cũng từng là một người cộng tác thân Pháp; nếu thế ông hẳn đã phải nhớ lại lòng căm thù thời trẻ của mình với việc Pháp chiếm đóng Corse, và hẳn đã nhìn nhận Tây Ban Nha như một đảo Corse được phóng đại. Thậm chí cả thị thần của Napoleon và là một người ngưỡng mộ ông, Bausset, cũng phải thừa nhận là bản hiến pháp được đón nhận “với sự im lặng và dửng dưng hoàn toàn” tại Tây Ban Nha bị Pháp chiếm đóng và với “sự khinh thường cay nghiệt” ở mọi nơi khác.

Ngày 25 tháng Năm, thành phố pháo đài trung cổ Saragossa, thủ phủ của Aragon, nổi dậy khởi nghĩa dưới sự chỉ huy của Đại tá Palafox, người đã trốn khỏi Pháp và ăn mặc như một nông dân. Ông ta chỉ có 220 người và số tiền Tây Ban Nha tương đương 20 bảng 6 shilling và 8 penny trong ngân khố, dẫu vậy ông ta vẫn tuyên chiến với Đế chế Pháp. Cho dù vào ngày 8 tháng Sáu tại Tudela, Tướng Charles Lefebvre-Desnouettes đã đánh tan một lực lượng do anh trai của Palafox là Hầu tước xứ Lazán chỉ huy, khi ông này tìm cách công kích Saragossa một tuần sau đó với 6.000 quân, nhưng đã bị đánh lui với 700 người thương vong; cuộc vây hãm đầu tiên thành phố 60.000 dân này bắt đầu. Khi Lefebvre-Desnouettes yêu cầu Palafox đầu hàng với hai từ “La capitulation” (Đầu hàng), Palafox đáp lại bằng ba từ: “Guerra al cuchillo” (Đánh tới lúc phải dùng dao).

•••

Cho dù một trong những lý do chính khi xâm lược Tây Ban Nha của Napoleon là tìm các