← Quay lại trang sách

Chương 22 ĐỈNH CAO

Mọi người đều biết các mối quan hệ gia đình có rất ít sức nặng trong các tính toán chính trị, và hoàn toàn vô giá trị sau 20 năm. Philip V đã phát động chiến tranh chống lại ông nội mình.

• Napoleon nói với Sa hoàng Alexander, tháng Bảy năm 1808

Các công chúa có nên yêu không? Họ là những vật sở hữu mang tính chính trị.

• Napoleon nói trên đảo St Helena

⚝ ✽ ⚝

“Nhất thiết phải có một siêu cường áp đảo các cường quốc khác”, Napoleon bày tỏ thẳng thừng, “với đủ quyền lực để buộc họ sống hài hòa với nhau – và Pháp ở vị trí phù hợp nhất cho mục đích đó”. Khi ông lên cầm quyền, dân số Pháp (khi đó lớn nhất châu Âu), sản lượng nông nghiệp, các tiến bộ khoa học, nghệ thuật opera, đồ nội thất, tranh, thiết kế, tác phẩm sân khấu và văn học, cộng với sự phổ cập của tiếng Pháp cũng như quy mô và vẻ đẹp của Paris, tất cả hợp lại để đưa nước này trở thành quốc gia dẫn đầu cũng như chiếm ưu thế tại châu Âu.

Trong niềm tin của ông về mặt tiến bộ hợp lý và về khả năng có lợi của nền độc tài, Napoleon là người cuối cùng trong các quân chủ chuyên chế Khai sáng đã xuất hiện rất thường xuyên ở châu Âu từ cuối thế kỷ 17; sự kính trọng mà ông dành cho ví dụ nổi tiếng nhất trong số này, Frederick Đại đế, cho thấy rõ rệt đặc tính này. Như nhiều người Pháp, ông tin rằng các ý tưởng hiện đại về cầm quyền có thể được phổ biến rộng khắp châu Âu qua đại diện là Đại quân. “Các vị không có gì ngoài những luật đặc thù”, ông nói với một đoàn đại biểu Italy tại Lyon năm 1805, “từ nay về sau các vị sẽ có những bộ luật chung. Nhân dân của các vị chỉ có những tập quán địa phương; họ cần phải đón nhận những tập quán quốc gia”. Với nhiều quan chức công ở Đức và Italy thì Đế chế của Napoleon, theo lời sử gia Anh H. A. L. Fisher, “đã đập tan những lớp vỏ thói quen bướng bỉnh và thay thế những quan điểm địa phương chủ nghĩa hẹp hòi, luộm thuộm, trì trệ bằng các lý tưởng phóng khoáng hình thành từ những sự kết hợp hiệu quả”. Đến năm 1810, ông đang hướng tới một Đế chế thống nhất tiến bộ với pháp luật thống nhất dựa trên Bộ luật Napoleon, chủ nghĩa thế tục khai sáng và khoan dung tôn giáo, bình đẳng trước pháp luật, và thống nhất đơn vị khối lượng, đo lường cũng như tiền tệ. Thế nhưng mô hình quản lý hành chính Pháp đơn giản là hầu như không bao giờ được áp đặt lên lãnh thổ bị chinh phục, kể cả khi đã được thích ứng một cách khéo léo với những hoàn cảnh hiện hành tại địa phương. Chẳng hạn, ở Bavaria và Baden, các nhà cầm quyền đã hoàn toàn tái cấu trúc cơ cấu nhà nước theo mô hình Napoleon, trong khi tại Mecklenburg và Saxony ít thân Pháp, gần như không có cải cách nào được thực hiện.

Sự ủng hộ chính trị dành cho Napoleon tại các lãnh thổ bị sáp nhập tới từ nhiều thành phần dân cư: giới tinh hoa thành thị không muốn trở lại với sự cai trị của các thiết chế cầm quyền chính thống tại địa phương, các nhà cải cách hành chính đánh giá cao sự hiệu quả, các thiểu số tôn giáo như người theo đạo Tin Lành và người Do Thái vốn được pháp luật bảo vệ quyền lợi, những người theo khuynh hướng tự do tin vào những nguyên tắc như giáo dục thế tục và quyền tự do ly hôn, người Ba Lan và những dân tộc khác đang hy vọng có quyền tự quyết dân tộc, các thương nhân (ít nhất cho tới khi Hệ thống Lục địa bắt đầu gây hậu quả tiêu cực), những người ngưỡng mộ sự đơn giản của Bộ luật Napoleon, những người phản đối cách các phường hội đang hoạt động để kìm hãm thương mại, những nhà cải cách xuất thân trung lưu, những người mong có sự bảo hộ của pháp luật cho những tài sản bị tịch thu từ giới tăng lữ hoặc quý tộc ở Pháp mà họ đã mua, và – đặc biệt là ở Đức – những nông dân không còn phải trả những khoản địa tô phong kiến. Dẫu vậy, cho dù Napoleon muốn xóa bỏ mọi vết tích của tước hiệu, thế tập và đặc quyền phong kiến, nhưng nhiều khu vực của Đế chế như Westphalia, Ba Lan, Tây Ban Nha, Illyria (Tây Balkan), và Calabria đang còn lạc hậu tới mức những nơi này vẫn ở tình trạng phong kiến về mọi mặt trừ tên gọi. Nếu hệ thống của ông muốn vận hành trơn tru, thì điều nó cần nhất là thời gian.

Tất nhiên, một số chính quyền hợp hiến đã tìm cách hiện đại hóa trước cả Napoleon, song họ có xu hướng gặp phải sự kháng cự từ các chức sắc Giáo hội, các tầng lớp đặc quyền, các phường hội bảo thủ, hệ thống tư pháp gây trở ngại, những nghị viện bủn xỉn, giới quý tộc phản động, và đông đảo nông dân đầy ngờ vực. Vì nhà nước của Napoleon có nhiều năng lực hơn nhiều so với các thể chế trước nó, nên Napoleon có thể dẹp bỏ những nút thắt này và thực hiện điều được mô tả là một “quá trình tái tổ chức có hệ thống các thiết chế hành chính, quan liêu và tài chính” của Đế chế mở rộng. Kết quả là một nền quản lý có trật tự thứ bậc và thống nhất được kiểm soát từ Paris, trong đó, theo lời những người ngưỡng mộ đương thời, “chuỗi hành pháp đi từ trên xuống dưới không gián đoạn từ bộ trưởng với việc quản lý và vận hành pháp luật cũng như các mệnh lệnh của Chính phủ tới được mọi nhánh xa nhất của xã hội”. Đây là việc hiện thực hóa giấc mơ của các vị quân chủ chuyên chế khai sáng thế kỷ 18.

Với rất nhiều người ở khắp châu Âu, Napoleon dường như hiện thân cho các ý tưởng về tiến bộ, trọng dụng nhân tài, và một tương lai lý trí. Bá tước Maximilian von Montgelas, trên thực tế là Thủ tướng Bavaria, đã thế tục hóa các tu viện, thực hiện giáo dục và chủng ngừa bắt buộc, thiết lập các kỳ thi sát hạch vào các cơ quan dân sự, bãi bỏ các loại thuế nội địa, mở rộng quyền dân sự cho người Do Thái và người Tin Lành ở đây trong khoảng từ năm 1806 đến 1817, ông ta làm vậy vì chúng phù hợp với điều ông ta gọi là Zeitgeist (tinh thần thời đại). Tại sao một luật sư, bác sĩ, kiến trúc sư hay thương gia Italy, Hà Lan, Bỉ hoặc Đức lại thích được cai trị bởi một ông hoàng sinh ra đã được thừa kế ngôi vị hơn là bởi Napoleon, một thành viên của Tổng Hàn lâm viện Pháp quốc, người tin vào việc mở rộng cánh cửa sự nghiệp cho các tài năng? Tất nhiên, thực tế họ thường có ít lựa chọn trừ việc phục vụ người Pháp trong ngắn hạn, song với nhiều người thì chiến thắng quân sự của Pháp đã đem đến cho họ một cơ hội để áp dụng các phương thức hiện đại từ một hệ thống cách mạng đã được lược bớt máy chém và Thời kỳ Kinh hoàng. Họ cũng không cần phải ưa thích Napoleon hay người Pháp thì mới nhận thức được rằng cách làm của quốc gia này hiệu quả hơn. Chẳng hạn tại Italy, hệ thống thu thuế do Napoleon thiết lập đã tồn tại trong một thế kỷ sau khi ông sụp đổ. Tuy nhiên, chỉ là chuyện tưởng tượng nếu cho rằng Napoleon là một người tin vào chủ nghĩa Liên Âu; năm 1812, ông đã lan truyền ý tưởng rằng mình là người bảo vệ nền văn minh Ki-tô giáo châu Âu, chặn đứng các bộ tộc Á châu man rợ của Nga, và nhắc nhiều tới ý tưởng châu Âu thống nhất trong di sản của mình, song Đế chế của ông về căn bản vẫn luôn là một cấu trúc Pháp, không phải châu Âu.

•••

Một trong nhiều lĩnh vực mà việc trung thành với Hệ thống Lục địa của Napoleon đã gây tổn hại cho ông là mối quan hệ giữa ông với Tòa Thánh. Pius VII từ chối tham gia việc phong tỏa châu Âu của ông chống lại thương mại và hàng hóa Anh. Cùng với việc Pius từ chối cho phép Jérôme ly hôn hay thừa nhận Joseph là vua của Naples, hành động này với Napoleon có vẻ như cho thấy ông có một kẻ thù tại Vatican. Tháng Hai năm 1808, ông phái Tướng Sextius Miollis tiến xuống bờ biển phía tây Italy để chiếm đóng Lãnh thổ Giáo hoàng, bao gồm cả lâu đài Sant’Angelo, pháo đài của Giáo hoàng bên bờ sông Tiber. Chẳng mấy chốc có thể thấy đại bác Pháp chĩa thẳng vào thánh đường St Peter. Dẫu vậy, Giáo hoàng vẫn từ chối tuyên chiến với Anh, và không hề lay chuyển khi Napoleon chỉ ra rằng đó là một cường quốc dị giáo. Khi đã rõ là Giáo hoàng sẽ không chấp nhận trục xuất hàng hóa và thương nhân Anh khỏi Lãnh thổ Giáo hoàng, vào ngày 10 tháng Sáu năm 1809, Napoleon sáp nhập nó vào Đế chế Pháp, và để đáp trả Pius lập tức rút phép thông công đối với Hoàng đế Pháp.

•••

Trở lại tháng Bảy năm 1807, Napoleon đã mang chuyện trừng phạt của Giáo hoàng ra làm trò đùa với Talleyrand. “Họ chỉ còn thiếu nước nhốt ta vào một tu viện, và cho đánh roi ta giống như Louis Nhu nhược”. (Louis I, con trai của Charlemagne, đã dùng roi tự đánh mình vì đã cho đâm dao găm nung đỏ vào hai tròng mắt cháu của ông ta, Hoàng tử Bernard.) Tuy nhiên, việc bị rút phép thông công không phải là chuyện đùa, bởi ở Ba Lan, Italy và Pháp có hàng triệu người Thiên Chúa giáo mộ đạo giờ đây phải nghĩ lại về lòng trung thành với một hoàng đế vô đạo. Điều này đặc biệt phiền toái vào thời điểm mà ông đang hy vọng giành được sự trung thành của những người Tây Ban Nha Thiên Chúa giáo rất mộ đạo, các tu sĩ ở đây sẽ dùng vị thế vô đạo mới mẻ này của Napoleon như một công cụ tuyên truyền đầy sức mạnh chống lại những kẻ chiếm đóng Pháp.

Mối quan hệ Pháp-Vatican tiếp tục xấu đi trong 13 tháng tiếp theo, và vào buổi tối trước hôm diễn ra trận Wagram, ngày 5 tháng Bảy năm 1809, theo lệnh của Napoleon, Savary đã thực hiện bước đi đặc biệt, cho Tướng Étienne Radet bắt Giáo hoàng tại Vatican, cho ông ta nửa tiếng chuẩn bị hành lý trước khi hộ tống ông ta tới cung điện của giám mục tại cảng nhỏ Savona ở vùng Riviera của Italy. Điều này cho phép Giáo hoàng Pius đưa ra một trong những nhận xét châm biếm nhất trong thế kỷ 19. “Con của ta”, ông ta nói với Radet, “chắc chắn những mệnh lệnh đó sẽ không ban phép thánh cho con đâu”. Trong khi đó, Napoleon viết cho em rể mình, Vương hầu Camillo Borghese, người đang là toàn quyền vùng Alps thuộc Italy bao gồm cả Savona, rằng “Đội canh gác Giáo hoàng phải thể hiện rõ bộ mặt của một đội quân danh dự”.(*)

Pius xử sự một cách đầy phẩm giá, song đây là một câu chuyện đáng tiếc về chiến thuật mạnh tay không đem lại bất cứ lợi thế nào cho Napoleon. Sự thay đổi duy nhất mang tính vật chất là hàng hóa Anh giờ đây phải đưa lậu vào Livorno thay vì cập cảng công khai trên các cầu cảng như từ trước tới nay. Trong khi những người Thiên Chúa giáo sùng đạo phẫn nộ một cách kín đáo trước cách cư xử dành cho Đấng Chăn chiên của Chúa Ki-tô, thì Napoleon tìm ra một tiền lệ trong lịch sử cho hành động của mình, tuyên bố rằng Rome vẫn luôn là một phần trong Đế chế của Charlemagne. Ông thêm rằng giờ đây nó sẽ trở thành một “thành phố tự do của Đế chế”, “thành phố thứ hai của Đế chế”, và Pháp sẽ cung cấp mỗi năm 2 triệu franc để trang trải chi phí của Giáo hội. Canova cũng không gặp chút khó khăn nào trong việc thuyết phục ông sử dụng 200.000 franc mỗi năm vào việc bảo tồn các di tích La Mã cổ đại. “Giáo hoàng là một người tốt”, Napoleon nói với Fouché ngày 6 tháng Tám, “nhưng thiếu hiểu biết và cuồng tín”. Nhưng than ôi, những tính từ này có thể dùng để mô tả cách xử sự của Napoleon với người đứng đầu Giáo hội thì tốt hơn.

•••

Vào các ngày 27-28 tháng Bảy năm 1809, Joseph, Jordan, Victor bị thất bại nặng nề dưới tay Wellington và Tổng tư lệnh Tây Ban Nha Cuesta trong trận Talavera. Napoleon đặc biệt tức giận trước cách Jourdan lừa dối ông trong báo cáo của mình, tuyên bố rằng Wellington đã mất 10.000 người – nghĩa là một phần ba đạo quân của ông ta – và quyền kiểm soát chiến trường. Khi Napoleon phát giác ra con số thực tế là 4.600 cũng như việc quân Pháp đã bị “đẩy lùi suốt cả ngày”, ông mô tả những lời dối trá của Jourdan là “một tội ác hiển nhiên”, và nổi xung trước việc chúng có thể ảnh hưởng tới chiến lược của ông tại Tây Ban Nha. “Ông ta có thể nói gì tùy thích trên báo chí ở Madrid”, Napoleon viết, qua đó thừa nhận sự thiếu trung thực cố hữu của các bài tường thuật trên báo chí, “song ông ta không có quyền che giấu sự thật trước Chính phủ”. Napoleon có xu hướng tin vào các tường thuật trên báo chí Anh hơn là báo cáo do chính tướng lĩnh của mình đưa ra, ông nói với Clarke: “Ông cũng phải nói với Tướng Sénarmont rằng ông ta đã không gửi một báo cáo chính xác về pháo binh của mình; rằng người Anh đã chiếm được nhiều pháo hơn ông ta thừa nhận”. (Không phải sáu như Sénarmont báo cáo, mà là 17.) “Chừng nào họ còn tấn công những người lính xuất sắc như người Anh ở vị trí thuận lợi mà không đảm bảo được rằng đối phương có thể bị đánh bật”, ông nói tiếp, “chừng đó lính của tôi sẽ còn bị đưa tới chỗ chết một cách vô ích.”

•••

Napoleon kỷ niệm sinh nhật thứ 40 của mình vào ngày 15 tháng Tám năm 1809 bằng việc phong Masséna, Davout và Berthier làm vương hầu, mỗi tước vị đều kèm theo một khoản trợ cấp lớn. Tối hôm đó, sau một cuộc diễu binh lớn, một cuộc duyệt đội Cận vệ tại Enzersdorf, và một dạ tiệc, ông cùng Berthier âm thầm ẩn danh đi vào Vienna, một thủ đô kẻ thù đang nằm dưới sự chiếm đóng, nơi ông có thể bị nhận ra, để xem màn biểu diễn pháo hoa chào mừng mình. Dẫu vậy, ông vẫn làm việc cần mẫn như thường lệ suốt cả ngày, viết thư từ Schönbrunn gửi Cambacérès về một thông điệp cho Thượng viện, gửi đại sứ của ông tại Moscow, Tướng Caulaincourt, về những tin đồn người Anh tìm cách mua súng hỏa mai ở Nga, gửi Bộ trưởng Chiến tranh Tướng Clarke về Tây Ban Nha, và gửi lệnh cho Pierre Daru người quản lý hậu cần của Đạo quân Đức phát 300 franc cho mỗi đứa trẻ có cha tử trận tại Austerlitz. Những lá thư khác được viết cùng ngày gửi Murat về việc tổ chức các công quốc tại Sicily ngay khi kẻ thù đã được “quét sạch” khỏi đó, và gửi Berthier về việc đóng những chiếc thuyền có thể chuyên chở 6.600 người vượt sông Danube.

Đến tháng Chín, Francis buộc phải bắt đầu đàm phán. “Ta và chủ nhân của ông giống như hai con bò mộng”, Napoleon nói với nhà đàm phán Áo, Đại tá-Bá tước Ferdinand Bubna, “muốn kết đôi với Đức và Italy”. Với sĩ quan phụ tá của Murat (và là nhân tình của Hortense), Đại tá Charles de Flahaut, ông nói tiếp: “Ta cần Đức và ta cần Italy; vì Italy có nghĩa là Tây Ban Nha, và Tây Ban Nha là Pháp kéo dài”. Điều này đã duy trì sự thù hận vĩnh viễn của Áo, vốn là cường quốc chiếm ưu thế tại Italy và Đức trong nhiều thế hệ trước khi Cách mạng Pháp nổ ra. “Ta không sợ ông ta”, Napoleon nói riêng về Francis, “ta rất khinh miệt ông ta. Ông ta không phải là kẻ bất lương; trái lại, ông ta là một người đơn giản giống như Louis XVI, song ông ta luôn chịu ảnh hưởng của người vừa nói chuyện với mình gần nhất. Không bao giờ có thể tin tưởng được ông ta”. Về cuộc đàm phán sắp tới: “Có đáng gì với họ đâu nếu họ từ bỏ vài tỉnh; họ là những kẻ thất tín tới mức sẽ chiếm lại chúng bất cứ khi nào có cơ hội chăng?” Kinh nghiệm từ các giai đoạn 1796-1797, 1800-1801, 1805 và 1809 chắc chắn cho thấy điều đó là đúng. “Đây là lần thứ hai ta đặt chân tới chiến trường Austerlitz”, Napoleon nói khi ăn tối với các tướng lĩnh của mình tại Brno ngày 17 tháng Chín. “Liệu ta sẽ phải tới đây một lần thứ ba chăng?” “Tâu bệ hạ”, họ đáp, “theo những gì chúng thần chứng kiến hàng ngày, sẽ không ai dám đặt cược điều ngược lại.”

Hiệp ước Schönbrunn được ký kết ngày 14 tháng Mười bởi Champagny và Liechtenstein, và được phê chuẩn hôm sau bởi Napoleon, và không lâu sau đó bởi Francis. Vì Francis đã phát động chiến tranh sau nhiều lần được cảnh báo, nên ông ta khó có thể phàn nàn về các điều khoản hà khắc của nó. Giới hạn lực lượng vũ trang của Áo ở mức 150.000 người, và gần như cắt đứt nước này khỏi biển qua việc sáp nhập các tỉnh Illyria (Áo giữ lại Fiume), Napoleon đã thực sự giáng Áo xuống một cường quốc hạng hai. Nước này nhường lại Istria và Carinthia cho Pháp, và Salzburg, Berchtesgaden cùng một phần Thượng Áo cho Bavaria; buộc phải gia nhập Hệ thống Lục địa, và phải thừa nhận mọi thay đổi của Napoleon tại Iberia và Italy. Vùng Galicia thuộc Áo bị chia cắt, bốn phần năm diện tích phía tây thuộc về Đại công quốc Warsaw, và một phần năm (chủ yếu là Đông Galicia) thuộc về Nga. Bất chấp việc 400.000 dân đã được thêm vào Đế chế Nga, việc này vẫn làm dấy lên ở St Petersburg những nỗi e ngại mới về việc Napoleon dự định tái lập Vương quốc Ba Lan. Tổng cộng, Áo phải từ bỏ 3,5 triệu cư dân của mình và phải trả những khoản bồi thường lớn. Francis cũng đã phải cam kết “hòa bình và hữu nghị… lâu dài”, một câu tương tự như câu ông ta đã phê chuẩn mới chỉ bốn năm về trước, và đã thực hiện với cùng mức độ chân thành.

Vào ngày Hiệp ước được ký, Napoleon lệnh cho Eugène giúp người Bavaria đè bẹp một cuộc nổi dậy ủng hộ Áo bùng nổ ở Tyrol vào tháng Tư. Ngày 17 tháng Mười, Eugène chỉ huy 56.000 quân Bavaria và Pháp tiến vào vùng này để đè bẹp phong trào kháng chiến được lãnh đạo bởi cựu chủ quán trọ Andreas Hofer, một người đầy uy tín, đã bị phản bội và bị bắt tại làng St Martin ở Nam Tyrol vào cuối tháng Một. (Những người lính bắt giữ ông ta đã nhổ bộ râu của ông ta cho tới khi mặt ông ta chảy máu, vì muốn có kỷ vật từ đối thủ đáng gờm của họ.) Eugène đề nghị khoan hồng, song vào ngày 11 tháng Hai năm 1810, Napoleon trả lời rằng với việc các cuộc đàm phán về hôn nhân sắp tới của ông đang diễn ra gấp rút, ông không muốn làm vấn đề rắc rối thêm bởi một lời đề nghị chính thức từ phía Áo về khoan hồng cho Hofer, vì thế một tòa án quân sự cần được thành lập và Hofer phải bị xử bắn trong vòng 24 tiếng. Hiệp ước Schönbrunn bị chỉ trích như một hiệp ước hòa bình tai hại mà cuối cùng sẽ đi ngược lại với lợi ích của Napoleon, vì nó buộc người Áo tiếp tục phát động chiến tranh chống lại ông, song chuyện đó chỉ diễn ra sau khi ông đã bị thất bại thảm hại trước Nga năm 1812. Vào thời điểm đó, dường như một hình thức mới trong quan hệ Pháp-Áo là cần thiết để ngăn chặn những cuộc chiến báo thù liên tục này. Metternich, người được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngoại giao ngày 8 tháng Mười, đã đi đến kết luận rằng giải pháp còn lại duy nhất cho Áo sau bốn lần thất bại liên tiếp trong 12 năm là đứng về cùng bên với Pháp với tư cách đối tác ở địa vị thấp hơn. Ông ta nói tới việc “thích ứng với hệ thống chiến thắng của Pháp”. Tất nhiên, điều này có thể được thực hiện chóng vánh nếu Napoleon ly hôn với Josephine và cưới con gái của Francis, nữ Đại Công tước Marie Louise, sẽ tròn 18 tuổi vào tháng Mười hai năm đó. Những động thái thăm dò được thực hiện. Cho tới năm 1809, Napoleon vẫn chưa từ bỏ ý tưởng kết hôn với một công chúa nhà Romanov, song không cô dâu Áo hay Nga nào sẵn lòng trong khi ông vẫn đương trong quan hệ hôn nhân với Josephine.

Hai biến cố, một diễn ra hai năm trước và một mới diễn ra, rất có thể đã làm tâm trí Napoleon tập trung vào triển vọng của việc kế vị và làm sống lại ước muốn có một đứa con nối dõi để tiếp tục triều đại của mình. Rạng sáng 5 tháng Năm năm 1807, đứa con trai 4 tuổi của Louis và Hortense là Napoléon-Louis-Charles, Thái tử Hà Lan, mà Napoleon rất có thể đã cân nhắc như người kế vị tối hậu của mình, đã qua đời tại Hague vì một căn bệnh giống như bệnh bạch hầu. Hortense rơi vào trạng thái trầm uất sâu sắc, một tình trạng không thể cải thiện được bao nhiêu bởi những lá thư như của Napoleon ngày 16 tháng Sáu, viết, “Ta rất buồn phiền trước nỗi đau khổ của con, nhưng ta mong con hãy can đảm hơn. Sống là chịu đựng, và một con người đánh kính cần luôn tranh đấu để làm chủ bản thân”. Ông kết thúc lá thư bằng ba câu nữa, viết về Friedland: “Ta đã có một chiến thắng lớn hôm 14 tháng Sáu. Ta khỏe, và ta yêu con rất nhiều”. Cái chết của đứa trẻ chấm dứt bất cứ mối ràng buộc còn sót lại nào mà Hortense có thể có với Louis, và sau này cô có một đứa con với Bá tước de Flahaut. “Anh ước gì có thể ở gần em, để giúp em bình tĩnh và sáng suốt trong nỗi buồn phiền của mình”, Napoleon viết cho Josephine về cái chết của cháu ngoại bà. “Em có may mắn là không bị mất đi bất cứ đứa con nào, song các mất mát như thế là một trong những tình cảnh và nỗi đau gắn liền với nỗi thống khổ của nhân loại chúng ta. Mong sao anh có thể biết rằng em đã bình tĩnh và vẫn khỏe mạnh! Em sẽ không thêm vào nỗi phiền muộn của anh chứ?” Cho dù bản thân Napoleon có thể đã không lập tức nhận ra cái chết của đứa trẻ sẽ gia tăng áp lực lên cuộc hôn nhân của chính mình như thế nào, nhưng Josephine, một phụ nữ thông minh và nhạy cảm, giờ đã 45 tuổi, lại hiểu. Một phần lý do giải thích tại sao bà không thể “sáng suốt trong nỗi buồn phiền” của mình là vì bà phiền muộn không chỉ cho con gái và cháu ngoại mà cho cả cuộc hôn nhân của chính mình, hiểu rằng Napoleon giờ đây có thể sẽ muốn tạo lập người thừa kế cho ông. Napoleon biết mình có khả năng làm điều đó, vì ông đã có Bá tước Léon, con trai ngoài giá thú với nhân tình cũ Éléonore de la Plaigne, và đến cuối mùa hè năm 1809 Marie Walewska cũng có thai với ông.

Sau đó, vào lúc 9 giờ sáng Thứ năm, 12 tháng Mười, khi Napoleon chuẩn bị thẩm vấn một số tù binh chiến tranh Pháp vừa được thả, thì tại nơi gần cầu thang kép hình móng ngựa phía sau cung điện Schönbrunn, Friedrich Staps, 18 tuổi, con trai một mục sư Dòng Luther đến từ Erfurt, đã tìm cách ám sát ông khi giả bộ trình lên ông một bản thỉnh nguyện. Anh ta lẽ ra đã thành công nếu Rapp không chặn anh ta lại cách đó vài bước, tại đó Rapp, Berthier và hai hiến binh đã tìm thấy trong người anh ta một con dao bài loại lớn. “Tôi bị thu hút bởi ánh mắt anh ta khi anh ta nhìn tôi”, Rapp nhớ lại, “vẻ quyết tâm của anh ta khiến tôi nghi ngờ”. Napoleon đã thẩm vấn Staps ngay sau đó, với sự có mặt của Bernadotte, Berthier, Savary và Duroc, do Rapp, vốn gốc Alsace, phiên dịch. Hoàng đế hy vọng cậu sinh viên trẻ bị mất trí và do đó có thể được tha bổng, song Corvisart tuyên bố anh ta khỏe mạnh và sáng suốt, cho dù là một kẻ cực đoan về chính trị. Khi Napoleon hỏi anh ta sẽ làm gì nếu được trả tự do, anh ta trả lời, “Tôi sẽ lại tìm cách giết ông”. Anh ta bị bắn lúc 7 giờ sáng 17, hô vang: “Đức muôn năm!” trước đội xử bắn và “Cái chết cho bạo chúa!” Điều này đã gây ấn tượng cho Napoleon một cách rất trực tiếp và cá nhân, khi tinh thần dân tộc chủ nghĩa Đức mới mẻ và không thỏa hiệp giờ đây đã xuất hiện ở vùng đất chỉ ba năm trước còn chìm trong vòng kiềm tỏa tồn tại hàng thế kỷ của Đế chế La Mã Thần thánh.(*) “Ta vẫn luôn e sợ những kẻ điên”, Napoleon nói với thư ký của mình, nhớ lại một buổi tối ở nhà hát ông đã từng bị một người trốn khỏi nhà thương điên ở Bicêtre bám sát. “Thần yêu Hoàng hậu!” người đàn ông đó la lên. “Ngươi có vẻ đã chọn một người bạn tâm tình khác thường đấy”, Napoleon đáp lại.(*)

•••

Sự tàn nhẫn của Napoleon thể hiện rõ rệt trong động thái tiếp theo của ông. Cuộc hôn nhân khép kín, êm đềm, dễ chịu mà ông và Josephine đã xây dựng từ khi ông trở về từ Ai Cập – trong đó bà than phiền về những mối quan hệ của ông song vẫn chung thủy với ông – giờ đây là một vật cản cho các tham vọng chính trị và triều đại của ông, cũng như những điều mà ông cho là lợi ích tốt nhất của Pháp, và vì thế nó phải kết thúc. Những lần ông cận kề bên những người bị giết trên nhiều bãi chiến trường, việc sống sót may mắn khỏi âm mưu địa ngục , vết thương ở Ratisbon và âm mưu ám sát bất thành gần đây, giờ đây đã giúp các cố vấn của ông tập trung trí tuệ. Ông rời Schönbrunn ngày 16 tháng Mười và trở về Fontainebleau lúc 9 giờ sáng 26 (Pauline và một trong những hầu gái của cô, nữ Nam tước Christine de Mathis tròn trịa xinh đẹp 25 tuổi người Piedmont chuyên đọc sách cho Pauline, tới thăm ông vào tối đó và Napoleon gần như ngay lập tức bắt đầu một mối quan hệ với Christine, điều sẽ còn kéo dài tới tối hôm trước lễ cưới của ông. Sau này ông nói về cô gái, “cô ta chấp nhận các món quà”.) Ông ra lệnh xây bịt lại cửa thông giữa phòng ngủ của ông và của Josephine; không có gì siêu hình hay mơ hồ trong thông điệp chối bỏ này. “Tất cả sự ân cần từ phía Hoàng đế, tất cả sự quan tâm dành cho mẹ tôi đã biến mất”, Hortense viết về thời gian đau khổ này, “ông ấy trở nên bất công và hay bực dọc trong thái độ… Tôi ước gì việc ly hôn đã được công bố”. Gia đình chuyển tới Tuileries ngày 15 tháng Mười một, và tới ngày 27 thì Bausset, người quan sát ở cự ly gần khi cuộc hôn nhân bước vào đoạn kết tệ hại của nó, đã nhận thấy “một thay đổi lớn trên nét mặt Hoàng hậu, và sự im lặng gượng gạo ở Napoleon”.

Nếu Đế chế của ông là một chế độ lâu đời đã được thiết lập vững chãi, nó có thể sống sót được khi một người em trai hay một người cháu lên kế vị, song Đế chế của Napoleon còn chưa tồn tại được năm năm, và ông đã đi đến kết luận rằng để triều đại Bonaparte tồn tại được, ông cần một đứa con trai. Sau 13 năm cố gắng, Josephine 46 tuổi rõ ràng sẽ không thể có một đứa con. Bonaparte biết tất cả về những cuộc đấu tranh giành quyền lực đẫm máu đã diễn ra sau cái chết của Alexander Đại đế và Julius Caesar, những người qua đời mà không có người kế vị rõ ràng. Người kế vị hiện tại của ông là Joseph, nhưng Julie Clary vợ của Joseph đã không sinh cho ông ta đứa con trai nào, trong khi Joseph đang thất bại rành rành tại Tây Ban Nha. Ngay từ rất sớm vào tháng Bảy năm 1806, Công tước de Lévis, một người lưu vong đã trở về sau ngày 18 tháng Sương mù, đã cảnh báo Hoàng đế, “Atlas đã có cả thế giới, nhưng sau ông ta là sự hỗn loạn.”

Ngày 30 tháng Mười một, Napoleon nói với Josephine là ông muốn hủy bỏ cuộc hôn nhân của họ. “Em có con”, ông nói, “anh chưa có. Em phải cảm thấy sự cần thiết trong việc củng cố triều đại đang đè nặng lên anh”. Bà đã khóc, nói rằng bà không thể sống thiếu ông, cầu xin ông nghĩ lại. “Tôi đã thấy bà ấy khóc hàng giờ liền”, Rapp nhớ lại về thời kỳ này; “bà ấy nói về sự gắn bó của mình với Bonaparte, vì bà ấy thường gọi ông ấy như vậy khi có mặt chúng tôi. Bà ấy tiếc nuối vì phải khép lại sự nghiệp huy hoàng của mình: điều này là lẽ tự nhiên”. Bà đội một chiếc mũ màu trắng rộng vành vào bữa tối hôm đó để che giấu sự thật là bà đã khóc, song Bausset thấy bà “là hình ảnh của đau khổ và tuyệt vọng”. Ăn tối riêng cùng nhau, cả Napoleon lẫn Josephine đều không ăn được mấy, và những lời duy nhất được trao đổi là khi Napoleon hỏi Bausset về thời tiết. Vào một thời điểm trong bữa tối, Napoleon nhớ lại, “bà ấy đã kêu lên và ngất đi”, và phải nhờ người hầu gái dìu đi. Vào một dịp khác, hay có thể cũng dịp đó nhưng được nhớ khác đi, Bausset nghe thấy “những tiếng la hét dữ dội của Hoàng hậu Josephine vang lên từ phòng ngủ của Hoàng đế”, và Bausset bước vào để rồi thấy bà nằm trên thảm “bật ra những tiếng khóc xé lòng và những lời than vãn”, nói rằng bà sẽ “không bao giờ sống nổi” sau một cuộc ly hôn. Napoleon yêu cầu Bausset và một thư ký đưa bà về phòng ngủ của bà ở phía trên cầu thang riêng, và họ đã làm được điều đó mặc dù Bausset suýt vấp phải thanh kiếm đeo làm cảnh của mình trong lúc thực hiện.

Eugène ghé thăm vào ngày 5 tháng Mười hai đã giúp mẹ mình dịu xuống, và các gia đình Bonaparte và Beauharnais đã có thể sớm ngồi lại thảo luận về những điều cụ thể. Để đủ thủ tục cho nghi lễ nhà thờ mà Napoleon cần đến cho hôn lễ tiếp theo của mình, hôn lễ tại nhà thờ giữa ông với Josephine trước lễ đăng quang phải được tuyên bố là vô hiệu, cho dù nó đã được thực hiện bởi một chức sắc của Giáo hội, Hồng y Fesch. Vậy là Napoleon lập luận rằng nó đã diễn ra lén lút, không có ai chứng kiến, và rằng ông đã hành động dưới sự ép buộc của Josephine. Josephine đồng ý làm theo lập luận lố bịch này, song ít nhất là 13 trong số 27 Hồng y của Pháp đã từ chối tham dự hôn lễ tiếp theo của Napoleon. (Từ đó Napoleon đã cấm họ mặc hồng y, nên những người không quy phục này được gọi là “các Hồng y đen”.) Để hủy bỏ cuộc hôn nhân, các quan chức tư pháp của chính quyền lấy các cuộc ly hôn của Louis XII và Henri IV ra làm tiền lệ.

Tại cuộc họp ngày 7 tháng Mười hai, Josephine đã phải tuyên bố trước các quan chức cao cấp của Đế chế rằng bà chấp thuận ly hôn, Bộ trưởng Antoine Lavalette là chồng cháu gái bà ghi lại: “Bà ấy thể hiện rõ sự dũng cảm và cứng cỏi về tinh thần tới mức mọi người chứng kiến đều xúc động sâu sắc. Hôm sau bà rời khỏi Tuileries, không bao giờ trở lại nữa”. Khi bà lên xe ngựa cùng tùy nữ, “không có lấy dù chỉ một người ở lại để thể hiện với bà một khuôn mặt biết ơn”. Sự tàn nhẫn của triều chính là vậy. Tuy nhiên, khó có thể nói là bà bị trục xuất khỏi Paris, vì bà vẫn giữ lại cung điện Élysée như một trong các nơi ở của mình. Napoleon trao cho bà Malmaison và lâu đài Navarre từ thế kỷ 14 ở Normandy đã khiến ông tốn 900.000 franc, và bà vẫn giữ lại danh vị Hoàng hậu, cùng mọi vinh hạnh và đặc quyền, trong khi món nợ 2 triệu franc của bà đã được thanh toán, và bà được hưởng khoản thu nhập 3 triệu franc một năm trọn đời. Giống như Frederick Đại đế nói về Maria Theresa vào thời điểm diễn ra cuộc phân chia Ba Lan lần thứ nhất: “Bà ta khóc, nhưng bà ta nhận.”

Khía cạnh tài chính này có lợi cho cả hai người: Josephine có một thu nhập khổng lồ, và người đàn ông được nhà nước chi trả cho cuộc ly hôn của mình cũng may mắn. Mỉa mai thay, cho dù để có người kế vị Đế chế mà Napoleon đã ly hôn với Josephine, nhưng cuối cùng chính cháu trai bà, chứ không phải đứa con nào của Napoleon, sẽ trở thành hoàng đế tiếp theo của Pháp, và hậu duệ trực hệ của bà ngày nay đang ngồi trên các ngai vàng của Bỉ, Đan Mạch, Thụy Điển, Na Uy và Luxemburg. Còn hậu duệ của ông không có bất cứ ngai vàng nào.

•••

Thậm chí trước khi cho Josephine biết tin, Napoleon đã viết cho Caulaincourt Đại sứ Pháp tại Nga ngày 22 tháng Mười một, yêu cầu ông này kín đáo thăm dò Sa hoàng về triển vọng của việc ông kết hôn với em gái ông ta, nữ Đại Công tước Anna Pavlovna: “Ta không đưa ra một yêu cầu chính thức, ta mong muốn ông bày tỏ quan điểm”. Vậy là cuộc cầu hôn song hành với người Nga và người Áo bắt đầu. Napoleon bày tỏ rõ ràng vào giữa tháng Mười hai rằng ưu tiên của ông là Anna, và ông không quan tâm tới những vấn đề về tôn giáo có liên quan – với một người từng tán tụng Hồi giáo và bị rút phép thông công, việc cô gái có là người theo Chính thống giáo Nga cũng không phải là trở ngại không thể vượt qua. Có sẵn một công chúa khác như một lựa chọn thay thế ở Saxony, song cô này sẽ không thể đem tới những lợi ích địa chính trị khi kết hôn như với em gái Sa hoàng Alexander hay con gái Hoàng đế Francis. Khoảng cách tuổi tác – đến tháng Một Anna mới 15 tuổi – nhiều khả năng sẽ đồng nghĩa với việc công chúa sẽ ở lại St Petersburg vài năm trước khi chuyển tới Paris.

Ngày 16 tháng Mười hai, hôn ước giữa Napoleon và Josephine bị hủy bỏ bởi một sắc lệnh dài bốn câu, và lập tức sau đó ông ra lệnh cho Caulaincourt thay mặt mình cầu hôn Anna, đề nghị nhận được câu trả lời trong vòng hai ngày. Người Nga mất 38 ngày. “Ta sẽ nói thẳng thắn với ngài”, Alexander bảo Caulaincourt, “em gái ta không thể mong gì tốt hơn”. Ông ta đang không thẳng thắn: chẳng hơn gì mẹ mình, Sa hoàng không muốn có sự thông gia thiếu môn đăng hộ đối giữa nhà Romanov và một gã người Corse mới nổi. Đồng thời, ông ta cũng không muốn làm mếch lòng Napoleon giữa lúc uy thế Pháp đang lên còn Nga không có đồng minh nào. Ông ta muốn có ít nhất một thỏa thuận được ký kết với Pháp về tương lai Ba Lan như cái giá cho sự tán thành của mình, và với mục đích đó Caulaincourt cùng Bộ trưởng Ngoại giao Nga Rumiantsev đã soạn thảo sơ bộ một bản hiệp ước vào ngày 28 tháng Mười hai, điều khoản đầu tiên trong văn bản là “Hai bên cam kết không bao giờ cho phép tái lập Ba Lan”, và điều khoản thứ hai loại bỏ các từ “Ba Lan” và “người Ba Lan” trong mọi hành động công khai, trong khi điều 5 nghiêm cấm bất kỳ sự mở rộng lãnh thổ nào của Công quốc Warsaw. Khi Sa hoàng ngụ ý rằng ông ta có thể gỡ bỏ được sự phản đối của mẹ mình với cuộc hôn nhân, Caulaincourt liền ký. Như vậy Sa hoàng của Tất cả người Nga đã hoàn toàn sẵn sàng hy sinh cô em gái vị thành niên của mình cho kẻ mà gia đình ông ta coi là một gã người Corse hãnh tiến 40 tuổi, nhằm giữ cho Ba Lan bị chia cắt. Những tay thương dũng cảm người Ba Lan của Napoleon sẽ có thể làm gì với tất cả chuyện này là điều không thể đoán được. Ngày 10 tháng Một, Caulaincourt nhận lệnh từ Napoleon rằng phải có được câu trả lời dứt khoát cho lời cầu hôn trong vòng 10 ngày kể từ khi nhận lệnh, vào một thời kỳ mà người đưa thư phải mất gần ba tuần để đi từ Paris tới St Petersburg.

Đến ngày 6 tháng Hai, Napoleon cho rằng không đáng phải trói tay mình trước Ba Lan vì Anna, nên ông ra lệnh cho Champagny không phê chuẩn hiệp ước đã ký kết, gọi nó là “ngớ ngẩn và lố bịch”. Chối bỏ những hành động của Caulaincourt, ông nói, “Ta không thể nói là Vương quốc Ba Lan sẽ không bao giờ được tái lập, bởi điều đó sẽ có nghĩa là nếu một ngày nào đó người Lithuania hay ai khác tái lập nó, ta sẽ buộc phải điều quân tới chống lại việc này. Điều đó trái ngược với phẩm giá của ta. Mục đích của ta là làm Nga yên tâm”. Ông đề xuất một hiệp ước thay thế, cam kết không giúp bất cứ cường quốc nào khác tái lập Ba Lan, song Sa hoàng cho thế là không đủ. Kết quả là Napoleon cảm thấy bị mất mặt, và bắt đầu hướng tới Vienna tìm kiếm cô dâu tương lai của ông, còn Alexander, về phần mình, hiểu ra không thể tin tưởng Napoleon về vấn đề Ba Lan. Ông ta cũng sớm ngờ vực về một cuộc cầu hôn song song đang diễn ra và cũng cảm thấy bị xúc phạm về điều đó, hay ít nhất tỏ ra như vậy.

“Tôi không biết điều gì được đòi hỏi sau tất cả chuyện này”, Napoleon viết cho Alexander vào ngày cuối cùng của năm 1809, hy vọng duy trì tình thân hữu. “Tôi không thể tiêu diệt những con quái vật tưởng tượng và chiến đấu với những đám mây”. Đến đầu tháng Hai năm 1810, Alexander đẩy mạnh việc cải cách triệt để trong quân đội Nga. Vào tháng Một, ông ta đã bổ nhiệm nhà cải cách-Tướng Barclay de Tolly làm Bộ trưởng Chiến tranh, các kế hoạch phòng thủ biên giới phía tây của Nga dọc theo các sông Dvina và Berezina được soạn thảo. Năm đó cũng chứng kiến một phong trào tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc được bắt đầu tại Nga, và việc chỉ trích Pháp một lần nữa lại được cho phép trên báo chí. Các câu lạc bộ văn học và triết học bài Pháp cũng được phép hoạt động. Khi Marie Walewska sinh hạ đứa con trai của Napoleon ngày 4 tháng Năm năm 1810, đứa trẻ được đặt tên là Alexandre. Song, cái tên đó chẳng giúp gì.

•••

Nhiều năm sau, Napoleon nhớ lại đã có thời gian ngắn cân nhắc tới việc cưới một người vợ Paris. Ông nói đã lập một danh sách năm hay sáu phụ nữ, song tại một cuộc bỏ phiếu ở Tuileries, năm thành viên hội đồng đã ủng hộ một liên minh hôn nhân với hoàng gia Áo, hai người ủng hộ Saxony, còn Fouché và Cambacérès vẫn tiếp tục lựa chọn Anna. Napoleon ngờ rằng hai người này phản đối cuộc hôn nhân với hoàng gia Áo chỉ vì họ đã biểu quyết xử tử bà cô ruột của Marie Louise, Marie Antoinette. Cambacérès bác bỏ điều này, nói rằng ông ta biết Napoleon cuối cùng sẽ phát động chiến tranh với bất cứ nước nào không được chọn, và “tôi e sợ một cuộc hành quân tới St Petersburg hơn là một cuộc hành quân tới Vienna.”

Những điềm báo đầu tiên cho cuộc hôn nhân của Napoleon với Marie Louise không được tốt: khi còn nhỏ, cô đã chơi với “một hình nộm hung dữ” của ông trong phòng bảo mẫu của cô, năm 14 và 18 tuổi cô đã buộc phải rời khỏi nhà mình để chạy trốn các đạo quân của ông. “Tôi thấy thương hại cho cô công chúa tội nghiệp ông ta chọn”, cô viết trước khi có bất cứ ý tưởng nào rằng đó sẽ là mình. Sau khi đã nhận ra sẽ là như thế, cô viết: “Tôi trao gửi số phận mình vào tay Thượng đế Thiêng liêng”, và yêu cầu một người bạn hãy “Cầu nguyện rằng chuyện đó đừng bao giờ xảy ra”. Napoleon vui vẻ hơn nhiều với tình hình. “Khi tôi nghe nói Marie Louise xinh đẹp tôi đã rất mừng”, ông nhớ lại. Cô còn hơn cả xinh đẹp; Lavalette mô tả cô “cao ráo, cân đối, và có sức khỏe tuyệt vời. Cô có vẻ như được tô điểm bởi tất cả sự duyên dáng và vẻ đẹp thường đồng hành cùng tuổi trẻ”, và cũng có một “vẻ nhân hậu, và không giống như những thành viên khác trong gia đình mình, nụ cười của cô thật đáng mến và ngọt ngào”. Lá thư đầu tiên trong số 318 lá thư còn lưu lại được của Napoleon gửi Marie Louise là lời cầu hôn ông gửi đi từ Rambouillet ngày 23 tháng Hai năm 1810, do một thư ký chấp bút:

⚝ ✽ ⚝

Đó là một lời cầu hôn lịch thiệp với một cô gái 18 tuổi từ một người đàn ông 40 tuổi. Hai ngày sau, ông gọi cô là “Em gái của ta” trong lá thư viết tay (nguệch ngoạc) của chính ông, trước khi chuyển sang cách xứng hô “Quý bà” cho tới khi họ kết hôn, rồi sau đó là “Louise thân mến của ta”, “Louise nhân hậu của ta” và nhiều biểu cảm khác.

Cuộc hôn nhân mới nhất giữa hai nền quân chủ lâu đời nhất trên lục địa diễn ra theo một quy trình phức tạp, theo đó Marie Louise kết hôn với Napoleon thông qua người đại diện tại Nhà nguyện Capuchin ở cung điện Hofburg tại Vienna ngày 11 tháng Ba, Đại Công tước Charles đại diện cho cô tại buổi lễ, còn Berthier đại diện cho Napoleon. Khi Tổng Giám mục quý tộc Ferdinand de Rohan, người giữ chức vị danh dự Đại Tuyên úy lâu đời của Pháp, viết một lá thư xu nịnh một cách lố bịch để chúc mừng Napoleon về cuộc hôn nhân sắp tới của ông, Hoàng đế nói với Duroc rằng ông ta nên “trả 12.000 franc cho Đại Tuyên úy từ quỹ dành cho sân khấu .”

Napoleon sắp xếp cuộc gặp đầu tiên giữa ông và cô dâu của mình một cách chi tiết vào Thứ ba 27 tháng Ba năm 1810, sau hôn lễ qua người đại diện nhưng trước hôn lễ dân sự. Họ sẽ gặp nhau cách Soissons 4,8 km trong một chiếc lều, ông sẽ cúi chào cô, nhưng khi cô cúi chào đáp lễ thì ông sẽ đỡ cô dậy. Nhưng trời lại mưa, và dù sao đi nữa ông cũng quá nóng lòng, nên ông và Murat đã cưỡi ngựa đi quá chiếc lều tới chỗ xe ngựa của Marie Louise, và gặp cỗ xe trước nhà thờ ở Courcelles. “Thưa Quý bà”, ông nói với cô vẻ bớt oai nghiêm hơn khi đã vào trong xe của cô, “ta rất vui khi được gặp Quý bà”. Sau đó ông đưa cô sang cỗ xe của mình để về cung điện của ông tại Compiègne, họ tới đây lúc 9:30 tối, và bất chấp các quy tắc khi cùng nhau ăn tối với các thành viên thân thiết trong gia đình, trong đó có Caroline (người đã đoạt mất vị trí của Hoàng hậu Maria Carolina, cô của Marie Louise, để trở thành Hoàng hậu Naples).

Trong bữa tối tại Sảnh François I của cung điện, Napoleon hỏi Hồng y luôn đắc dụng mọi lúc mọi nơi Fesch trước sự hiện diện của Marie Louise, rằng liệu về pháp lý họ đã kết hôn chưa, và được cam đoan rằng họ đã kết hôn tại buổi lễ thông qua các đại diện ở Vienna. Napoleon theo dự kiến sẽ ở lại dinh thự Chancellerie gần đó, còn cô sẽ ngủ lại cung điện đêm ấy, điều được cho là hợp lý, song Bausset cho rằng, xét đến việc trưa hôm sau Napoleon ra lệnh phục vụ bữa sáng bên giường Hoàng hậu, “chúng tôi nghĩ là rất có thể ông ấy đã không ngủ lại dinh thự Chancellerie”, cũng như ông càng không ngủ trong ngôi lầu phong cách Italy tại Saint-Cloud vào buổi tối hôm diễn ra hôn lễ dân sự của họ.

Nhớ lại tối đầu tiên ông làm tình với Marie Louise, Napoleon sau này kể với một người tin cẩn: “Cô ấy thích chuyện đó tới mức cô ấy đề nghị ta làm lại”. Bất chấp sự bối rối của cô, tất cả khởi đầu như một cuộc hôn nhân hạnh phúc; họ bên nhau mọi tối dưới cùng mái nhà từ tháng Bảy năm 1810 đến tận tháng Chín năm 1811, và Napoleon đã bỏ rơi Marie Walewska, người mà ông đã thu xếp cho sống tại Paris khi ông tái hôn. Quả thực không rõ liệu Napoleon có từng phản bội Marie Louise hay không, nhưng ít nhất cho tới khi cô không chung thủy với ông. “Không ai trong số những người vợ của ông từng phàn nàn bất cứ điều gì về cách cư xử của cá nhân Napoleon”, Metternich viết, nhớ lại Marie Louise từng có lần nói với ông ta, “Ta không sợ Napoleon, nhưng ta bắt đầu nghĩ ông ấy ngại ta”. Tuy nhiên, cô không phải là tình yêu của đời ông. “Ta nghĩ là ta yêu Josephine hơn”, nhiều năm sau ông từng nói, “cho dù ta yêu Marie Louise chân thành. Điều đó cũng tự nhiên; chúng ta đã cùng nhau vươn lên; và bà ấy là một người vợ thực sự, người vợ ta đã chọn. Bà ấy thật duyên dáng, duyên dáng thậm chí cả trong cách chuẩn bị lên giường đi ngủ; duyên dáng cả trong cách cởi trang phục… Ta hẳn đã không bao giờ chia tay bà ấy nếu bà ấy sinh được cho ta một đứa con trai; nhưng, quả thực…” Napoleon cuối cùng đi tới hối tiếc về cuộc hôn nhân thứ hai của ông, quy trách nhiệm cho nó về sự thất bại của mình. “Đảm bảo nếu không vì cuộc hôn nhân của ta với Marie ta đã không bao giờ gây chiến với Nga”, ông nói, “bởi ta đã cảm thấy chắc chắn về sự ủng hộ của Áo, nhưng ta đã lầm, vì Áo là kẻ thù tự nhiên của Pháp.”

Sau đấy là hôn lễ dân sự diễn ra tại Sảnh Lớn ở Saint-Cloud vào Chủ nhật 1 tháng Tư năm 1810, tại đây Đại sứ Áo, Vương hầu Karl von Schwarzenberg, mặc bộ quân phục thống chế khiến ông ta “trắng bệch như một chủ cối xay”. Mẫu phu nhân cũng tham dự; họ tới Tuileries vào hôm sau để thực hiện một hôn lễ theo nghi thức tôn giáo và một buổi lễ trước công chúng. Trước ban thờ mạ bạc được dựng lên trong Phòng khách Apollon tại Louvre, một căn phòng hình vuông thường dùng để trưng bày tranh, Hồng y Fesch làm phép cưới. Paris chào mừng bằng pháo hoa, 3.000 đùi cừu và 1.000 chiếc xúc xích được phân phát cho người nghèo, những điệu nhảy trên Điện Champs-Élysée, ân xá tù nhân, biểu diễn cưỡi ngựa, hòa nhạc, diễu binh, và một khinh khí cầu chứa khí nóng bay trên Champs de Mars. Không ai hiểu tầm quan trọng của “bánh mì và những gánh xiếc” như Caesar thời hiện đại, và 6.000 lính kỳ cựu kết hôn trong cùng ngày với ông được nhận mỗi người 600 franc. Marie Louise không giúp cho Napoleon tiết kiệm được đáng kể các chi phí, thậm chí chẳng thua gì Josephine, người đã từng làm ông tốn trung bình mỗi năm 899.795 franc, còn người vợ mới làm tốn của ông (hay ít nhất là của ngân khố Pháp) 772.434 franc mỗi năm.

Có 1.500 người tặng quà cho Marie Louise vào ngày hôn lễ. “Tôi cảm thấy lúc nào cũng mệt mỏi vì chiếc vương miện kim cương”, cô nói với một người bạn sau đó, “nó nặng tới mức tôi gần như không mang nổi nó”. Khuôn mẫu được sử dụng là hôn lễ của Marie Antoinette với Louis XVI năm 1770 – một tiền lệ ít lãng mạn nhất có thể hình dung ra, song lại thích hợp nhất với quan điểm của Napoleon về việc hôn lễ hoàng gia nên như thế nào. Hôm sau ngày hôn lễ, Napoleon viết cho Sa hoàng Alexander bày tỏ “sự quý mến và tình bạn thân thiết với bệ hạ, người anh em của ta, và ta là người anh em tốt của bệ hạ”. Ông có thể là một người anh em theo ngôn ngữ lịch sự chính thức của thời đó, song họ sẽ không trở thành anh vợ em rể của nhau. Chỉ hai ngày sau khi Napoleon viết những dòng kể trên, Alexander tiên đoán với người tâm giao và cũng là cựu Bộ trưởng Ngoại giao của mình, Vương hầu Adam Czartoryski người Ba Lan, rằng sẽ có một cuộc khủng hoảng trong quan hệ Pháp-Nga “sau chín tháng nữa”. Sa hoàng tiếp tục giữ liên lạc với Czartoryski, hỏi ông ta là Đại công quốc Warsaw thực ra trung thành với Napoleon tới mức nào. Lãnh địa tuyển hầu Bavaria, Đại công quốc Württemberg và vùng Westphalia đã được Napoleon nâng lên thành các vương quốc từ năm 1807, và Alexander e rằng Đại công quốc Warsaw có thể là trường hợp tiếp theo.

Ba tháng sau hôn lễ của Napoleon, vào ngày 1 tháng Bảy, Schwarzenberg tổ chức một vũ hội chào mừng tại Sứ quán của mình trên phố Mont Blanc. Một cây nến đã làm cháy tấm rèm bằng vải muslin và sau đó lan ra cả tòa nhà, làm chết bốn người trong số 600 người có mặt, gồm cả em dâu của Schwarzenberg mà chỉ có thể nhận dạng được sau đó nhờ những chiếc nhẫn bà ta đang đeo. “Tôi không sợ, nhưng nếu Hoàng đế đã không buộc tôi phải rời khỏi phòng, thì rất có thể tôi đã bị bỏng vì tôi không hề biết gì về mối nguy hiểm”, Marie Louise nói với Pauline một tuần sau. Sau khi đưa vợ tới nơi an toàn, Napoleon quay lại để giám sát việc sơ tán, và quá thất vọng trước thời gian ứng cứu đến mức ông đã kiểm tra kỹ lưỡng lại toàn bộ hệ thống chữa cháy tại Paris, và lập ra lực lượng công binh-cứu hỏa (sapeurs-pompiers) . Sự mê tín của ông về biến cố này khiến ông tin rằng hoặc ông hoặc Schwarzenberg đang phải chịu một lời nguyền.

•••

Hôn lễ của Napoleon diễn ra tại Louvre cũng là phù hợp, vì nghệ thuật tạo hình là điểm quan trọng trong sự cảm nhận về Đế chế của ông, cả bởi người đương thời lẫn các thế hệ sau. “Ý định của ta là hướng nghệ thuật tới những chủ đề có thể làm sống mãi ký ức về những gì đã được thực hiện trong 15 năm qua”, ông nói với Daru, và sự bảo trợ hào phóng của ông đã đem đến kết quả phi thường. Nếu phải phê phán Napoleon, như ông đã từng bị, về sự nghèo nàn của văn chương đỉnh cao trong thời kỳ trị vì của mình, thì một cách logic, ông cũng xứng đáng được ca ngợi về thành tựu mỹ thuật lớn lao được tạo ra dưới thời Đế chế, điều ông đã làm rất nhiều để cổ vũ. Tất nhiên, ông đã sử dụng văn hóa cho mục đích tuyên truyền chính trị, giống như Louis XIV, các nhà cách mạng Pháp và kể cả Hoàng đế Augustus cùng nhiều hoàng đế La Mã khác mà Napoleon ngưỡng mộ đã từng làm. Nhưng chẳng thời kỳ nào có thể tự hào về những họa sĩ tài năng như thời kỳ này, mà theo Jacques-Louis David, người từng nói về Napoleon, “Nhờ bóng người anh hùng của mình, tôi sẽ được truyền lại hậu thế” – với những François Gérard, Théodore Géricault, Anne-Louis Girodet (người vào năm 1812 được đặt vẽ không ít hơn 36 bức chân dung toàn thân giống nhau của Napoleon; ông ta đã hoàn thành được 26 bức trước lần thoái vị thứ nhất của Napoleon), Antoine-Jean Gros, Jean Urbain Guérin, Jean-Auguste Ingres, Pierre-Paul Prud’hon, Carle Vernet và con trai Horace, Élisabeth Vigée-Lebrun, cũng như các họa viên Augustin và Isabey, những người làm nên danh hiệu “thời đại hoàng kim” dù hơi thái quá. (Tại Tây Ban Nha, ngay cả Goya cũng đã làm việc tại triều đình của Vua Joseph một thời gian.) Napoleon có một ngân sách hàng năm 60.000 franc để cổ vũ hội họa, và ông thường xuyên lạm chi. Chỉ riêng trong cuộc trưng bày năm 1810, ông đã mua 20 bức tranh hết 47.000 franc cho Louvre.

Hình ảnh và thành tựu của Napoleon được bất tử hóa trong các bức tranh, bản in khắc, thảm, huy chương, đồ sứ, các đồ tạo tác nghệ thuật và tượng như một cách vừa để hợp thức hóa sự cai trị của ông, và theo lời một nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật, vừa để “ghi tạc chính mình lâu dài trong ký ức Pháp”. Ông có thể đồng thời ngồi làm mẫu cho một họa sĩ và một nhà điêu khắc, miễn là họ tới vào giờ ăn trưa và không nói chuyện. Vào thời kỳ trước khi nhiếp ảnh ra đời, không thể trông đợi sự chính xác như thật trong nghệ thuật. Chẳng hạn, không ai nghĩ Napoleon đã thực sự vượt qua dãy Alps trên một con tuấn mã luôn chồm hai chân trước lên, như trong bức tranh của David; bởi nó được thực hiện với dụng ý như một lời ca ngợi ẩn dụ huy hoàng về thành quả vinh quang. Ở góc dưới bên trái là các dòng chữ “Hannibal”, “Karolus Magnus” (tức Charlemagne) và “Bonaparte” được khắc trên những tảng đá của dãy Alps.

Những người đối lập thì phủ nhận nghệ thuật thời Napoleon, coi đó là tuyên truyền đơn thuần, nhưng nhiều người am hiểu và sáng suốt không phải là người Pháp lại đánh giá cao, sưu tập và thậm chí đặt hàng chúng. Chẳng hạn, Công tước Hamilton đời thứ 10 đặt hàng David vẽ bức Napoleon in his Study at the Tuileries (Napoleon trong phòng làm việc của mình tại Tuileries) vào năm 1811; Hoàng thân-Nhiếp chính mua bức The Review at the Tuileries (Cuộc duyệt binh tại Tuileries) của Isabey. Hầu tước Lansdowne đời thứ 2 mua khá nhiều tác phẩm nghệ thuật thời Napoleon, trong khi Huân tước John Soane sưu tập những cuốn sách đóng gáy kiểu thời Napoleon, và John Bowes treo chân dung các thống chế của Napoleon trên cầu thang tại lâu đài Barnard.

Có lúc Napoleon thể hiện sự khiêm tốn, ông từ chối việc thể hiện mình như một bán thần: vào tháng Tư năm 1811, khi xem bức tượng cẩm thạch của mình do Antonio Canova thực hiện dưới cái tên “Thần Mars người Kiến tạo hòa bình” từng khiến ông mất năm buổi ngồi làm mẫu, một kỷ lục, trước khi nó được trưng bày công khai, ông lập tức ra lệnh cất nó vào kho, che kín sau một tấm màn gỗ và vải bạt trong suốt thời gian trị vì còn lại của mình. Ông sợ rằng dân chúng có thể cười cợt trước bộ dạng gần như khỏa thân của bức tượng, và so sánh vẻ bề ngoài của ông khi Canova bắt đầu thực hiện bức tượng vào năm 1803 với ngoại hình đã mập ra nhiều của ông tám năm sau đó. (Ngày nay có thể thấy bức tượng tại cầu thang của Ngôi nhà Apsley tại London, nơi các vị khách của Công tước Wellington thường treo ô của mình lên nó).

Sự bảo trợ của Napoleon, và sự bảo trợ còn tích cực hơn nhiều của Josephine, đã tạo ra một phong cách mỹ thuật tân cổ điển, bao gồm nhà cửa, đồ gỗ nội thất, đồng hồ, phòng ăn, bộ đồ ăn, vải vóc, giấy dán tường, phòng ngủ, tranh trang trí nội thất, đèn chùm, gương, cách bố trí ánh sáng và làm vườn. Kiểu trang trí xa hoa thời Chế độ cũ vốn đã ít nhiều xuất hiện trở lại dưới thời Đốc chính, song thực sự phải cần tới Đế chế Napoleon để định hình phong cách. Sự say mê Napoleon dành cho Hy Lạp và La Mã cổ đại đồng nghĩa với việc kiến trúc cổ đại sẽ luôn được ưa chuộng, và cuộc viễn chinh Ai Cập của ông đã truyền cảm hứng cho các kiến trúc sư như Percier, Fontaine và Berthault cùng nhiều nhà trang trí nội thất để thử nghiệm với các chủ để về Ai Cập.

Nhiều kỳ quan của phong cách Đế chế ngày nay vẫn có chỗ thấy được, củng cố cho ý tưởng rằng dưới thời Napoleon kiến trúc và trang trí nội thất của Pháp dẫn đầu thế giới. Liệt kê ngẫu nhiên, chúng bao gồm: sảnh khiêu vũ và thư viện tại Compiègne, mặt tiền lâu đài Margaux gần Bordeaux, vải vóc của nhà Prelle, Phòng khách lớn của dinh thự Beauharnais và tầng trệt dinh thự Bourrienne (do Étienne Leconte thiết kế) ở Paris, cầu thang Điện Élysée, những chiếc bàn viết của Jacob-Desmalter, tượng Mẫu Phu nhân của Canova tại Chatsworth, khuê phòng của Josephine tại Saint-Cloud, những chiếc lọ bạc đựng mù tạc của Martin Biennais, chiếc giường của Pius VII và chậu rửa của Josephine tại Fontainebleau, những chiếc bàn trà kim loại phủ véc-ni của Blaise Deharme, phòng khách của Hoàng đế tại Grand Trianon ở Versailles (nơi Napoleon có các phòng thay vì tại chính lâu đài Versailles, vì phong cách thời Chế độ cũ quá rõ rệt của nó), những bức tượng đồng thau của Antoine-Denis Chaudet, trang trí phòng tắm của Auguste Famin tại Rambouillet (mà rõ ràng Napoleon không thích lắm), những chiếc ghế bành của Pierre Bellangé, những chiếc tách hình thiên nga của Darte Frères, những chiếc đồng hồ của Joseph Revel, trần thư viện của Percier và Ngôi đền Tình yêu của Berthault tại Malmaison, những tấm thảm của Sallandrouze từ Aubusson,