← Quay lại trang sách

Chú Thích

.

1

(*) Dinh thự đồng quê của Thủ tướng Anh tại Ellesborough, Anh. (ND)

(*) Từ chỉ các chỉ huy quân đánh thuê ở Italy thời Trung cổ và Phục hưng. (ND)

2

(*) Đế quốc tồn tại ở vùng bờ biển Đen thuộc Đông bắc bán đảo Tiểu Á và Nam bán đảo Crimea từ năm 1204 đến 1461. (ND)

(*) Đơn vị tiền tệ thời trước cách mạng ở Pháp, giá trị dao động theo thời kỳ. Từ năm 1726, 1 đồng louis vàng, đồng tiền kim loại giá trị nhất ở Pháp, được coi tương đương 24 livre. (ND)

(*) Tương đương với tên Carlo trong tiếng Italy. (ND)

(*) Áo choàng ngoài rộng của đàn ông thời La Mã cổ đại. (BT)

(*) The Great Man theory: học thuyết cho rằng khả năng lãnh đạo là bẩm sinh chứ không thể rèn luyện được, và chỉ có những lãnh đạo bẩm sinh mới có thể thay đổi lịch sử. (BT)

(*) Khu vườn bãi cỏ rộng nằm cạnh sông Seine, thường là nơi tổ chức các sự kiện lớn. (BT)

(*) Việc Napoleon là một học trò giỏi tới mức nào vẫn còn gây tranh cãi; năm 1807, ông có hỏi nữ Bá tước Anna Potocka xem bà ta nghĩ sao về cách ông khiêu vũ trong một vũ hội ở Warsaw. “Tâu bệ hạ”, bà ta trả lời xã giao, “là một người vĩ đại, ngài khiêu vũ thật hoàn hảo” (Stryjenski biên soạn, Memoires (Hồi ký), tr.125).

3

(*) Tại Paris, những người Jacobin và Câu lạc bộ Girondin ôn hòa hơn đang trong tiến trình nhìn nhận nhau như những kẻ thù về lý tưởng.

(*) Cờ có ba sọc màu xanh, trắng và đỏ. (BT)

(*) Các nữ thần bảo thủ trong thần thoại Hy Lạp. (ND)

(*) Ở trên tác giả cho biết hồ sơ tại Bộ Chiến tranh ghi Napoleon “Đã từ bỏ nghiệp của mình và đã bị thay thế vào ngày 6 tháng Hai năm 1972”, tuy nhiên ở đây, Napoleon vẫn tiếp tục công việc của mình. Có thể phỏng đoán tình trạng này là do bối cảnh thời sự đương thời khiến các giấy tờ bị đình trệ. (BT)

(*) Cha ông, William Pitt già (1708-1778) từng là Thủ tướng dẫn dắt Anh tới chiến thắng trước Pháp trong chiến tranh Bảy năm.

(*) Vụ xử tử bằng máy chém đầu tiên là cuộc hành quyết một tên cướp đường vào tháng Tư năm 1792, nhưng sau đó cách xử tử này trở thành phổ biến trong cả hành quyết phạm nhân chính trị lẫn dân sự.

(*) George III, vua Anh từ 1760 đến 1820, người mà trong toàn bộ các cuộc chiến tranh Cách mạng và Chiến tranh Napoleon thường lâm vào tình trạng mất trí định kỳ rồi lại khỏi trong giai đoạn này. Năm 1811, chế độ nhiếp chính được thành lập, trong đó con trai ông ta, Vương hầu-Nhiếp chính, sau này là Vua George IV, nắm quyền điều hành thực tế thay cha.

(*) Sự ủng hộ của Gasparin được Napoleon nhớ tới trên giường bệnh của mình khi sắp mất. Ông để lại 100.000 franc cho hậu duệ của ông này trong di chúc của mình, lý giải: “Với sự bảo vệ của ông ấy, Gasparin đã che chở cho ta khỏi sự hành hạ của ban tham mưu dốt nát chỉ huy quân đội trước khi người bạn Dugommier của ta tới” (ed. Jonge, Napoleon’s Last Will and Testament , tr.78).

(*) Mulgrave sau này là Bộ trưởng Ngoại giao của Pitt trong giai đoạn 1805-1806.

(*) Tuy nhiên, ông không phải là người duy nhất mắc căn bệnh rất dễ lây lan do vật ký sinh này gây ra – bệnh ghẻ rất hay gặp ở mọi quân đội thời đó; người Pháp có hai biệt danh cho nó, la Gratelle (gãi) và biệt danh mỉa mai la Charmante (cô nàng duyên dáng). “Mọi người đều gãi”, một cựu binh nhớ lại, và một báo cáo gửi Ủy ban Y tế Công cộng cho biết có không dưới 400.000 người mắc ghẻ trong quân đội. Napoleon sau này đã lập những bệnh viện đặc biệt cho họ trong các chiến dịch của ông (Desclaux, “A Propos de la ‘Gale’” tr.868, Brice, The Riddle , tr.139, Friedman, Emperor’s Itch , tr.32).

4

(*) Loại lịch được sử dụng từ năm 1792 đến 1806 và một thời gian ngắn trong thời kỳ Công xã Paris, được bắt đầu tính từ ngày 1 tháng Vendémiaire của Năm I (22/9/1792) ngày tuyên bố thành lập nền Cộng hòa. Theo lịch cách mạng, một năm được chia thành 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, và 5 hoặc 6 ngày bổ sung được thêm vào cuối năm. Các tháng gồm: Vendémiaire (tháng Hái nho – 22/9 đến 21/10), Brumaire (tháng Sương mù – 22/10–20/11), Frimaire (tháng Giá – 21/11 đến 20/12), Nivôse (tháng Tuyết – 21/12–19/1), Pluviôse (tháng Mưa – 20/1 đến 18/2), Ventôse (tháng Gió – 19/2 đến 20/3), Germinal (tháng Nảy mầm – 21/3 đến 19/4), Floréal (tháng Hoa – 20/4 đến 19/5), Prairial (tháng Đồng cỏ – 20/5 đến 18/6), Messidor (tháng Mùa gặt – 19/6 đến 18/7), Thermidor (tháng Nóng – 19/7 đến 17/8), Fructidor (tháng Quả – 18/8–16/9). (ND)

(*) Biệt danh của nhân vật chính trong loạt tiểu thuyết lịch sử của nữ Nam tước Orczy, chuyên đưa các gia đình quý tộc Pháp thoát sang Anh thời Cách mạng Pháp. (ND)

(*) Tiếng Đức: Sturm-und-Drang . Trào lưu nghệ thuật nổi bật của Đức hồi thế kỷ 18, và nằm trong số những trào lưu nổi tiếng và quan trọng nhất của Thời kỳ Khai sáng. (BT)

(*) Hội nghị chính trị của ban đốc chính. (BT)

(*) Để so sánh, vào năm 1780, trong cuộc Bạo động Gordon ở London, 285 người đã bị giết, 200 người bị thương và 20 người nữa bị hành quyết.

(*) Việc hát giai điệu cách mạng chống quân chủ nổi tiếng của năm 1792 bị Napoleon loại bỏ khi ông trở thành Hoàng đế, nhưng rồi ông lại cho sử dụng bài hát vào năm 1815.

(*) Ngày nay nơi này có thể được vào thăm nếu bạn có mặt đúng vào 3 giờ chiều Chủ nhật. Trong những cuộc Thảm sát tháng Chín năm 1792, đám đông đã tàn sát 115 tu sĩ ở đó, xương sọ cùng hài cốt của 35 người trong số này được mang ra trưng bày.

(*) Đơn vị đo chiều dài thời cổ đại, bằng 46cm. (ND)

(*) Trong nhiều thập kỷ sau, những nhà tuyên truyền người Anh và Bourbon đã thêm trở lại chữ “u” nhằm nhấn mạnh nguồn gốc ngoại quốc của Napoleon, như trong tập sách mỏng có tựa đề sống động xuất bản năm 1814 của François-René de Chateaubriand Về Buonaparte và nhà Bourbon và sự cần thiết của việc tập hợp quanh các Vương hầu chính thống của chúng ta vì hạnh phúc của Pháp và châu Âu , trong đó tác giả viết: “Không còn hy vọng nào về việc tìm thấy trong những người Pháp một người đủ dũng cảm để dám mang vương miện của Louis XVI. Một kẻ ngoại quốc tự đề cử mình, và được chấp nhận”. (Chateubriand, Of Buonaparte , tr.5). Ngay cả khi gia đình hoàng tộc Anh đổi tên triều đại của họ từ Saxe-Coburg-Gotha sang Windsor năm 1917, một số sử gia người Anh vẫn giễu cợt Napoleon vì đã bỏ chữ “u” khỏi họ của ông.

5

(*) Một bán lữ đoàn là tiền thân của trung đoàn bộ binh, trong thời kỳ các cuộc Chiến tranh Cách mạng Pháp những đơn vị này hiếm khi có quân số đầy đủ, và nói chung thường có quân số trung bình khoảng 2.400 người, được chia thành ba tiểu đoàn.

(*) Các bản nhật lệnh thường dùng để cung cấp thông tin và mang tính hành chính, được đọc to lên ở buổi điểm danh lúc 1 giờ chiều nơi doanh trại hoặc trong những lúc dừng nghỉ trên đường hành quân. Chúng khác với các bản tuyên bố, được đọc như các bài diễn thuyết và nhằm cổ vũ tinh thần.

(*) Dù quân đội Pháp không dùng hình phạt đánh roi như quân đội Anh, họ lại phóng túng hơn với án tử hình. Khi 12 nhân viên cấp phát ở bộ phận phụ trách quân lương bị bắt vì đã đem bán các khẩu phần ăn của Cận vệ Đế chế trước trận Wagram, họ đã bị xử bắn vài giờ sau đó (Blaze, Life in Napoleon’s Army , tr.190). Ở Tây Ban Nha một người bị bắn vì ăn một chùm nho (thứ quả bị cho là gây bệnh tả), và việc sử dụng vũ lực với cấp trên có thể dẫn tới tử hình. Một lính khinh binh thậm chí còn bị bắn trong một chiến dịch sau đó ở Tây Ban Nha vì lấy một chiếc tạp dề đen của phụ nữ để làm cà vạt.

(*) Dù hay cưỡi ngựa tới kiệt sức nhưng Napoleon là một kỵ sĩ giỏi; ông đã thiết lập được “quyền làm chủ hoàn toàn” với lũ ngựa của mình, và thỉnh thoảng thậm chí còn khiến chúng thực hiện những trò tinh nghịch (Balcombe, To Befriend , tr.41-42).

(*) Quân đội Anh của Wellington cũng không vô tội trong chuyện này. Chúng ta có tương đối ít hồi ký của những người tham gia chiến đấu trong Chiến tranh Bán đảo, nhưng một hồi ký của Friedrich Lindau thuộc Binh đoàn Đức của nhà vua cho thấy rõ là họ lấy cắp của dân chúng địa phương và đánh đập những nông dân từ chối đưa cho họ lương thực và gia súc. (ed. Bogle and Uffindell, Waterloo Hero passim, Mars & Clio , No.26, tr.89-90). Napoleon có xử bắn một viên hạ sĩ và hai người lính đã lấy trộm những chiếc bình thánh từ một nhà thờ, hành động mà theo suy nghĩ của chính ông không thể so sánh với việc ông lấy đi phần lớn kho báu nghệ thuật thời Phục hưng của Italy từ các nhà thờ và cung điện. Các tướng lĩnh Pháp thường xuyên làm giàu cho bản thân họ bằng cách tước đoạt của những kẻ bị chinh phục, ở một số người như Masséna thì sự tham lam đã bị đẩy tới những giới hạn trắng trợn; Napoleon sau này bắt ông ta phải nhả ra hàng triệu franc. Việc các chỉ huy tự thưởng hậu hĩnh cho mình là chuyện thông thường thời đó: Wellington trở về từ chiến dịch của mình ở Ấn Độ đã trang trải hết các món nợ của mình và kiếm được một gia sản 42.000 bảng Anh, tương đương với hơn 1 triệu franc, tất cả đều hoàn toàn hợp pháp (Weller, Wellington in India , tr.257-259).

(*) Theo sử gia Roma Livy, cuộc chiến giữa La Mã và Abba Longa đã được quyết định bằng kết quả trận đánh giữa ba anh em Horatius với ba anh em Curatius. Trong trận đánh, ba anh em Curatius đều bị thương, còn hai người anh nhà Horatius đều bị giết. Người em út Publius liền quay người bỏ chạy. Ba anh em Curatius đuổi theo, nhưng vì đều bị thương nên tách rời nhau, và bị Publius giết lần lượt từng người một (ND).

(*) Đây căn bản cũng là lý lẽ biện hộ cho việc các tác phẩm điêu khắc Hy Lạp bằng cẩm thạch (bộ sưu tập Elgin Marble) ở lại bảo tàng Anh ngày nay, cho dù chúng được thu thập về dưới các hoàn cảnh khác nhau.

(*) Nó nằm cách cây cầu ngày nay khoảng 14 m về phía thượng nguồn.

(*) Vượt qua các cây cầu và chiếm lấy các đầu cầu trong sự hiện diện của địch sẽ trở thành một nét thường trực trong các chiến dịch của Napoleon. Hành động này sẽ tái diễn ở Arcole năm 1796, ở chiến dịch Danube năm 1805, tại Jena năm 1806, trong chiến dịch Ba Lan năm 1807, tại Aspern-Essling và Wagram năm 1809, tại Berezina năm 1812, tại Leipzig năm 1813, tại Montereau năm 1814 và tại Charleroi năm 1815.

(*) Tuy thế, không phải hôm đó tất cả đều là chiến thắng. Sau khi giành thắng lợi trong trận đánh, Napoleon biết được Laharpe đã tử trận trong một cuộc giao chiến nhỏ gần Piacenza. Ông viết cho Đại sứ Pháp tại Berne để đảm bảo rằng lãnh địa của Laharpe, từng bị nhà cầm quyền địa phương tịch thu trong thời gian Cách mạng, được trả lại cho sáu đứa con của vị tướng. Chính quyền bang Berne không thể từ chối yêu cầu của người chiến thắng tại Lodi.

(*) “Trong chiến tranh không gì quan trọng bằng một sự chỉ huy không bị chia sẻ”, Napoleon sau này tuyên bố. “Chỉ nên có một đạo quân, hành động trên một cơ sở, và được chỉ huy bởi một tư lệnh” (ed. Chandler, Military Maxims , tr.213).

(*) Người ta cho rằng vào dịp này ông đã nhận xét với Marmont: “Vận may là một người phụ nữ, và nàng càng làm nhiều cho tôi, tôi sẽ càng đòi hỏi nhiều từ nàng” (Rose, Napoleon I , tr.118).

(*) Đại từ nhân xưng trong tiếng Pháp, chỉ ngôi thứ hai số ít hàm nghĩa thân mật. (BT)

6

(*) Khi người Senone, một bộ lạc người Gaul tấn công La Mã vào khoảng cuối thế kỷ 4 TCN, người La Mã thua trận và phải rút lên cố thủ trên đồi Capitol. Tình cờ, người Gaul phát hiện ra một lối lên đồi và quyết định tập kích bất ngờ. Nhưng khi người Gaul leo lên đồi, những con ngỗng được nuôi trên đồi đã kêu toáng lên, đánh động lính gác, giúp người La Mã đẩy lùi người Gaul, nhờ đó giữ được đồi Capitol, cứ điểm duy nhất còn lại của họ để từ đó xây dựng lại La Mã. (ND)

(*) Nguyên văn là Dragoon (hay dragon), bộ binh hành quân trên lưng ngựa nhưng được trang bị để tác chiến như bộ binh, về sau dần dần trở thành kỵ binh, tên gọi xuất phát từ việc quân kỳ của các đơn vị này thường mang hình rồng. (ND)

(*) Từ “mất tích” hàm ý nhiều khả năng trong chiến tranh thời đó, bao gồm chết nhưng không thể tìm thấy hay nhận dạng; lẫn trốn; đào ngũ; lạc do ngẫu nhiên hay có chủ ý; giả ốm; bị bắt; bị sang chấn, bị du kích giết; vào nhầm thông tin trong các danh sách quân số sau trận đánh; tạm thời bị đưa vào đơn vị khác; bất tỉnh và không được xác định danh tính trong một bệnh viện dã chiến; bị nổ tan xác hay chỉ đơn thuần là vắng mặt không phép. Vì thế những người mất tích thường xuất hiện trở lại trong quân số tác chiến sau này, cho dù nhiều trường hợp đã không xuất hiện.

(*) Napoleon có trí tưởng tượng linh lợi trong việc nghĩ ra các hình thức trừng phạt khác thường. Tin rằng chính “những người phụ nữ ghê tởm” đi theo các đơn vị phải chịu trách nhiệm về việc “kích động binh lính cướp phá”, giữa tháng Tư năm 1797 ông ra lệnh tất cả phụ nữ vẫn còn đi theo sư đoàn của Bernadotte trong vòng 24 tiếng kể từ khi mệnh lệnh được đưa ra sẽ bị bôi nhọ nồi và bêu hai giờ ngoài chợ” (ed. Bingham, Selection I , tr.151).

7

(*) Biểu tượng của Venice. (ND)

(*) Napoleon không thể hoàn toàn tảng lờ Đốc chính. Hồi tháng Sáu khi Pius VI bị một cơn xung huyết, ông đã yêu cầu “một chỉ dẫn cụ thể về hành động tôi cần thực hiện nếu Giáo hoàng qua đời. Tôi có nên cho phép đưa lên một Giáo hoàng mới hay không?” (CG 1 no.1725 tr.1030). Pius bình phục và sống thêm được hai năm nữa.

(*) Trên thực tế, Vua Charles Emmanuel vẫn ở trên ngai vàng cho tới khi ông ta thoái vị, nhường ngôi cho em trai năm 1802.

(*) Nếu Áo cuối cùng thích trở lại chiến tranh hơn, quân đội sẽ cần phải sẵn sàng, vì thế Napoleon cũng đã viết những lá thư như thư gửi cho công dân Haller, người phụ trách tài chính của Đốc chính ở Paris, nói rằng: “Làm ơn hãy tới chỗ người ta làm cúc áo, và cho tôi hay tình hình ra sao; toàn bộ quân đội ở trần vì cúc áo vẫn chưa được làm”. Phần tái bút của lá thư chỉ viết: “Tiền, tiền, tiền!” (CG 1, no.2146, tr.1243).

(*) Ám chỉ Pantalone, nhân vật trong hài kịch Italy, vốn là lính đánh thuê và tham lam.

(*) Nguyên văn “ship-of-the-line”: chiến hạm chủ lực của các hạm đội thời đó, với hỏa lực chủ yếu là đại bác bố trí thành dãy dọc theo hai bên mạn, khi tác chiến thường được bố trí thành đội hình một hàng dọc (line), do đó có tên gọi như vậy. (ND)

(*) Nguyên văn là hussar, tên gọi một số loại khinh kỵ được trang bị kiếm và súng ngắn. (ND)

(*) Được cải tạo lại nhiều vào năm 1865, ngôi nhà này hiện mang số 60 là một ngân hàng; không giống như các di tích khác về Napoleon, nơi này không có nhiều thứ đáng tham quan.

(*) Một viên tướng được trả lương khoảng 5.000 franc một năm vào thời kỳ này.

(*) Tổ chức hợp nhất năm viện hàn lâm của Pháp. (ND)

8

(*) Istanbul ngày nay. (ND)

(*) Ông là cha của Alexandre Dumas, tác giả tiểu thuyết Bá tước Monte Cristo .

(*) Khoảng 5.100 m². (ND)

(*) 1 pint = 0,473 lít. (ND)

(*) Nguyên văn: Mufti. Giáo sĩ, học giả Hồi giáo giảng và cắt nghĩa về Sharia (tín ngưỡng) và fiqh (hành xử luật.) (BT)

(*) Nguyên văn: Imam. (BT)

(*) Nguyên văn: Rabbi: Thầy giảng, những người diễn kịch Kinh Thánh thư Giáo luật. (BT)

(*) Đây khó có thể coi là một biểu tượng lý tưởng; Pompey đã bị sát hại ngay khi đặt chân lên bờ ở Ai Cập năm 48 TCN. Trong số 150 người Boyer nhắc tới, chỉ có 40 người chết, số còn lại bị thương.

(*) Nguyên văn: Sheikh. (BT)

(*) Trên thực tế là 44 thế kỷ ngăn cách giữa năm 1798 và thời điểm xây dựng Kim tự tháp Lớn ở Cheops.

(*) Ông đang nhắc tới việc người Hồi giáo phá hủy các thánh tượng sau cuộc chinh phục Mecca năm 630.

(*) Có lần ông đề xuất với một giám mục Pháp cho phép đa thê ở vùng Tây Ấn thuộc Pháp, “nhưng Đức cha không chấp nhận điều đó” (ed. Kerry, The First Napoleon , tr.99.)

(*) Nguyên văn: Houri , tiên nữ trên thiên đường của người Hồi giáo. (ND)

(*) Một loại khăn xếp quấn quanh đầu của người Hồi giáo. (BT)

(*) Tuần Mười ngày Ai Cập. (ND)

(*) Ngày hôm đó ông cũng viết cho Berthier, yêu cầu cho Trung sĩ Larreille thuộc Trung đoàn bộ binh 75 được nhận gấp đôi lương trong hai tháng vì đã phục vụ xuất sắc, bên cạnh 11 lá thư khác (CG2 no.2798, tr.265.) Từ khi đặt chân lên Ai Cập vào tháng Bảy năm 1798 cho tới khi rời khỏi đây 13 tháng sau, Napoleon đã gửi đi 2.196 lá thư và công văn còn lưu lại được.

(*) Đốt phá làng mạc là một phương pháp chuẩn mực nhằm kiểm soát các khu vực thù địch tiềm tàng tại Châu Á; quân đội Anh tại Ấn Độ thường xuyên “lặp lại sự bình lặng”, như một sử gia viết về các chiến dịch của Wellington tại đó, “bằng cách đốt phá bừa bãi làng mạc và cướp gia súc” (Davies, Wellington’s Wars , tr.25.)

(*) Đơn vị khối lượng cũ ở Pháp: 1 livre = 489 gam. (ND)

(*) Còn gọi là Hồng Hải. (ND)

(*) Ngay cả ngày nay, bờ biển phía đông bắc cũng có nhiều đầm nước mặn với những khu đất nằm xen kẽ ở giữa; thủy triều lên xuống ở khu vực này rất dữ dội. Người ta có thể băng qua một nơi trông như một bãi biển bình thường khi thủy triều dâng lên và nhanh chóng tràn ngập nơi đó.

9

(*) Paul I, hay ở Việt Nam phổ biến cách dùng tên Pavel I. (BT)

(*) Bằng 0,453 kg. (ND)

(*) 1 lieue (league) = 4,44 km. (ND)

(*) Người Maghreb xuất thân từ Algeria, Morocco, Tunisia, Mauretania, và Lybia; người Arnaute có gốc gác từ tận Albania.

(*) Thành phố nào từ chối đầu hàng khi được cho cơ hội bị coi là xứng đáng bị cướp phá; quân Anh đã tiến hành cướp bốc và hãm hiếp quy mô lớn trong ba ngày tại Badajoz năm 1812 một cách hung bạo, tới mức Wellington cuối cùng phải lấy lại quyền kiểm soát người của mình bằng cách dựng một giá treo cổ ở quảng trường trung tâm (nó không được dùng đến). Như Napoleon, ông cũng không tán thành việc cưỡng hiếp và cướp bóc.

(*) Sử dụng không ảnh do quân đội Đức chụp năm 1917, có thể nhận diện ra bãi biển nơi cuộc tàn sát diễn ra ở ngay phía nam thành cổ Jaffa, nơi ngày nay nằm dưới một bãi để xe; những tảng đá nơi các nạn nhân bơi tới ngày nay là một phần đê chắn sóng của bãi biển.

(*) Napoleon chưa bao giờ đặt chân tới Jerusalem, cho dù điều đó không hề ngăn cản tờ áp-phích quảng cáo của văn phòng du lịch Israel trên hệ thống tàu điện ngầm ở Paris năm 1996 viết: “Napoleon đã tận hưởng nhiều giấc ngủ trưa tại Jerusalem; tại sao bạn lại không?”

(*) Khi dịch bệnh xuất hiện tại Alexandria vào tháng Một, Napoleon đã nghĩ ra thêm một hình phạt khác thường nữa. Bác sĩ phẫu thuật Boyer, người từ chối điều trị cho các nạn nhân của dịch bệnh, bị buộc phải đi bộ trên phố, ăn mặc như một phụ nữ và đeo một tấm biển ghi: “Không xứng đáng là một công dân Pháp: ông này sợ cái chết.”

(*) Một số ít được tìm thấy năm 1982 và ngày nay có thể tìm thấy tại Bảo tàng Khảo cổ học Tel Dor, bao gồm một khẩu pháo mang phù hiệu của vua Tây Ban Nha Charles IV đúc năm 1793 và một khẩu cối mang tên Selim III viết theo kiểu đồ họa chiếm được tại Jaffa.

10

(*) Đơn vị tiền tệ trước đây của Pháp, 1 sol = 1/20 livre. (ND)

(*) Moulin gia nhập quân đội và phục vụ dưới quyền Napoleon; Gohier lui về lãnh địa của mình, và sau này trở thành đại sứ của Napoleon tại Hà Lan.

(*) Oliver Cromwell (1599-1658), nhà lãnh đạo chính trị  và quân sự người Anh, đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền Cộng hòa Anh. (BT)

(*) Vào thời kỳ này 1 écu tương đương 5 franc. (ND)

(*) Con trai của đại biểu Auguste-Louis Petiet sau này khẳng định là Thomé chỉ vướng ống tay áo vào vũ khí của một đồng đội (Lentz, 18-Brumaire , tr.329, Sciout, Le Directoirep IV , tr.652 n.1).

11

(*) Vị trí này dành cho người chưa chính thức trở thành Tổng tài cho tới khi được thông qua cuộc trưng cầu dân ý.

(*) Lucius Quinctus Cincinnatus (519-430 TCN): chính khách La Mã, được coi là hiện thân của các phẩm chất của nền Cộng hòa La Mã. (ND)

(*) Thời kỳ trước cách mạng Pháp, chế độ xưa. (BT)

(*) Chỉ nhà quý tộc Anh. (BT)

(*) Tên gọi những người tham gia phong trào nổi dậy bảo hoàng chống lại Cách mạng Pháp ở vùng phía bắc sông Loire. (ND)

(*) Cách gọi các thành viên Câu lạc bộ Feuillant, một nhóm chính trị thời Cách mạng Pháp sử dụng trụ sở tại tu viện của Dòng tu Feuillant đã bị giải thể. (ND)

(*) Hòa hợp. (ND)

12

(*) Một huy chương khác được đúc để chào mừng việc khánh thành kè Desaix ở Paris muộn hơn trong cùng năm, và thêm một huy chương nữa khi thi hài Desaix được chuyển tới một ngôi mộ ở Great St Bernard Hospice năm 1805 (Crowdy, The Incomparable , tr.94-97; Petit, Marengo tr.47).

13

(*) Nguyên văn: post-coital. (ND)

(*) Một loại thuyền trước đây, sàn thấp, chạy bằng buồm và chèo, thường do nô lệ hoặc tù nhân chèo. (BT)

(*) Từ năm 1804, các mục sư Tin Lành cũng được nhà nước trả lương. Khoan dung tôn giáo ở bất cứ mức độ nào không phải là điều phổ biến trên toàn châu Âu thời đó; chẳng hạn tại Anh người thiên chúa giáo bị cấm đặt chân vào hạ viện cho tới năm 1829, trong khi người do Thái bị cấm tới năm 1858.

(*) Bất chấp việc này, Napoleon quy sự sung túc tương đối của gia đình ông tại Ajaccio cho việc tài sản của họ đã không bị chia nhỏ ra trong hơn một thế kỷ.

(*) Luật lao động khắc nghiệt với người lao động trên khắp châu Âu vào thời đó; vào ngày Năm mới của năm 1812, Giám mục Durham – hiểu rằng quyền lực tăng lữ của mình có ảnh hưởng rộng rãi – đã ra lệnh cho quân đội Anh dùng vũ lực đàn áp cuộc đình công của thợ mỏ ở miền Bắc Anh.

(*) Tuy thế, việc thiếu lao động do chiến tranh liên miên đồng nghĩa với việc lương tăng lên một phần tư về giá trị thực trong 15 năm trị vì của ông.

(*) Nguyên văn: some masses of granite – hay còn gọi là những thể chế mới do Napoleon xây dựng để củng cố nhà nước, mà đến nay vẫn còn được duy trì: Hội đồng nhà nước; cảnh sát trưởng; đồng franc Pháp; Ngân hàng Pháp quốc; Bộ luật Dân sự; hệ thống trường trung học; Giáo ước; Bắc đẩu bội tinh… (Tham khảo: https://www.napoleon.org) (BT)

14

(*) Pháp đã nhượng Louisiana cho Tây Ban Nha theo Hiệp ước Fontainebleau (1762).

(*) Phố Saint-Niçaise, sau này đã bị phá bỏ, bắt đầu từ nơi ngày nay phố l’Échelle giao với phố Rivoli.

(*) Cơ cấu điểm hỏa của quả bom hiện được trưng bày tại Bảo tàng Sở Cảnh sát trên phố Carmes ở Paris.

(*) Napoleon viết cho Jourdan ngày 13 tháng Một rằng: “Nước Anh dường như can dự rất nhiều vào tất cả chuyện này” (CG3 no.5913, tr.513).

(*) Destrem chết tại Île d’Oléron năm 1803; Talon trở lại chính quyền năm 1809.

(*) Vì vị Đại Công tước Tuscany phải ra đi đã lột sạch mọi thứ trong cung điện ở Florence của ông ta trước khi vị vua và hoàng hậu mới tới, công chúa đã ghi lại ở ngôi thứ ba rằng: “Đây là lần đầu tiên con gái của vua Tây Ban Nha, vốn quen với việc được phục vụ bằng đồ vàng và bạc, thấy mình buộc phải ăn bằng đồ sứ”. (Etruria, Memoirs tr.309).

(*) Con trai nhà kinh tế học Pierre du Pont de Nemours, người đã rời Pháp sau hai lần bị bắt giam để lập nên một doanh nghiệp thương mại thành công tại Mỹ (ngày nay là nhà khổng lồ hóa học DuPont).

(*) Tuy nhiên, việc điều hành bữa tiệc đã có thể được cải thiện. Với 1.200 người tới nơi với tỉ lệ trung bình 3 người trên một xe ngựa và mỗi xe có 90 giây để cho khách xuống xe kể từ 9 giờ tối trở đi, du Pont ghi nhận rằng vẫn có một số người tới vào lúc 6 giờ sáng hôm sau.

(*) Napoleon miễn cho Menou khỏi mọi trách nhiệm cá nhân vì tai họa tại Ai Cập, song viên tướng này không bao giờ được giao cho một chức chỉ huy ngoài chiến trường nào nữa.

(*) Thư từ của Napoleon vào ngày 30 tháng Chín năm 1801, hôm trước ngày Hiệp ước sơ bộ được ký kết, thể hiện sự phân tâm của ông. Ông gửi đi 11 lá thư: ba cho Chapital (một để chỉ định một tỉnh trưởng cho vùng Liamone), một cho Fouché yêu cầu tống giam vào nhà tù Ham bất cứ ai xuất khẩu lúa mì, cho François Barbé-Marbois, Bộ trưởng Ngân khố và André Abrial, Bộ trưởng Tư pháp, mỗi người một lá thư, ba thư cho Talleyrand và hai cho Berthier yêu cầu tìm giường cho binh sĩ thuộc sư đoàn 23 đồn trú tại Bastia, những người vẫn đang phải ngủ trên ổ rơm (CG3, no.6525-35, tr.795-798).

(*) Napoleon lo ngại rằng, các bức tranh và tượng tại Louvre bị động chạm tới trong các buổi lễ chào mừng “để lấy chỗ cho những người nước ngoài có thể nhìn qua các cửa sổ”. Khi khách yêu cầu đặt lò sưởi để sưởi ấm bảo tàng, ông đã nhạy bén bác bỏ ý tưởng này vì quá nguy hiểm (CG3 no.6624 tr.836).

(*) Bản khuôn thạch cao một bên ngực của Pauline do Canova thực hiện năm 1804 ngày nay có thể thấy tại Museo Napoleonica, Rome. Bà đẹp, cho dù Laure d’Abrantès khẳng định bà có đôi tai hơi to.

15

(*) Tướng Charles Napier, người từng là tù binh chiến tranh tại Pháp, chỉ trích “ý tưởng giam cầm những người lính đáng kính trọng… trong hầm tàu suốt nhiều năm, một hình phạt còn vượt xa hình phạt dành cho những kẻ tội phạm ghê tởm nhất… [điều] đáng hổ thẹn cho Chính phủ thời đó, và đưa ra một sự tương phản rõ rệt với cách cư xử trọng danh dự mà tù binh Anh nhận được tại Pháp theo lệnh Hoàng đế Napoleon” (Blaze, Life in Napoleon’s Army , tr.66).

(*) Sau Hiệp ước Amiens, trái phiếu hợp nhất 5% của Pháp có giá 48 tới 53 franc, trong khi Công trái hợp nhất 3% của Anh dao động từ 66 đến 79 franc, bất chấp lãi suất thấp hơn mà chúng dự kiến mang lại (Lefebvre, Napoleon tr.132).

(*) Tờ Annual Register mô tả Josephine như “một ả phóng đãng ngay từ khi chào đời, vì ở tuổi 13 cô đã bị hai người hầu của mẹ, một da đen và một người lai da nâu, làm cho sa đọa và đã có thai với bọn họ”. Theo ấn bản này, do Edmund Burke thành lập, Josephine có vẻ đã sinh ra một trẻ trai lai khi kết hôn với Beauharnais, và Napoleon “quyết tâm cưới Giáo hoàng cho mẹ mình” ( Annual Register 1809, tr.342).

(*) Phủ nhiễu đen là dấu hiệu để tang ở châu Âu, ý Napoleon muốn nói các hiệp ước không còn ý nghĩa nữa. (ND)

16

(*) Tấm thảm thuật lại cuộc tấn công Anh thành công năm 1066 của Công tước Normandy William Kẻ Chinh phục.

(*) Luôn là như thế, ông tiếp tục đắm mình trong những công việc quản lý hành chính chi li, ra lệnh cho Gaudin sa thải bà chủ trạm bưu điện tại Angen vì vi phạm bí mật thư tín (điều mà ông đang có cả một cơ quan chính phủ bận rộn làm cho mình) (CG4  no.8520 tr.547).

(*) Các cơ quan an ninh Pháp, do Fouché và Savary chỉ đạo, ước tính những kẻ có thể ám sát Napoleon ở thủ đô vào thời gian đó khoảng 40 người, cho dù họ có thể đã ước lượng vống lên vì số đối tượng bị nhận diện ít hơn nhiều (Ségur, Memoirs tr.97).

(*) Taleyrand được sinh ra cho những hành động phóng túng kiểu này; vào cuối năm 1797 ông ta từng đề xuất với đại sứ Pháp tại Berlin về việc bắt cóc Louis XVIII từ Blankenberg và đưa về Pháp (Mansel, Louis XVIII tr.81).

(*) Các du khách vào năm 1814 được chỉ cho vị trí trên tấm thảm ở Fontainebleau mà bà đã quỳ gối khóc lóc ôm chân Napoleon cầu xin cho tính mạng của Công tước đã bị lừa; vào thời điểm đó cả hai đều đang ở Malmaison (ed. North, Napoleon on Elba tr.30).

(*) Giả thiết nói rằng Napoleon cho giết Wright để báo thù cho thất bại ở Trafalgar đã bị phủ định bởi thực tế Wright chết ngày 27 tháng Mười còn Napoleon lần đầu tiên biết về trận đánh vào ngày 18 tháng Mười một.

(*) Các thống chế danh dự là François Christophe de Kellermann, Dominique-Catherine de Pérignon, Jean Sérurier, và François-Joseph Lefebvre.

(*) Một trong những cây gậy này ngày nay có thể thấy tại Phòng trưng bày Bernadotte trong cung điện Hoàng gia ở Stockholm.

(*) Ở các cấp bậc thấp hơn, Napoleon có xu hướng tự mình bổ nhiệm khoảng một phần ba số sĩ quan và để các chỉ huy cấp dưới của mình lựa chọn số còn lại. Ông thường xử sự như một sĩ quan quân đội xuất thân trung lưu theo khuynh hướng bảo thủ, về căn bản cũng là con người của ông, trong vấn đề thăng cấp. Những người trẻ tuổi xuất thân từ gia đình tử tế đã tốt nghiệp các học viện quân sự thường có xu hướng thăng tiến tốt hơn những người được đào tạo “tại đơn vị”, những người thấy mình khó lòng lên được tới thiếu tá hay đại tá trừ khi đặc biệt tài năng. Xu hướng này không có gì đáng chú ý vào thời kỳ mà mức thương vong cao đồng nghĩa với việc các vị trí chỉ huy thường xuyên thiếu người, song sự thiên vị xã hội của Napoleon là rõ rệt khi nhìn lại. Dẫu vậy đi nữa, quân đội của Napoleon cởi mở cho tài năng hơn nhiều so với quân đội Bourbon trước đó, hay bất cứ quân đội châu Âu nào cùng thời.

(*) Lễ đăng quang tiêu tốn 194.436 franc, gấp gần 4 lần ngân sách ban đầu.

(*) Hoàng đế muôn năm. (ND)

17

(*) Có thể thấy sáu trong số những con đại bàng này ngày nay ở Royal Hospital, Chelsea tại London; một số khác ở bảo tàng Quân đội trong điện Invalides.

(*) Tên gọi vương quốc hợp nhất của Naples và Sicily từ năm 1443.

(*) Cách gọi “quốc gia của những chủ cửa hàng” lần đầu tiên được  Adam Smith dùng để mô tả Anh trong tác phẩm The Wealth of Nation , xuất bản năm 1776 và được dịch sang tiếng Pháp năm 1802.

(*) “Vậy đấy, Vương hầu thân mến, thế là Genoa và Lucca giờ đây chỉ còn là những lãnh địa riêng của gia đình Bonaparte”, là dòng mở đầu tác phẩm Chiến tranh và hòa bình , cho dù người nói, Anna Pavlovna Scherer, đã nhầm lẫn về Genoa, vốn là một tỉnh của Đế chế.

(*) Lời khẳng định từ con gái của Pellapra, Émilie, Công nương Chimay, rằng mình là kết quả của mối quan hệ đó, có thể được loại bỏ, vì cô được sinh vào tháng Mười một năm đó (Pellapra, Daughter of Napoleon passim ). Pellapra chỉ là chút ong bướm thoáng qua của ông trong khi ông đang có nhân tình khác là Adèle Duchâtel, vợ Ủy viên Hội đồng Charles-Jacques Duchâtel. Adèle nhận được 6.000 franc từ Hoàng đế ngày 22 tháng Mười hai năm 1804 và 19.000 franc nữa ngày 10 tháng Một năm 1805 (Branda, Le prix de la gloire , tr.57). Song bà ta không hề bị ấn tượng trước khả năng tình dục của ông và đã nói vậy. “Hoàng hậu nói ngài thật vô dụng”, bà ta nói, bật cười về (hoặc có thể là với) ông. “Rằng chuyện đó chả khác gì tiểu tiện”. (Tullard, Dictionnaaire amoureux tr.218). Thật đáng ngạc nhiên cho một người đàn ông kiêu hãnh trong các lĩnh vực khác của cuộc đời, khi Napoleon không có vẻ gì là bận tâm. Bà ta không phải là khoản chi phí duy nhất của ông vào thời điểm đó; cô Grassini cũng nhận được 15.000 franc vào tháng Bảy năm 1805. Rất có thể ông cũng đã đưa một thần dân mới của mình lên giường vào thời gian này, vì vào đầu tháng Sáu, tài khoản chi phí của ông  ghi lại 24.000 franc được đưa cho “một phụ nữ Genoa xinh đẹp” (Branda, Le prix de la gloire , tr.57).

(*) Anh mất 1.666 người trong trận đánh, so với 13.781 người của Pháp và Tây Ban Nha.

(*) Villeneuve bị bắt tại Trafalgar, nhưng được cho phép quay về  Pháp, và tự sát ở Rennes vào tháng Tư năm 1806.

(*) Quý tộc Nga. (ND)

(*) Một điệu nhảy cộng đồng nối thành chuỗi của cư dân Nice, không khác nhiều một điệu jig hay gavotte.

(*) Các trận đánh của Napoleon, nhất là những trận nổi tiếng, đều được bàn bạc rộng rãi và phân tích chi tiết trên khắp châu Âu, và trong suốt thế kỷ 19 trở thành một phần ký ức chung và di sản văn hóa của châu lục. Vào năm 1807, em trai Sa hoàng, Đại Công tước Constantine, nói với một người trong ban tham mưu của Davout rằng Bán lữ đoàn 48 của Friant đã tạo nên chiến thắng ở Austerlitz.

18

(*) Năm 1799, Đô đốc Nelson đã chấp nhận lãnh địa Công tước xứ Brontë ở Silicy cùng 3.000 bảng mỗi năm từ Ferdinand IV của Naples.

(*) Joseph Balsamo, hay Bá tước Alessandro di Cagliostro (1743-1795) từng là một nhân vật thần bí và lừa đảo nổi tiếng trong suốt cuộc đời ông ta, vì thế thật lạ khi Napoleon phủ nhận nhà duy lý vĩ đại và là một trong những người sáng lập triết học cổ điển Đức, Immanuel Kant, cùng với một kẻ lừa đảo trứ danh như vậy.

(*) Ngay cả ở Anh vốn bao dung tôn giáo, nhưng Lionel de Rothschild đã phải được bầu vào Hạ viện ba lần rồi mới có thể giành được chiếc ghế đại diện cho khu vực bầu cử London với tư cách dân biểu Do Thái đầu tiên vào năm 1858.

(*) Như thường lệ, Napoleon rất tích cực trong quản lý vi mô Đế chế của ông đồng thời với việc theo dõi tình hình quốc tế. “Hôm qua, có vẻ như một người đánh xe đã gây ra tai nạn làm chết một đứa trẻ”, ông viết cho Fouché ngày 16 tháng Bảy. “Hãy bắt giữ anh ta, dù anh ta có thuộc về ai, và trừng phạt nghiêm khắc”. (CG6 no.12506 tr.616).

(*) Khi nhà thơ Thomas Campbell người Scotland đề nghị nâng cốc uống mừng Napoleon trong một bữa tối của giới văn sĩ, ông ta được đón nhận bằng những tiếng huýt sáo. “Nhưng, thưa các quý ông”, ông ta kêu lên để biện hộ, “ông ấy đã từng xử bắn một chủ xuất bản đấy!”

(*) Một trong số này là lệnh giải người đánh xe của Vua Sardinia, người mà ông nghi là gián điệp, tới nhà tù Fenestrelle. Hôm sau, ông viết cho Denon về thời gian mở cửa ngắn ngủi của Louvre, phàn nàn rằng “Công chúng buộc phải đợi. Không gì có thể trái ngược với ý định của ta hơn”. (CG6 no.13047 tr.900). Ông viết tổng cộng 2.679 lá thư trong năm 1806.

(*) Một Napoleonstein (tảng đá Napoleon) trên Landgrafenberg nhìn xuống Jena cho biết khoảng cách giữa các vị trí khác nhau đóng một vai trò quan trọng trong đời Napoleon. Trên đó ghi rằng Jena cách Paris 700 km, Cairo 2.838 km, Marengo 707 km, Madrid 1.657 km, Austerlitz 429 km, Borodino 1.683 km, Waterloo 503 km và St Helena tới 7.626 km. Đây là một lời nhắc nhở mạnh mẽ về nghị lực của một con người đã vượt qua những khoảng cách như thế vào thời kỳ của xe ngựa và tàu buồm trong 17 năm, kể từ chuyến đi đầu tiên trong những cuộc hành trình này cho tới chuyến đi cuối cùng.

19

(*) Với một nửa trong dân số 50 triệu người của Nga là nông nô, Sa hoàng áp đặt một mức thuế vế nam giới là 5%, vì thế quân đội của ông ta không bao giờ gặp rắc rối về nguồn nhân lực (Summerville, Napoleon’s Polish Gamble tr.19). Người lính thường Nga – thường là nông dân (moujik) – bị buộc quân dịch trong 25 năm, không nghỉ phép. Thường là mù chữ, được nuôi ăn ở, chăm sóc tồi và gần như không được trả lương, dẫu vậy họ vẫn là những người lính xuất sắc (Lieven, Russia against Napoleon passim ).

(*) Một lĩnh vực nhỏ mà Hệ thống Lục địa thực sự thành công là không cho Hải quân Hoàng gia Anh tiếp cận nguồn gỗ ở phía bắc Đức mà họ ưa dùng nhất, và buộc họ phải dùng tới nguồn gỗ kém hơn từ châu Phi và gỗ tếch từ bờ biển Malabar ở Tây nam Ấn Độ, thứ gỗ không được Bộ Hải quân ưa chuộng vì có quá nhiều sợi, do đó dễ vỡ vụn ra và gây thương vong lớn hơn trong chiến đấu (Albion, Forests and Sea Power passim , TLS 9/6/27, tr.399).

(*) Bá tước Alexander Ivanovich Ostermann-Tolstoy là một người anh họ của tác giả Chiến tranh và hòa bình .

(*) Trong ba tháng đầu năm 1807, Napoleon đã viết 1.715 lá thư, và cả năm là trên 3.000 lá, thậm chí còn nhiều hơn năm 1806. Một nửa gửi cho các nhân vật quân sự, chủ yếu là Clarke trong vai trò Toàn quyền Phổ và Bộ trưởng Hải quân Decrès, phần còn lại là về các vấn đề ngoại giao (hơn 200 thư cho Talleyrand), hành chính, gia đình hoặc cá nhân. Chủ đề giày và ủng tạo ra 63 lá thư, và đôi khi gây lẫn lộn. “Ta nhận được giày khi ta yêu cầu bánh mì”, Napoleon phàn nàn với Duroc vào tháng Hai. “Ta cần đến 19 thùng giày để làm gì, đi bộ bám theo quân đội à? Chuyện này thật điên rồ”. (CG,7 no.14341 tr.207).

(*) Napoleon có 21 hoặc có thể là 22 nhân tình mà chúng ta biết trong hai thập kỷ. Tổng cộng, ông dành cho họ khoản tiền khổng lồ 480.000 franc từ tháng Mười hai năm 1804 tới tháng Tám năm 1813, những khoản tiền lớn trong cuốn sổ kế toán về các nhân tình bí mật của ông chỉ được ghi lại là “đưa cho Hoàng thượng.”

(*) Tuy nhiên, không phải tất cả đều gấp gáp. Vào một tối trong chiến dịch, Napoleon có thời gian để chơi bài với Berthier, Duroc và những người khác, cho người vệ sĩ Mamluk của ông là Roustam 500 franc từ tiền ông được bạc (ed. Cottin, Souvenirs de Roustam tr.140-141).

(*) Vì quân Nga không chiếm được con đại bàng, có suy đoán rằng có thể nó ở dưới đáy hồ. Từ đó về sau, Napoleon hạn chế chỉ giao những con đại bàng cho các tiểu đoàn hàng đầu, và khinh kỵ không được phép mang chúng ra trận (CG 6 no.13006 tr.879).

20

(*) Của Tiểu đoàn khinh binh 10 và các Tiểu đoàn bộ binh 18, 24, 44, và 51.

(*) Cả Maria Carolina của Naples, Maria Feodorovna của Nga, Louise của Phổ, và Quý bà de Staël đều rất căm ghét Napoleon, họ cảm nhận được thái độ ác cảm sâu sắc của ông về phụ nữ và quyền lực. “Người ta thấy khó mà không phẫn nộ cho được khi chứng kiến những gì ả điếm này có thể làm!” ông viết về Quý bà de Staël vào tháng Tư năm đó, “một cái ủng xấu xí!” (CG7 no.15337 tr.650).

21

(*) Nhà thơ người Anh đầu tiên được phong quý tộc là Alfred Tennyson năm 1884; nghệ sĩ đầu tiên là Frederic Leighton, vào ngày trước hôm ông này qua đời năm 1896.

(*) Về niềm tin chân thành của ông vào chế độ nhân tài (trừ phi liên quan tới chính gia đình mình), Napoleon không phải không có sự hợm hĩnh khi nói với Molé năm 1813: “Có những gia đình không thể nào phong quý tộc được. Có bao nhiêu đại tá là anh em trai của các cô hầu gái nhỉ?” Molé đáp lại rằng một thành viên trong Hội đồng của Napoleon có em trai từng là người quét đường ở Paris”. (ed. Noailles, Count Molé tr.197). Napoleon đúng là đã phong Lefebvre làm Công tước xứ Danzig bất chấp thực tế vợ ông ta từng là thợ giặt của một trung đoàn. Khi được xướng danh là nữ Công tước xứ Danzig trong một buổi tiếp tân, bà này nháy mắt với người hầu và nói: “Này chàng trai, cậu nghĩ sao về chuyện đó?” (Haythornwaite, Final Verdict tr.231).

(*) Sau khi Josephine đưa bà quý tộc Lucie de La Tour du Pin đi tham quan quanh Malmaison, nói rằng tất cả tranh và tượng đều là quà tặng từ các triều đình nước ngoài, du Pin đã nhận xét: “Người phụ nữ đáng mến này là một kẻ nói dối thăm căn cố đế. Ngay cả khi sự thật trần trụi có lẽ còn gây ấn tượng hơn cả một sự hư cấu, bà ta vẫn ưa hư cấu hơn” (Moorehead, Dancing to the Precipice tr.286).

(*) Một thị thần nhớ lại về việc hít thuốc lá của Napoleon rằng “Hoàng đế làm mất nhiều hơn số ông hít. Đó là một thứ sở thích, một kiểu tiêu khiển, hơn là một nhu cầu thực sự. Những chiếc hộp đựng thuốc hít của ông rất đơn giản, có hình ô-van, làm bằng xà cừ đen, được viền vàng, tất cả đều giống nhau, và chỉ khác ở những hình huy chương kiểu cổ bằng bạc rất đẹp được gắn trên nắp”. (Bausset, Private Memoirs tr.428) Bất chấp thói quen hít thuốc lá của mình, Napoleon tin rằng thuốc lá “chẳng ích lợi gì ngoài mua vui cho những kẻ ăn không ngồi rồi”. (Constant, Memoirs II tr.11).

(*) Các cung điện này bao gồm Tuileries, Fontainebleau, Saint-Cloud, Compiègne, Grand Trianon và Petit Trianon ở Versailles, Rambouillet (để đi săn), Meudon, lâu đài Marracq ở ngoại ô Bayonne, Deutschhaus gần Mainz, cung điện Laeken gần Brussels, Palais–Royal ở Milan cung điện Pitti ở Florence, Palazzo Durazzo ở Genoa, Castello Stupinigi ở Turin và Monte-Cavallo ở Rome.

(*) Bất chấp chi phí thái quá của mình, Napoleon luôn tìm kiếm sự tiết kiệm, như chúng ta đã thấy trong việc ông cắt bớt hóa đơn thanh toán của những người thợ bọc ghế. “155 cốc cà phê được uống mỗi ngày ở đây”, ông có lần nói với một bộ trưởng tại Tuileries, “mỗi cốc làm ta tốn 20 centime, nghĩa là 56.575 franc mỗi năm. Ta thôi uống cà phê và được hoàn lại 7 franc và 6 centime. Ta sẽ trả 21.575 franc và sẽ tiết kiệm 35.000 franc”. (Chaptal, Souvernirs tr.335).

(*) Được ký kết lần đầu năm 1376, mối liên minh Anh-Bồ Đào Nha là lâu đời nhất trên thế giới và được tái khẳng định vào các năm 1386, 1643, 1654, 1660, 1661, 1703, và 1815, bởi một tuyên bố bí mật năm 1899, rồi lại vào năm 1904 và 1914, và được Anh viện ra trong Chiến tranh Falklands năm 1982.

(*) Hai năm sau, Lucien bị Hải quân Hoàng gia Anh bắt khi đang tìm cách trốn sang Mỹ, và trải qua vài năm trong cảnh sống lưu vong đầy tiện nghi ở Worcestershire, viết bài thơ chân thật về “Charlemagne” – tức anh trai mình.

(*) Gibraltar đã được nhượng cho Anh theo hiệp ước Utrecht năm 1713.

(*) Ngày Hai tháng Năm. (ND)

(*) Nghị viện Tây Ban Nha. (ND)

(*) Tại Câu lạc bộ Brooks’s trên phố St James ở London, vào ngày 5 tháng Bảy dân biểu Humphrey Howarth cược với Bá tước Cholmondeley đời thứ IV 100 guinea ăn 25 “rằng Joseph Buonaparte vào thời kỳ này không thực thi bất cứ chủ quyền nào ở Madrid hay vùng lân cận” (Sổ cá cược của Câu lạc bộ Brooks’s). Người Pháp trên thực tế nắm quyền kiểm soát ở đó, cho dù Joseph tới tận 20 tháng Bảy mới đến nơi.

(*) Talleyrand hưởng lợi lớn từ cuộc dàn xếp này, vì Ferdinand đã cho trải những tấm thảm trị giá tới 200.000 franc, mua một hệ thống bơm thủy lực để cấp nước cho lâu đài và thậm chí trả tiền cho rau củ được ông ta lấy từ khu vườn phục vụ nhà bếp (Kolli, Memoirs tr.3).

(*) Ngay cả điều này cũng không kết thúc các kế hoạch hải quân của Napoleon, rất nhiều thư ông viết cho Decrès vào năm 1808 nói tới nhiều khía cạnh của đóng tàu, các loại cây cần thiết, cách đốn hạ và vận chuyển chúng, việc lưu trữ gỗ, và nhiều vấn đề khác. Vào tháng Bảy năm 1810, ông viết cho Decrès về kế hoạch để có hải quân với 110 tàu vào cuối năm 1812 (ed. Bingham, Selection III tr.50).

(*) Xem qua các chi tiết của trận Vimeiro cùng Thiébault năm tháng sau đó, Thiébault đã bị ấn tượng trước cách Napoleon “chỉ ngón tay vào phần lớn những điểm yếu trong cách bố trí của chúng ta, và tôi kinh ngạc thấy rằng ông thực sự nhớ nội dung bản báo cáo của tôi còn tốt hơn chính tôi”. (ed. Butler, Baron Thiébault II tr.238)

(*) Bộ còn lại được làm cho Josephine, song vào năm 1818 Louis XVIII đã tặng nó cho Wellington, và ngày nay có thể thấy nó tại Apsley House ở London.

(*) Bản in của cuốn tiểu thuyết viết dưới dạng thư từ và mang hơi hướng tự truyện Nỗi đau của chàng Werther của Goethe và Napoleon đã được đọc nhiều lần, có dấu ấn gia huy hoàng đế mạ vàng ở bìa trước và sau, ngày nay có thể thấy tại Thư viện Pierpont Morgan ở New York. Cuốn sách được đọc thường xuyên tới mức các trang của nó gần như rời khỏi gáy. Ấn bản này được xuất bản tại Paris năm 1804, điều đó cho thấy Napoleon đọc cuốn sách thường xuyên ngay cả sau khi đã trở thành Hoàng đế.

(*) Ông, ngài (tiếng Đức) (ND).

22

(*) Khối tiểu đoàn. (ND)

(*) Một loại khinh binh chuyên làm nhiệm vụ trinh sát, cảnh giới bên sườn, phía trước và sau các cánh quân chủ lực để quấy rối quân địch, ban đầu thường tuyển mộ từ những thợ săn. (ND)

(*) Napoleon là một người siêng năng viết thư kể cả năm 1809 đã viết 3.250 lá thư, bao gồm một lá thư gửi Fouché chỉ ra khoản chênh lệch 1 franc 45 centime trong các tài khoản thuộc bộ của ông này.

(*) Ngày hôm đó Napoleon ra lệnh cấm Elisa em gái mình – người mà ông đã phong là nữ Đại Công tước xứ Tuscany vào tháng trước – đánh bạc tại Florence, cũng như ở phần còn lại của Đế chế của ông, vì “đánh bạc hủy hoại các gia đình và tạo ra một tấm gương xấu” (CG9, no.20738 tr.443). Nhưng ông cũng tạo ra một ngoại lệ với Paris, vì “việc này không thể ngăn cản được, và nó được cảnh sát để mắt tới.”

(*) Hệ thống truyền tín hiệu Chappe, đặt theo tên hai anh em đã phát minh ra nó, sử dụng những thanh ký hiệu chuyển động được với 196 tổ hợp khác nhau, đại diện cho những chữ cái riêng lẻ hoặc cả câu trọn vẹn, và có thể gửi thông điệp đi tương đối chính xác với tốc độ tới 400 km mỗi ngày. Napoleon đã mở rộng rất nhiều hệ thống này từ việc ứng dụng ban đầu của nó tại Pháp, đưa hệ thống này vào sâu trong lãnh thổ Đức và Italy (ed. Olsen and van Creveld, Evolution of Operational Art tr.17).

(*) Ngày nay có thể thấy khi vòng ra sau bãi đậu xe của nhà hàng McDonald’s.

(*) Không chỉ sĩ quan phụ tá của ông được khen thưởng. Sau cuộc công kích Landshut thành công, Napoleon hỏi viên đại tá chỉ huy Bán lữ đoàn khinh binh 13 xem ai là người dũng cảm nhất đơn vị. Viên đại tá do dự, có lẽ nghĩ việc chọn một người cụ thể sẽ gây ganh tị, vì thế Napoleon hỏi các sĩ quan, những người này cũng im lặng. Cuối cùng, một đại úy già trả lời đó là trưởng đội trống. “Anh đã được chỉ định là người dũng cảm nhất trong một đơn vị dũng cảm”, Napoleon nói với trưởng đội trống trong tiếng hoan hô của binh sĩ, và ông phong anh ta là Hiệp sĩ Binh đoàn Danh dự ngay tại chỗ (ed. Haythornthwaite, Final Verdict tr.220).

(*) Từ này phát âm gần giống với từ bayonet (lưỡi lê). (BT)

(*) Cho dù Las Cases không đích thân có mặt, nhưng ông ta có rất nhiều cơ hội để trao đổi về chuyện này với Napoleon ở St Helena.

(*) Tháng đó, 12.000 franc đã rời khỏi tài khoản đặc biệt của ông để cho các nhân tình, cho “những cuộc phiêu lưu tại Vienna”, và thêm 17.367 franc nữa vào tháng Chín cùng năm, khi ông trở lại cung điện cùng Marie sau Wagram (Branda, Le prix de la gloire tr.57).

(*) Tòa tháp ở đó ngày nay được xây sau trận đánh.

23

(*) Vào tháng Năm năm 1812, khi nhận ra tàu tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh có thể tới gần Sanova đủ để giải cứu, Giáo hoàng liền được đưa tới cung điện Fontainebleau, nơi ông ta sống trong xa hoa cho tới khi được thả năm 1814. Người ta vẫn có thể tham quan những căn phòng Giáo hoàng ở tại đó. “Giáo hoàng không được phép đi lại trong trang phục giáo hoàng”, Napoleon viết cho Borghese với nhãn quan sắc sảo điển hình về công luận của ông, “mà chỉ trong trang phục của linh mục để không thể nhận ra… ở bất cứ đâu trên đường”. (CN 12 no.8710 tr.417).

(*) Vào một buổi tối sau Wagram, Napoleon và Rapp, người sẵn sàng trêu ông theo cách không mấy ai được phép, đang chơi bài vingt-et-un (pontoon hay blackjack) bằng những đồng vàng 20 franc đúc từ năm 1803 và được gọi là đồng napoleon, lúc đó Hoàng đế thử chơi chữ. “Rapp, chẳng phải người Đức rất thích những napoleon bé nhỏ này sao?” ông hỏi. “Vâng, thưa bệ hạ”, Rapp đáp. “Họ thích chúng hơn nhiều so với Napoleon to”. “Cái đó”, Hoàng đế bật cười, “ta đoán là thứ các vị vẫn gọi là sự thẳng thắn kiểu Đức” (Rapp, Memoirs tr.26).

(*) Napoleon không chỉ sợ người điên, mà còn là nguồn cảm hứng cho họ: vào thời điểm ông được an táng tại Paris tháng Mười hai năm 1840, có tới 14 bệnh nhân tại Bicêtre tin rằng họ là ông.

(*) Charles mới chỉ ở ngôi từ tháng Ba năm 1809, khi giới quý tộc Thụy Điển truất ngôi cháu ông, Gustav IV, một vị quân vương nữa của châu Âu bị hành hạ bởi chứng đần độn.

24

(*) Bán đảo Iberia. (BT)

(*) Nguyên văn: 2 triệu bushel (giạ); 1 bushel tương đương khoảng 36 lít. (ND)

(*) Như thường lệ, Napoleon cũng bận rộn với những việc khác. “Ta vừa thấy bộ đồ ăn bằng sứ được gửi tới làm quà tặng năm mới cho Hoàng hậu”, ông viết cho Champagny vào ngày 31 tháng Mười hai. “Nó rất xấu. Hãy để ý rằng năm tới nó phải đẹp hơn” (ed. Bingham, Selection III , tr.132).

(*) Bên cạnh hàng trăm mệnh lệnh liên quan đến mọi khía cạnh của việc di chuyển đạo quân mình xuống phía đông, trong đó có việc liệu họ có đủ nồi nấu nướng và bình đựng rượu mạnh hay chưa, Napoleon cũng gửi Công tước de Montesquiou-Fezensac một “danh sách những người trẻ và quý cô được mời tới buổi khiêu vũ” ở Paris, chỉ rõ rằng “Mọi quý cô có dì hay mẹ được mời cũng có thể đi cùng. Thật khó coi nếu mời các quý cô mà không hỏi ý kiến mẹ họ” (CN 23 no.18482 tr.208).

25

(*) Lithuania từng là một phần của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Lithuania từ năm 1569, trước khi người Nga sáp nhập lãnh thổ này trong ba cuộc phân chia từ năm 1772 tới 1795.

(*) Sau khi viết một lá thư cởi mở khác thường như thế, Napoleon rất có thể đã đùa khi ông hỏi Balashov đâu là tuyến đường tốt nhất tới Moscow. “Tâu bệ hạ”, câu đáp trả tuyệt vời được đưa ra, “người ta có thể chọn bất cứ con đường nào họ muốn. Charles XII đã đi theo đường Poltava”. (Foord, Napoleon’s Russian Campaign tr.75, Mowat, Diplomacy of Napoleon tr.256).

(*) Như thường lệ, Napoleon cũng nghĩ cả tới những gì đang diễn ra tại Pháp. “Ta phải nhắc nhở ông rằng ta có ý định mua tất cả các phần của quần đảo Hyères”, ông viết cho Clarke ngày 21 tháng Bảy, nhắc tới một nhóm đảo nhỏ ở phía nam Pháp, “và làm gì đó để cho con người tới sống tại đó” (CG 12 no.31281 tr.899). Ông cũng lo ngại rằng một kho lương thực lớn ở Paris sẽ không được xây trong thời hạn mà ông cho phép. “Khải Hoàn môn, cầu d’Iéna, đền Vinh quang, các lò mổ có thể được hoãn lại hai hay ba năm mà không sao cả”, ông viết cho Bộ trưởng Mậu dịch và Thương mại của mình, “ngược lại, điều tối quan trọng là nhà kho quy mô lớn này phải được hoàn tất”. (CG12 no.31255 tr.885).

(*) Cũng trong tuần đó thư ký của Napoleon, Méneval, viết cho thủ thư Barbier của ông. “Hoàng đế muốn có vài cuốn sách vui vui. Nếu có vài cuốn tiểu thuyết mới hay ho, hoặc tiểu thuyết cũ mà ông ấy không biết, hay những hồi ký đọc thú vị, làm ơn gửi tới cho chúng tôi, vì ở đây chúng tôi có những thời khắc rảnh rỗi thật khó lấp đầy” (CN 24 no.19052 tr.128). Một cuốn sách mà Napoleon khẳng định đã chăm chú đọc là Lý thuyết phân tích xác suất của Laplace. “Ta đón nhận cuốn sách về tính toán xác suất của ông một cách thích thú”, ông viết cho Chủ tịch Thượng viện. “Sẽ có lúc ta đọc nó một cách quan tâm, nhưng hôm nay ta phải bày tỏ với ông sự hài lòng ta cảm thấy mỗi khi chứng kiến ông cho ra đời những cuốn sách mới cho phép phát triển và mở rộng điều này trước hết trong các ngành khoa học. Chúng đóng góp vào sự khai sáng đất nước. Sự tiến bộ và hoàn thiện toán học có liên hệ mật thiết với sự thịnh vượng của nhà nước”. (CG12 no.31388 tr.949).

(*) Đó là Vespasian.

(*) Khả năng phán đoán của Junot có thể đã bị ảnh hưởng bởi bệnh giang mai sau này sẽ khiến ông ta mất trí. Tại một vũ hội ở Ragusa vào năm sau, ông ta đã xuất hiện hoàn toàn khỏa thân, chỉ mang trên người đôi cầu vai, găng tay, giày nhảy, huân huy chương (D’Abrantès, At the court tr.21). Ông ta qua đời tháng Bảy năm 1813 do hoại tử hình thành trong các vết thương tạo ra sau khi nhảy từ một cửa sổ tầng 2 xuống với cảm giác rằng mình có thể bay. (Điều ngạc nhiên là ông ta có thể chui lọt qua cửa sổ, vì ông ta thường ăn tới 300 con hàu mỗi ngày.) (Strathern, Napoleon in Egypt tr.422).

(*) Tổng cộng, hôm đó quân Pháp đã bắn 60.000 quả đạn pháo và 1,4 triệu viên đạn súng hỏa mai. Ngay cả nếu người Nga bắn với cường độ thấp hơn, và không có dấu hiệu nào cho thấy là như vậy, thì trung bình đã có trên ba quả đạn pháo và 77 viên đạn hỏa mai được bắn đi mỗi giây trong suốt trận đánh (Cate,