← Quay lại trang sách

CHƯƠNG I

Khoan lững thững bước vào lớp học. Cũng như mọi ngày ông đồ chưa tới, và lũ học trò lớn nhỏ còn đang cùng nhau tụm năm tụm ba trò chuyện. Cũng có một vài cậu đang ôn lại bài hoặc viết nốt mấy trang phóng bữa trước các cậu lười chưa viết hết.

Ông đồ Ngư đông học trò lắm. Tuy ông không đỗ đạt gì nhưng ông có tiếng hay chữ, và học trò ông đã có nhiều người làm nên, cử-nhân có, phó-bảng có, và những người này đều đã được lĩnh những chức vụ quan trọng. Người đi tri-huyện, kẻ đi tri-phủ, người lĩnh huấn-đạo và cũng có người được vời vào kinh nhận việc tại các Bộ.

Làng Kim-Đôi, huyện Võ-Giàng, tỉnh Bắc-Ninh có tiếng là làng văn học. Làng này nhất là xã tam thôn, và có tên nôm là làng Rủi. Ba thôn là thôn Kim-Đôi tục gọi là Rủi Quan, Quỳnh-Đôi tục gọi là Rủi Quỳnh và Ngọc-Đôi tục gọi là Rủi Nguộc.

Thôn Kim-Đôi được gọi là Rủi Quan vì chính thôn này đã sản xuất được nhiều chân khoa-bảng tiếng tăm, từng đi làm quan nhiều địa-phương trong nước.

Thôn Kim-Đôi nằm ngay sát bên sông Nguyệt-Đức, trên con đường đi từ huyện Võ-Giàng đến làng Ngư-Đại, và đình của hàng thôn trông ngay ra sông, dưới bóng râm mát của mấy cây đa cổ thụ. Dân thôn ở mé bên kia đường, cách xa hai thôn Quỳnh-Đôi và Ngọc-Đôi mỗi thôn một cánh đồng.

Ông đồ Ngư người làng Kim-Đôi, mở lớp dạy học ngay tại thôn nhà. Kể từ khi mở trường tới nay, đã mấy chục năm có lẻ, học trò ông lúc nào cũng đông, những trò này lớn lên thành đạt, lại có lớp trẻ nhỏ khác kế tiếp ngay.

Học trò của ông, người làng Kim-Đôi có, kể cả ba thôn Rủi Quan, Rủi Nguộc, Rủi Quỳnh, nhưng người thiên hạ cũng nhiều.

Ông hay chữ có tiếng, người trong làng có trẻ nhỏ, chúng chưa làm gì, cho chúng tới cửa ông ăn mày dăm ba chữ của Thánh hiền, may ra sau này chúng có đỗ đạt càng hay, bằng không chúng cũng đọc thông văn tự đỡ tiếng dốt nát ngu si. Còn người thiên hạ, chuộng tiếng tăm ông, kén thày cho con học, lẽ tất nhiên họ phải cho con cái họ tới làng Kim-Đôi để học ông. Không phải tại các làng chung quanh không có ông đồ, nhưng chính chỉ vì học-trò của ông thành đạt nhiều.

Phần đông con trẻ mấy xã Ngư-Đại, Bất-Phí, Xuân-Hòa, Thị-Cầu, Đáp-Cầu, Phương-Cầu thuộc huyện Võ-Giàng bên này sông Nguyệt-Đức, và mấy xã Nam-Ngạn, Đạo-Ngạn, Nghi-Thiết thuộc huyện Việt-Yên, tỉnh Bắc-Giang bên kia sông kéo nhau tới học lớp ông đông lắm. Có nhiều người ở tận tỉnh xa cũng gửi con tới học.

Đạo Thánh có hẹp gì, sân Trình cửa Khổng lúc nào không sẳn sàng để đón môn sinh, ông đồ Ngư không từ chối một trẻ nào. Ai đã mến chuộng ông, tin cậy gửi con tới học, ông đều nhận hết. Càng đông học-trò càng nhiều người thành-đạt. Vả chăng ông cũng không vất-vả hơn bao nhiêu. Đã có trò lớn bảo trò bé, và trông coi toàn thể học-trò đã có trưởng tràng.

Mỗi ông đồ dạy học đều có trưởng tràng. Trưởng tràng là người học trò cao niên, học hành xuất-sắc nhất trong đám học trò đang theo học được ông đồ giao cho trách nhiệm trông nom trường học, theo dõi sự học hành của các học sinh khác. Trưởng tràng thay mặt thày trong những buổi thày đi vắng. Gặp những khi nhà thày giỗ chạp, ma chay, trưởng tràng cắt đặt các anh em lo giúp đỡ mọi công việc nhà thày và lo liệu lễ vật của toàn anh em với nhà thày. Trong những dịp này, mọi học trò mới cũ đều cùng nhau đóng tiền đồng-môn, nghĩa là tiền của các môn sinh cùng học một thầy đóng góp trong khi thày có công việc hiếu hỷ. Những tiền đồng-môn của các môn sinh đã thành đạt thì tùy theo họ góp cho bạn đồng-môn, do một vài người đại diện, hoặc họ gửi tới cho trưởng tràng.

Trưởng tràng phụ tá giúp thày nhiều công việc. Nhờ có trưởng tràng, thày học rất đỡ vất vả.

Khoan là trưởng tràng lớp học của ông đồ Ngư. Thay ông đồ, Khoan cắt đặt cho các học trò lớn dạy học trò nhỏ viết, chấm phóng, chấm tô cho các trò này. Ông đồ Ngư chỉ phải dạy những học trò lớn, nghĩa là đã học khá cao, đang học hoặc đã học qua Tứ Thư Ngũ Kinh.

Những học trò nhỏ mới vỡ lòng với sách Tam-tự-kinh hoặc Minh-Đạo Gia-Huân đều do Khoan cắt đặt anh em trông nom.

Lớp học ông đồ Ngư, ngoài các học sinh con trai cũng có số ít học trò con gái. Mấy cô phần nhiều là con gái làng Kim-Đôi con em gia đình sung túc.

Thời xưa con gái ít được đi học, chỉ những nhà giàu có mới cho con gái đi học. Và con gái đi học chỉ để biết chữ chứ dù giỏi giang tới mấy cũng không được đi thi. Kỳ thi chỉ dành riêng cho nam phái.

Thường thường các nữ sinh chỉ đi học đến một trình độ nào, ít ai đã theo đuổi sự học đến một bậc khá cao.

Các nữ sinh theo học ông Đồ ngư cũng vậy. Các cô đi học để đọc thông văn tự, hoặc có học xa hơn nữa cũng chỉ để hiểu nỗi mấy câu văn sách.

Khi trình độ học của các cô đã hơi kha khá, các cô lại nghỉ học. Có cô phải ở nhà giúp đỡ cha mẹ, có cô nghỉ để lấy chồng.

Số nữ sinh tại lớp học của các ông đồ không bao nhiêu, chỉ độ dăm ba cô là nhiều. Trong lúc đi học các cô cũng ganh đua chăm chỉ không chịu thua kém bạn trai. Các cô cũng tập làm văn bài, cũng cố gắng về câu đối hay thơ phú khi các cô học đã cao cao.

Hiện trong mấy cô đang theo học lớp ông đồ Ngư cũng có vài ba cô học khá giỏi và thường được ông đồ khen ngợi, khiến cho các nam sinh càng phải cố gắng.

Nam sinh hay nữ sinh, đối với Khoan là trưởng tràng họ đều quí trọng kính mến. Họ hiểu Khoan có nhiệm vụ thay ông đồ để trông nom lớp học, đối với Khoan họ có bổn phận cư-xử như đối với người anh cả.

Sáng hôm đó, cũng như mọi ngày. Khoan ở nhà ra đi từ lúc mặt trời vừa mọc, và khi tới lớp học thì mặt trời đã ngang ngang nửa con sào. Nhà Khoan ở thôn Quỳnh-Đôi, cách nhà ông đồ cũng khá xa. Phải đi một thôi đường dài, nhưng ngày ngày bao giờ Khoan cũng tới lớp rất sớm, vì đã là trưởng tràng không lẽ đến chậm để phụ lòng tin cậy của ông đồ và chúng bạn.

Lũ học trò đang đùa nghịch hoặc đứng tụm năm tụm ba trò chuyện, thấy Khoan tới đều đứng chào và sau đó, ai nấy đều lo ngay tới công việc học hành của mình.

Khoan giao cho bọn học trò nhỏ mỗi anh một nhiệm vụ. Anh này lo việc quét lớp học, anh kia lo việc mài son mài mực, anh khác lo việc thu sách để Khoan hoặc ông đồ chấm bài cho mọi trò học. Cũng có anh được Khoan cắt cho việc hàng ngày phải tới sớm đun nước pha trà để khi ông đồ thức dậy dùng.

Trò nào được Khoan giao cho việc gì lo rất chu đáo việc của mình ít khi Khoan phải nhắc lại. Khoan rất sung sướng được các bạn bè tín nhiệm và tuân theo lời mình.

Vả chăng Khoan cũng rất công bằng, trong việc cắt đặt các học trò vào mọi công việc, Khoan luân phiên cắt cử hết trò nầy sang trò khác. Tất cả lớp học trò bé đều lần lượt, được nhận lĩnh những công việc Khoan giao cho. Các cậu lấy làm hãnh diện với những công việc được giao phó.

Phải còn gì sung sướng cho một trò ngoan hơn là được mài son mài mực cho thầy, được hầu hạ thầy và được anh trưởng tràng sai bảo.

II

Lũ trò nhỏ mài son mài mực đã xong, và chúng đang cùng nhau ê-a học theo sự chỉ dẫn của mấy trò lớn hơn.

Đây một em đang đọc sách Tam Tự Kinh :

« Nhân bất học – Bất tri lý

Ngọc bất trác – Bất thành khí »

Vừa học chữ em vừa dịch nghĩa từng câu một với những tiếng đệm ư a ngây thơ:

« Nhân bất học là người chẳng học

Bất tri lý – chẳng biết lý

Ngọc bất trác – ngọc chẳng dũa

Bất thành khí – chẳng thành đồ »

Em nhai đi, nhai lại mấy câu, rồi khi em đã thuộc hẳn, em mới hỏi anh học-trò lớn có nhiệm-vụ chỉ bảo em học sang câu khác. Thỉnh-thoảng em lại quên một chữ, tuy em luôn mồm nhắc lại những chữ đó.

Đây một em khác lớn hơn đang chăm chú học một đoạn sách Minh Đạo Gia Huấn của Trình Tử:

« Thiên kim di tử – Bất như nhất kinh

Vạn khoảnh lương điền – Bất như bạc nghệ »

Em cũng vừa học chữ vừa học nghĩa:

« Nghìn vàng để cho con

Không bằng một kinh sách

Vạn miếng ruộng rót

Không bằng một nghề bạc »

Trong khi các anh lớn bảo các em trò nhỏ. Khoan ngồi chấm câu, ngắt bài cho các em học. Sách chữ nho khi in thuở trước không chấm câu sẵn. Học trò chép lại sách in cũng không chấm câu và cho rằng đã có chấm câu sẵn sàng trong sách in, các trò chép lại cũng không được tự tiện chấm câu lấy. Bài học phải do ông đồ hoặc trưởng tràng chấm câu cho.

Đối với các trò nhỏ chưa tự viết lấy được, bài học do ông đồ, trưởng tràng hoặc một trò lớn nào khác viết và chấm câu ngay để các trò, đó học. Những trò đã tự chép được bài học, cũng như những học trò lớn học theo sách in đều phải do trưởng tràng hoặc ông đồ chấm câu. Chấm câu bằng son. Chỗ nào nên phẩy, chỗ nào chấm đều là nét son hết. Phần nhiều bài học của học-trò học sách in, bao giờ cũng do chính tay ông đồ chấm câu và lúc giảng cũng lại chính ông đồ giảng lấy.

Khoan ngồi chấm câu sách của lũ trò nhỏ trên một chiếc ghế nhựa kê ở bên cạnh gian nhà học.

Lớp học của ông đồ Ngư cũng giống như hàng trăm ngàn lớp học chữ Hán thời trước. Đấy là một căn nhà ba gian khá rộng, không có kê bàn ghế như tại các trường học ngày nay. Ở gian giữa về phía trong giáp tường là một chiếc sập có giải chiếu cạp điều. Trên chiếu có chiếc gối sơn dùng để ông đồ tỳ tay lúc giảng học, và những buổi trưa sau những buổi học ông đồ dùng để gối đầu ngả lưng xem sách.

Trước chiếc sập gụ là một án-thư nhỏ, có hai tràng-kỷ hai bên. Trên án-thư có để mấy chồng sách ông đồ thường dùng để dạy học-trò. Bên mấy chồng sách là bộ đồ nước để ông đồ tiếp khách và chiếc điếu ống, xe điếu vắt vẻo cong cong.

Hai gian bên cạnh có hai hàng ghế ngựa, chỗ cho học-trò học và viết.

Và ở mé ngoài có hai hàng dại bằng tre để che nắng gió. Gian giữa, ngang với hai hàng dại thẳng trước sập của ông đồ có chiếc mành mành cuốn lên hạ xuống tùy theo chiều trời quang đãng hay mưa nắng.

Lũ học trò ngồi học hỗn-độn không có chỗ nào nhất định, chỗ này một nhóm, chỗ kia một nhóm. Khi tập viết các cậu nằm bò ra ghế ngựa và cũng nằm không hàng lối gì ; chỗ này mấy cậu mới học đang tô lại chữ son trên vở tập viết, chỗ kia vài cậu học đã hơi lâu đang tô trên tờ phóng, qua lần giấy bản của vở viết. Gần đấy, những cậu khác, học đã kha khá, đang chép lại bài học trong mấy cuốn sách in.

Học chữ nho xưa, tập viết cũng như các em ngày nay học Việt ngữ. Bắt đầu tập viết là viết tô.

Ông đồ hoặc trưởng tràng viết sẵn bằng bút son những trang chữ cho các em tô lại. Khi các em tô đã hơi thạo, các em tập viết phóng.

Phóng là một tờ giấy có viết những chữ mẫu. Các trò nhỏ lồng tờ phóng nầy vào một tờ giấy của sách viết. Nét chữ phóng hằn lên, các em tô theo nét chữ hằn của tờ phóng. Sách vở chữ nho xưa kia đóng bằng giấy bản và chỉ in, viết có một mặt. Tờ giấy gấp đôi đóng lại thành lề. Khi viết tập các em lồng tờ phóng vào trong tờ giấy tập vở của mình.

Sau thời kỳ viết phóng đến thời kỳ phải tự coi sách chép lấy bài. Khi đã có thể tự coi sách chép lấy bài là đã tới trình độ đọc được nhiều chữ. Học trò tới trình độ nầy ít nhất cũng đã học qua sách « Tam Tự Kinh » hoặc sách « Ấu-Học Tân Thư » rồi.

Buổi học rất nhộn-nhịp vui-vẻ. Tiếng ê-a của các em, xen lẫn tiếng giảng bài của các anh lớn ; em nầy hỏi, anh kia trả lời.

Có một vài em đứng tựa vào những chiếc cột, phân cách ba gian nhà, vừa học vừa như nghiền ngẫm nghĩa lý của sách vở.

Vài cô nữ sinh ngồi riêng ở một góc ghế ngựa, cô lớn bảo cô bé.

Lớp học ồn-ào những tiếng ê-a, những lời giảng nghĩa cùng những lời hỏi đáp lẫn nhau.

Cũng như mọi ngày, một lát sau khoảng cuối giờ Mão, ông đồ Ngư tới lớp học. Học trò đang học bỗng ngưng bặt, rồi những tiếng « lạy thầy » vang lên tứ phía.

Ông đồ ngồi vào chiếu cạp điều trên sập, trong tay vắt vẻo chiếc roi mây.

Học trò lần lượt từ bé đến lớn lại đọc bài.

Học chữ nho xưa, buổi sáng mỗi khi vào học, học trò phải đọc bài hôm trước, sau đó học bài trong ngày rồi tập viết. Lớp học của ông đồ Ngư cũng ở trong thông lệ nầy, nhưng thường ông đồ hay xuống lớp chậm đôi chút, nên các trò nhỏ được Khoan, trưởng tràng cùng các trò lớn khác giảng cho bài mới trong khi chờ đợi đọc bài cũ với ông đồ.

Các trò nhỏ tới trước mặt ông đồ sợ sệt đọc bài, vừa đọc các em vừa nhìn vào ngọn roi mây đáng sợ.

Tục ngữ có câu: « Thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn ».

Một ông đồ cần phải hay chữ, điều đó đã đành, nhưng muốn học trò học được tấn tới, lại cần phải dữ đòn. Ngọn roi mây là yếu tố thúc đẩy để các trò nhỏ chăm học.

Ngọn roi mây của ông đồ Ngư hằng ngày được luôn luôn làm việc. Mỗi trò nhỏ không thuộc bài là ông bắt nằm sấp xuống và cho hưởng một chập roi mây. Các trò biết lệ, không bao giờ dám cưởng. Nếu trò nào vì sợ quá không muốn nằm, lập tức các trò khác được lệnh vật trò nầy xuống để ông đồ đánh.

Theo những tiếng ngọn roi vun vút là những tiếng « Con lạy thầy! Ối! Con lạy thầy! »

Đánh một trò xong, thầy học bao giờ cũng nhắc lại: « Đã đi học thì phải chăm học, không chịu học phí công thầy dạy lại còn tốn tiền của cha mẹ, chẳng thà ở nhà đi chăn trâu còn hơn ».

Lần lượt hết trò nhỏ tới trò lớn đọc bài. Khi học trò đã đọc bài xong ông đồ mới bắt đầu chấm câu rồi giảng bài cho các trò lớn. Lúc giảng bài, các trò nầy đặt sách trước mặt ông đồ vừa đọc vừa giảng nghĩa. Ông đồ lim dim cặp mắt ngồi nghe, chỉ khi nào học-trò giảng sai ông mới sửa lại.

Buổi học kéo dài cho tới giờ Ngọ. Các học trò chăm chú học vui vẻ lắm.

Lúc gần tan học, học trò xếp sách viết lại để ông đồ chấm. Ông lại dùng bút son để chấm bài cũng như khi ông chấm câu bài học.

Những chữ viết đẹp được khuyên đỏ, còn những chữ viết xấu hoặc thiếu nét đều bị xổ toẹt. Sau khi khuyên xổ, ông đồ cho điểm từ nhất tới thập. Hơn nhau một điểm, một vòng khuyên, học trò đều sung-sướng. Tinh thần ganh đua tràn ngập giữa mọi anh em, ganh đua trong thân-thiện, ganh đua trong cố gắng.

Những học trò giỏi được ông đồ khen ngợi, những trò kém được khuyến khích.

Trò nào lười biếng bị đòn và còn bị khoanh mép bằng mực đen.

Khoan, sau khi nghe giảng bài của mình cũng học bài và đồng thời luôn luôn lưu ý trông nom các anh em giúp đỡ ông đồ.

Giữa lúc Khoan đang mải với bài học của mình, một bóng hồng lướt qua sân. Khoan ngửng đầu nhìn ra, nhưng lại cúi ngay xuống để tiếp tục học.

Cử chỉ mau lẹ đó của Khoan không lọt qua mắt Đáp, một học trò lớn cũng trạc tuổi Khoan.

Đáp tới bên Khoan, khe khẽ ngâm câu thơ trong Kinh thi:

« Quan quan thư cưu

Tại hà chi châu

Yểu điệu thục nữ

Quân tử hảo cầu » 1

Khoan đỏ mặt không nói gì, làm ra vẻ như không để ý tới lời ngâm của Đáp.

III

Bóng hồng lướt qua sân là Tiệp, con gái ông đồ Ngư, Tiệp tuổi vừa đôi tám trông người gọn ghẽ xinh đẹp. Tuy không chim sa cá lặn, nguyệt thẹn hoa nhường, nhưng cô Tiệp cũng vào hạng duyên dáng nhan sắc. Cô có khuôn mặt trái soan trắng trẻo với đôi má ửng hồng trông thật dịu-dàng dưới mái tóc óng mượt có đường ngôi rẽ giữa như e-ấp cùng vành khăn vấn đầu tròn trặn trang điểm thêm bởi mớ tóc đuôi gà lả-lướt.

Đôi mắt bồ câu đen lánh hạt huyền trong như nước hồ thu lồng giữa đôi hàng lông mi đều đặn và đôi cặp lông mày lá liễu ; sống mũi dọc dừa tăng phần cân đối cho khuôn mặt thùy mị, đoan-trang. Mỗi khi cô mủm mỉm nụ cười để lộ đôi hàm răng đều như hạt lựu và đen nhức như hạt na già trông càng dịu-dàng xinh đẹp.

Cô bước đi nhẹ-nhàng, có cử-chỉ khoan thai. Cô nói năng từ tốn, và trong lời ăn tiếng nói cũng như trong hành động hàng ngày cô luôn luôn giữ gìn ý tứ.

Cô cũng đã từng theo học lớp học của ông đồ Ngư đã học qua các sách vỡ lòng và học hết sách Mạnh Tử của Tứ Thư. Trong ngày đi học, cô chăm chỉ nên sự học-hành không kém chi các bạn trai. Cô cũng đã tập làm văn bài câu đối, đôi khi cô cũng tỏ ra rất xuất sắc, vượt hẳn các bạn gái khác và cả một số bạn trai nữa.

Cứ kể nếu cô theo được sự học đến cùng và cô cũng được đi thi như các bạn trai, có lẽ chẳng cử-nhân tiến-sĩ thì ít nhất cô cũng phải đậu khóa-sinh, tú tài, nhưng con gái đâu có cần học nhiều, nên từ mấy tháng nay, ông đồ Ngư cho cô nghỉ học để giúp đỡ bà đồ trong công việc nhà.

Nói rằng nghỉ học để giúp đỡ mẹ, nhưng thật ra từ trước ngay trong khi đi học cô cũng luôn luôn trông nom công việc nhà cũng như việc đồng rất nhiều. Cô làm việc vui vẻ và ngăn nắp ; việc nặng cũng như việc nhẹ, không bao giờ ngần ngại trước việc gì. Nặng như gánh nước, thổi cơm, xay lúa, giã gạo với người làm, nhẹ như quét sân, quét nhà, đun nước pha trà hoặc khâu vá. Đây là chưa nói đến những khi cô phụ giúp với thợ đồng trong ngày mùa hoặc đi chợ mua thức ăn đồ dùng, bán ngô khoai của ruộng vườn nhà.

Từ ngày nghỉ học, cô giúp đỡ mẹ nhiều hơn. Bà đồ giao cho trông coi hết mọi việc trong nhà ngoài đồng để thêm thì giờ đi chùa lễ Phật tụng kinh.

Với một nhan sắc mặn-mà lại thêm sự đãm đang ngoan ngoãn, cô rất được nhiều bà mẹ có con trai trong làng để ý và chính các chàng trai cũng nhiều chàng muốn dương cung bắn sẻ vì bóng hồng đã quá lọt vào mắt xanh.

Trong những người để ý tới Tiệp có cả Khoan trưởng tràng của lớp học ông đồ Ngư.

Tiệp đã cùng học với Khoan, Khoan biết rõ tính nết thùy mị ngoan ngoãn của Tiệp. Đã nhiều lần Khoan tìm cách tỏ cảm tình với Tiệp. Khoan giúp Tiệp một chữ trong bài văn, Khoan giải nghĩa cho Tiệp một đoạn trong kinh sách.

Đối với cảm tình của Khoan, Tiệp không hề tỏ ra hờ-hững. Những lời cảm ơn e-lệ, những cái nhìn vội vàng kín đáo nhưng đầy ý nghĩa đã khiến cho Khoan trong lòng sung-sướng.

Khoan hơn Tiệp hai tuổi. Đối với các bạn học, Khoan coi Tiệp như cô em nhỏ của mình và Tiệp cũng coi Khoan như một người anh quý mến.

Mối tình thầm lặng kết chặt hai người. Họ quyến luyến nhau và cầu mong cho nhau những điều tốt đẹp.

Xa nhau họ nhớ-nhung. Những hôm Khoan bận việc phải nghỉ học, Tiệp như thấy thiếu một cái gì và tự nhiên lòng nàng thấy bâng-khuâng vơ vẩn. Khoan cũng vậy, chàng luôn luôn mong được gặp Tiệp, được giúp đỡ nàng, và nhất là được nhìn đôi mắt trìu-mến của nàng.

Chưa ai nói với ai điều gì yêu đương, nhưng họ đã hiểu nhau qua đôi cặp mắt đầy luyến ái, qua những cử-chỉ để ý tới nhau.

Mối tình thầm lặng của hai người tưởng chỉ hai người hiều và các bạn học không ai để ý tới. Họ có ngờ đâu, sự trìu-mến lẫn nhau của họ đã bị Đáp biết. Đáp cùng một tuổi với Khoan và cũng là một hoc-trò giỏi của ông đồ. Qua mọi cử-chỉ và hành-động của Khoan và Tiệp, Đáp biết đôi bên luyến-ái nhau. Thấy đôi bên cũng đẹp đôi xứng đáng. Đáp rất mong cho đôi người thành chim liền cành, cây liền cành. Bản tâm Đáp rất tốt, Đáp chỉ mong cho bạn được sung-sướng với yêu đương. Chính Đáp cũng đang yêu, Đáp yêu thương một cô hàng sén trong làng. Đáp biết yêu thương có sướng và có khổ. Đáp cầu mong cho Khoan và Tiệp được trọn vẹn chữ tình cũng như chính cầu mong cho mình một ngày kia được sánh duyên cầm sắt với Hương. Chính vì mong mối tình của bạn được tốt đẹp nên đôi khi Đáp thường ngâm thơ để trêu cợt Khoan.

Cùng một tuổi với Đáp và Khoan tại lớp của ông đồ Ngư còn có Thúc. Thúc theo học ông đồ đã lâu và trình độ học cũng đã khá cao. Chàng đã học qua Tứ Thư, Ngũ Kinh và đã học sang các sách khác. Thúc là con ông đương kim Chánh-Tổng, nhà giàu có và thế lực trong hàng tổng, hàng huyện rất mạnh. Tuy theo học ông đồ Ngư đã lâu và đã học nhiều nhưng sự học không được xuất sắc bằng Khoan và Đáp và cũng không hy vọng gì về khoa-cử.

Ông đồ Ngư thường bảo Thúc: « Con cố học để sau này nối lấy nghiệp nhà, ra gánh vác công việc dân xã. Thi-cử khó lắm, phải có đất con ạ! »

Thúc cũng tự biết tài học của mình tuy có giỏi nhưng không xuất sắc, và Thúc cũng chỉ mong sau này có chút công-danh như cha là mãn-nguyện.

Học thì Thúc không bằng Khoan và Đáp, nhưng ăn mặc và chơi bời thì Thúc hơn hẳn các bạn. Nhà Thúc giàu, sẵn tiền bạc quần áo, lúc nào trông Thúc cũng chải chuốt bảnh-bao.

Thúc săn sóc tới áo quần rất kỷ lưỡng, áo the khăn xếp, quần lụa mỡ gà.

Thúc ăn mặc chải chuốt để tỏ ra nhà mình giàu có, nhưng cũng để được mấy nữ sinh trong lớp học ông đồ để ý, nhất là Tiệp.

Thúc để ý tới Tiệp đã lâu. Thúc thấy nàng xinh đẹp duyên dáng và Thúc chỉ đợi ngày xin cùng bố mẹ nhờ người làm mai tới nói với ông bà đồ. Thúc luôn luôn săn-sóc hỏi-han tới Tiệp.

Sự hỏi-han săn-sóc của Thúc không làm cho Tiệp hài lòng, trái lại chỉ khiến nàng khó chịu. Mỗi lần Thúc muốn gần Tiệp, nàng đều tìm cách lẩn tránh. Một lần Thúc hỏi nàng: « Sao cô Tiệp thấy tôi lại cứ tránh mặt? »

Tiệp đã đáp: « Anh không thấy trong sách nói « nam nữ thụ thụ bất thân » sao. Anh là con trai, tôi là con gái tôi phải giữ ý ».

Thúc không nói gì, nhưng Thúc rất ghen với Khoan, Khoan thường được Tiệp nhờ giảng bài và giải nghĩa văn-chương trong kinh sách.

Giữa lúc Khoan và Tiệp đang gần gũi nhau, giữa lúc Thúc đang lưu ý tới Tiệp thì ông đồ Ngư cho Tiệp nghỉ học để giúp đỡ bà đồ trong việc nhà.

Tiệp nghỉ học để lại cho Khoan một nỗi bâng-khuâng và cũng để lại cho Thúc một niềm luyến-tiếc.

Trước đây hằng ngày Khoan được gặp Tiệp, hàng ngày Thúc được nhìn thấy Tiệp, nhưng từ khi nàng nghỉ học, được thấy mặt nàng thật là một điều thưa-thớt.

Khoan luôn luôn nghĩ tới nàng, và trong buổi học, nếu bóng nàng đi qua, sống chết Khoan cũng đưa mắt nhìn qua sân để bắt gặp mắt Tiệp cũng đang ngó vào chàng.

Hôm đó, Tiệp ở nhà trên đi xuống bếp. Khi nàng đi ngang mé sân, nàng đã bắt gặp Khoan nhìn ra giữa lúc nàng đang đưa mắt nhìn vào lớp học. Trong lòng nàng tràn ngập một niềm sung-sướng. Bỗng nhiên nàng thấy nóng bừng đôi má, và bước vội-vã xuống nhà bếp.

« Chim Thư ríu rít bên sông

Duyên người thục-nữ sánh cùng trượng-phu »

Khoan lẩm nhẩm dịch bốn câu thơ trong Kinh Thi ra hai câu lục bát với nỗi hân-hoan trong lòng. Chàng mơ-màng nghĩ-ngợi, nghĩ tới bóng dáng yêu-kiều của Tiệp, nghĩ đến một ngày mai huy-hoàng chàng sẽ sống bên nàng.

Còn Tiệp đi vội xuống bếp. Nàng vừa bước chân vào cửa bếp bổng nghe tiếp hỏi: « Kìa chị Tiệp! »

Nàng giật mình nhìn thì là Luân, một học trò nhỏ của ông đồ, đang lui hui đun nước trong bếp. Nàng hỏi Luân: « Em đun nước? »

- Vâng, anh trưởng tràng hôm nay cắt đến lượt em.

- Em đã học bài chưa?

- Anh trưởng tràng đã giảng cho em rồi.

- Hôm nay em học đến đâu?

Luân ngẫm-nghĩ như để nhớ lại bài học một lát, rồi đáp: « Anh trưởng tràng vừa giảng cho em bốn câu này:

« Tích Mạnh mẫu

Trạch lân xử

Tử bất học

Đoạn cơ trữ

Tích mẹ thầy Mạnh tử

Trọn láng giềng

Thầy Mạnh không chịu học

Bà cắt đứt khung cửi »

Tiệp khen Luân: « Em nhớ giỏi nhỉ! Anh trưởng tràng mới giảng mà đã thuộc ».

Luân sung sướng trước lời khen của Tiệp, Luân nhìn Tiệp rồi nói: « Anh trưởng tràng Khoan giỏi lắm chị ạ! Anh ấy rất tử tế ».

Tiệp mơ-màng không đáp lại lời Luân.

IV

Luân xách siêu nước ở nhà bếp lên pha vào bình tích trên bàn ông đồ. Sau đó cậu bé lại mang siêu nước xuống bếp. Tiệp vẫn đang lui-hui với công việc cơm nước.

Luân bảo Tiệp: « Em đun nước xong rồi, trả lại chị cái siêu nhé. Em phải lên học kẻo anh trưởng tràng quở chết ».

Tiệp cười nói: « Nếu anh trưởng tràng quở mắng, em cứ bảo chị, chị xin cho ».

Nói rồi Tiệp cười Luân cũng cười theo. Bỗng nhiên cậu bé nhìn Tiệp chăm chăm rồi thốt ra: « Chị Tiệp trông xinh quá! »

Tiệp sung-sướng xoa đầu Luân: « Em nói dối, chị xấu chết đi chứ xinh gì mà xinh ».

Luân nói: « Chị xinh thật đấy, em không nói dối đâu. Chị xinh hơn chị Hoài, chị Thảo nhiều ».

Hoài và Thảo là hai nữ sinh lớp học ông đồ. Các cô cũng vào trạc tuổi với Tiệp, và trước đây cùng học với Tiệp. Trình độ học các cô hơi kém Tiệp. Tiệp nghỉ, các cô vẫn tiếp-tục học.

Hai cô trông cũng sạch nước cản, nghĩa là cũng vào hạng tương-đối duyên-dáng dễ coi. Về lời ăn tiếng nói các cô mặn-mà sắc-sảo, và trong cử chỉ của các cô có nhiều nếp dịu-dàng khả-ái.

Trước đây, các cô rất quý mến Tiệp, và Tiệp đối với các cô cũng thân mật. Mối tình bạn gái giữa mấy người thiệt đằm thắm, nhưng ít ngày trước khi Tiệp nghỉ học, các cô hình như xa dần Tiệp. Tiệp đối cới các cô vẫn luôn luôn vồ-vập niềm-nở. Các cô không bàn bạc văn bài với Tiệp, một điều gì vô hình như chia rẽ các cô và Tiệp.

Tiệp rất lạ-lùng trước thái độ của bạn mình. Nàng cố tìm hiểu vì đâu bỗng dưng giữa nàng và các bạn như có một sự thờ-ơ ghẻ-lạnh. Nàng thấy mình không làm điều gì đáng để cho các bạn giận. Nàng băn-khoăn và cố tìm cách thân mật với các bạn hơn, nhưng sự cố gắng của nàng không thay đổi được thái-độ hững hờ của Hoài và Thảo.

Sự thật Hoài và Thảo không ghét Tiệp, nhưng các cô không ưa sự ân cần của Khoan đối với nàng.

Sự ân cần ấy chứng tỏ một cảm tình, và cảm tình ấy, Hoài và Thảo đều muốn Khoan dành cho mình. Hai cô hằng tự-phụ mình không kém gì Tiệp, về nhan-sắc cũng như về gia-thế, Hoài và Thảo đều là con nhà giàu. Các cô được đi học vì nhà các cô dư dả, và không như ở các gia đình khác, con gái không được học nhiều, phải ở nhà săn-sóc công này việc khác giúp đỡ mẹ cha.

Cùng học với Tiệp và trình độ học suýt soát như Tiệp các cô tự coi mình cũng như Tiệp và Khoan không được có một cảm-tình đối với Tiệp nặng hơn đối với các cô.

Trong lòng cô nào cũng thầm mong Khoan để ý riêng tới mình, và sau này nếu duyên số run-rủi sẽ được là người bạn trăm năm của Khoan.

Các cô không được Khoan riêng để ý tới. Khoan lại chỉ chăm-chú hỏi han tới Tiệp, các cô đâm ra ghét Tiệp và tỏ thái độ ghẻ lạnh với nàng.

Khoan càng săn-sóc tới Tiệp, các cô càng tìm cách để lôi kéo Khoan cho xa Tiệp và gần các cô hơn.

Các cô luôn luôn bắt Khoan giảng bài, nhờ Khoan về văn sách.

Khoan vẫn vui vẻ chỉ dẫn giúp các cô, nhưng chàng không khỏi bực mình về cử chỉ đôi khi quá thân-mật của các cô, nhất là của Thảo. Đã có lần Thảo nắm áo chàng lôi kéo bắt chàng phải giúp đỡ mình trong một vế câu đối.

Khoan đã nghiêm sắc mặt bảo Thảo: « Cô Thảo lạ quá! Cô kéo áo tôi thầy trông thấy thì sao. « Nam nữ thọ thọ bất thân », xin cô giữ ý một chút ».

- Tôi có làm gì mà anh bảo giữ ý. Anh là trưởng tràng, tôi có điều gì không hiểu phải hỏi anh, nếu anh không muốn bảo, tôi sẽ hỏi thầy. Làm sao anh như ghét tôi vậy? Chị Tiệp chị ấy có hỏi, anh vội vàng bảo ngay đấy nhỉ?

Khoan vẫn nghiêm sắc mặt nói: « Cô lôi thôi quá. Cô Tiệp hay cô, ai cần tôi chỉ dẫn điều gì tôi có từ chối đâu. Nhưng tôi muốn nói cô giữ ý vì cô lôi kéo áo tôi, sợ thầy trông thấy ».

- Được anh không muốn thì thôi, từ nay tôi sẽ hỏi anh Đáp và anh Thúc vậy.

Sợ mích lòng Thảo, Khoan phải dịu-dàng bảo: « Cô giận tôi rồi sao? Nào cô muốn hỏi gì đưa đây tôi xem. Các cô con gái hay hờn mát quá ».

Thảo nhoẻn miệng cười, đưa bài bắt Khoan giảng cho nghe tuy chính Thảo đã hiểu rành rọt rồi.

Giữa lúc trong các cô và Tiệp có sự ghẻ lạnh mà Tiệp coi là vô cớ thì ông đồ Ngư bảo Tiệp nghỉ học.

Phải nghỉ học, Tiệp rất luyến tiếc các bạn hữu và sách vở. Còn đâu sự gặp gỡ thường xuyên với các bạn gái, cũng như với các bạn trai, nhất là anh trưởng tràng: còn đâu những lúc ganh đua bài vở cùng chúng bạn. Rồi đây những buổi tập làm văn hàng tháng Tiệp sẽ không được dự để tỏ tài của mình cũng như để chứng kiến tài ba của các bạn. Bao giờ lại còn được nghe các bạn bình thơ bình phú nữa! Và cũng thôi hết mọi sự làm nũng anh trưởng tràng để bắt anh gà cho mấy chữ trong bài phú bài thơ!

Từ nay Tiệp sẽ bận với việc nhà nhiều, nàng có muốn đọc sách xem văn cũng chẳng còn bao nhiêu thì giờ. Công việc nhà quê thật bề bộn, việc ngoài đồng, việc bếp nước lại việc chợ búa.

Trước khi nghỉ học, Tiệp chào khắp các bạn. Các cô bé, các cậu trò nhỏ thi nhau líu tíu hỏi: « Chị nghỉ học thật à? Từ mai ai dạy chúng em học, ai cầm tay cho chúng em viết? Thỉnh thoảng anh trưởng tràng đánh đòn, ai xin cho chúng em? »

Các cô các cậu trò nhỏ này quyến-luyến Tiệp lắm. Tiệp rất dịu-dàng đối với các em. Lúc nào nàng cũng là một người chị hiền giúp đỡ các em.

Tiệp bảo các em: « Các em chịu khó học hành ngoan ngoãn. Thày yêu, anh trưởng tràng cũng mến, sau này thi đỗ vẻ-vang ».

Khi Tiệp chào các bạn gái, Hoài nói: « Tiếc quá chị nhỉ! Chị em mình đang cùng nhau học vui-vẻ. Có lẽ rồi đây thày mẹ em cũng bắt em nghỉ học như chị. Hôm nọ thày em cũng đã bảo em là con gái không cần học nhiều ».

Thảo cũng vồn vã với Tiệp.

Thấy các bạn đối với mình như mất hết thái độ ghẻ-lạnh, Tiệp sung sướng. Nàng nói: « Các chị cố gắng học cho giỏi mãi thêm lên, văn hay chữ tốt. Nhà em neo người lại nhiều việc, em không theo đuổi sự học được ở đây nhưng em cũng sẽ xem sách trong những khi rảnh-rỗi ».

Rồi nàng nói tiếp: « Trong khi đi học, em có điều gì không phải xin các chị đừng để tâm và tha lỗi cho em nhé ».

Hoài và Thảo cùng đáp: « Chị em bạn gái chúng mình với nhau, làm gì có truyện gì ».

Thảo nói thêm: « Nghỉ học, nhưng lúc nào rảnh rỗi, chị nhớ đến đây nói truyện với chúng em cho vui nhé ».

Tiệp vui vẻ đáp: « Nghỉ học nhưng lúc nào em cũng nhớ tới các chị, nhớ tới những buổi cùng học với nhau, những phút vui chung sung-sướng của chúng ta ».

Cuối cùng Tiệp chào Khoan, sau khi đã chào đủ mọi người khác: « Anh trưởng tràng ạ, mai em nghỉ học. Em chào anh trưởng tràng và chúc anh càng văn hay chữ tốt hơn ».

Vừa nói Tiệp vừa nhìn vào Khoan. Bốn mắt gặp nhau đã nói nhiều hơn những lời họ muốn nói. Khoan cũng nhìn Tiệp trìu-mến. Chàng bảo: « Cô nghỉ học, anh em chúng tôi rất nhớ, nhưng lệnh thày đã muốn, mình làm con phải chiều ý cha mẹ ».

Tiệp mân-mê tà áo, như muốn nói gì thêm, và Khoan cũng như nàng muốn nói cùng nàng nhiều lắm, nhưng đôi bên không biết nói gì hơn cùng nhau ngoài mấy câu trao đổi trên.

Đáp cũng chứng kiến cuộc từ-biệt của đôi-người. Đáp thấy giữa hai người có một tình quyến-luyến riêng vượt trên tình bạn đồng học. Đáp vốn là người tốt, vẫn thầm mong cho đôi bên sẽ được cùng nhau như chim liền cánh như cây liền cành để cùng trọn nghĩa sắt cầm.

Sự bịn rịn của đôi bên cũng không lọt ra ngoài mắt Thúc. Thúc cau-có bực mình thấy đôi người lưu-luyến nhau một cách mặn-mà đằm thắm nhưng Thúc cũng mừng vì Tiệp nghỉ học, nàng sẽ không có dịp được gần Khoan nhiều, và rồi ra, nàng sẽ quên Khoan bởi thưa gặp-gỡ.

Tiệp đã nghỉ học, và từ lốt một nữ sinh, nàng đã trở nên một thôn nữ đảm-đang đủ mọi công việc gia-đình đồng-áng.

Mỗi lần có dịp đi ngang qua sân lớp học, nàng không bao giờ nàng quên ngó nhanh vào để được gặp mắt Khoan.

Vừa qua, nhân lúc qua sân, nàng đã liếc vào và Khoan cũng đã nhìn ra. Phút giây bốn mắt gặp nhau chỉ thoáng ngắn, nhưng lòng đôi người đã rộn-ràng một niềm vui sướng.

Giờ đây đứng trong bếp nàng lại được nghe Luân nhắc đến Khoan lòng nàng càng tràn ngập một cảm-giác êm-dịu nhất là Luân lại lại khen Khoan giỏi và khen nàng xinh đẹp.

Nàng bảo Luân: « Em khéo khen chị. Chị xinh sao được bằng các chị Hoài và Thảo ».

Luân nhắc lại: « Em không nói dối đâu. Nhưng thôi em phải lên học kẻo anh trưởng tràng lại giục ».

Luân chạy vụt đi. Tiệp nhìn theo yên lặng.

V

Lớp học của ông đồ Ngư ồn-ào vang tiếng trẻ học, bé học bài của bé, lớn học bài của lớn. Ông đồ ngồi vắt-vẻo trên chiếc sập, mắt đeo kính, đang chăm-chú đọc một cuốn sách, thỉnh-thoảng lại với lấy chiếc ống điếu chấm hút mồi thuốc. Trông ông nghiêm trang và đạo đức.

Cũng như mọi ngày, các trò lớn vẫn bảo các trò nhỏ trước khi học bài của mình, và các trò sau khi học thuộc bài thì mang sách ra chép bài hoặc viết tập.

Tại lớp học của ông đồ Ngư cũng như tại tất cả các lớp học chữ nho thời xưa, học trò học bài hôm nào thì phải giảng và viết bài ngày hôm đó vào lúc cuối giờ học. Trò nào không thuộc bài hoặc không thuộc nghĩa bài phải ở lại học cho tới thuộc mới được thầy đồ cho về. Vì vậy trong giờ học, trò nào cũng chăm-chỉ học mong cho mau thuộc cả chữ lẫn nghĩa để không phải ở lại.

Đưa mắt nhìn lũ học trò học bài ông đồ lấy làm tự mãn sung-sướng. Tuy không làm quan cao chức trọng gì, nhưng một mình ông đã đào tạo không biết bao nhiêu người làm nên, hết lớp này đến lớp khác. Những trò nhỏ ngày nay đang ngồi học ngồi viết kia, biết đâu mai sau lại không có kẻ sẽ mũ cao áo dài, hiển vinh phú quý và sẽ là những bậc lương-đống của quốc-gia.

Học trò chữ nho rất biết ơn thày. Dù ai làm nên danh giá bực nào, quan cao chức trọng đến đâu, khi tới nhà thày, vẫn chỉ là một học trò của thày vẫn chấp tay dưng hầu thày như khi còn đang đi học.

Một lớp học của một ông đồ lại có ban đồng môn để lo mọi công việc nhà thày từ ma chay đến giỗ chạp. Tất cả các môn sinh mới cũ đều phải đóng góp tiền đồng môn mỗi khi nhà thầy có việc, như các con giúp đỡ cha mẹ. Các môn sinh cũ dù đã có tước lộc cao, nhiệm-vụ lớn nhưng vẫn tham-dự đồng-môn. Chỉ những kẻ vô ơn bạc nghĩa mới quên ơn thày. Cha mẹ có công sinh dưỡng nhưng thày học có công dạy dỗ cho mình nên người, công dạy dỗ này theo quan niệm phương Đông còn đứng trên công sinh dưỡng.

Với số học trò đã thành đạt nhiều, ông đồ Ngư được tiếng tăm khắp nơi. Ngồi dạy lũ học trò nhỏ, ông trông ở tương-lai chúng rất nhiều. Trong khi dạy học, ông đoán biết một phần lớn sự thành đạt của học trò. Đứa nào học hành có khiếu ông biết, nhà đứa nào nhiều phúc-đức qua nét mặt sáng-sủa hiền-hậu của nó, ông cũng có thể hy-vọng kết quả tốt đẹp ở nó. Còn những học trò con nhà giàu, con cường-hào ác-bá, dạy chúng học thì ông dạy nhưng thường ông vẫn nghĩ chúng có thể học để mà học, chứ không phải học để thi đậu hiển-vinh.

Hôm đó, giữa lúc ông đang rung đùi ngắm nhìn lũ học trò bổng có khách tới.

Bây giờ vào khoảng giữa giờ Thìn. Khách chẳng phải ai xa lạ, chính là một người làng, bác xã Phiệt. Bác xã Phiệt đến xin học cho con là thằng cu Kiệm lên bảy tuổi.

Xã Phiệt ăn mặc trịnh-trọng. Bác chít trên đầu chiếc khăn lượt đen, mặc áo the thâm và quần trắng, chân bác đi đôi giày Gia-định.

Bác vái ông đồ từ ngoài sân.

Cu Kiệm theo sau bác cũng ăn mặc như cha. Trên đầu cũng quấn chiếc khăn nhiễu tam-giang, cũng áo the quần trắng, cũng đi đôi giầy. Có lẽ nó đi giầy không quen cho nên đôi giầy cứ muốn văng đi trước. Nó thấy bác xã vái ông đó, nó cũng vái theo.

Cùng đi với hai cha con bác xã, có tên người nhà cũng quần áo sạch sẽ, đầu đội mâm đồ lễ gồm có cỗ xôi con gà và trầu cau, chè rượu.

Ông đồ Ngư mời bác xã Phiệt vào trong lớp học.

Bác xã nói: « Hôm nay chúng tôi đưa cháu tới để ăn mày ông đồ ít chữ của thánh hiền ».

Ông đồ hỏi tên tuổi cu Kiệm biên vào mảnh giấy. Ông bảo ông xã: « Cửa thánh hiền có hẹp gì. Bác xã cố cho con đi học thế là phải ».

- Thưa ông đồ, cháu nó thích đi học lắm. Thấy các trẻ rủ nhau đi học, nó luôn luôn đòi đi.

Ông đồ cười nói: « Thế thì nhà bác khá. Con trẻ thích đi học tức là điềm nhà thịnh-vượng ».

Ông đồ đưa hai cha con bác xã lên nhà trên. Tên người nhà cũng đội theo mâm đồ lễ.

Trước hết ông đồ bảo tên người nhà bác xã đặt đồ lễ lên trên bàn thờ thánh-sư, để ông làm lễ.

Ông lấy miếng giấy có tên tuổi cu Kiệm ra xem lại, rồi ông đem đặt vào mâm đồ lễ. Ông thắp nến và ba nén hương cắm trên bàn thờ.

Ông lâm râm khấn rồi lễ. Bác xã Phiệt lễ theo. Bác bảo cu Kiệm vào lễ. Cu Kiệm súng sính trong bộ quần áo dài lượt-thượt cũng vào lễ trước bàn thờ. Cuộc lễ chỉ đơn giản như vậy nhưng rất trang nghiêm, qua vẻ mặt nghiêm-nghị cùng cử chỉ thận-trọng của ông đồ, cũng như qua điệu bộ cung-kính của bác xã và của cu Kiệm.

Lễ Thánh-sư xong tới lễ bàn thờ tổ tiên nhà ông đồ. Ông đồ cũng khấn lễ, rồi bác xã Phiệt và cu Kiệm cũng vào lễ như trước. Vẫn cái không khí nghiêm-trang ấy, mùi hương tỏa lên ngào-ngạt. Ánh mấy ngọn nến rung rinh như soi tỏ lòng thành-kính của những người làm lễ đối với tiền nhân.

Hai cuộc lễ tại hai bàn thờ có hai ý nghĩa.

Lễ Thánh-sư là có ý trình bày sự nhập môn của một học sinh mới, còn lễ bàn thờ gia tiên là để ông đồ cáo cùng gia tiên việc mới thâu nhập một môn sinh.

Sau cuộc lễ ông đồ mời bác xã Phiệt ngồi chơi ở tràng-kỷ trước bàn thờ. Ông sai Tiệp pha trà, đồng thời ông cũng cho gọi Khoan lên.

Ông bảo bác xã: « Việc học là việc rộng, biển học mênh mông.Con trẻ chúng đi học, trước hết phải cho chúng học lễ, sau mới nói đến văn bài sách vở. Vì vậy phải có lễ trình Thánh-sư ».

Bác xã vâng vâng dạ dạ.

Ông đồ lại nói: « Tôi dữ đòn lắm. Ai thương con thì không thể cho con học tôi được. Các trẻ con chúng nó còn ham chơi phải lấy roi vọt thúc đẩy chúng nó mới chịu học. Có chịu học chúng mới tấn-tới, mới có thể thấm-nhuần đạo lý của thánh hiền ».

Bác xã thưa: « Trăm sự chúng tôi trông cậy cả ở ông đồ. Chúng tôi chỉ mong sao cháu nó ăn mày ông đồ được dăm ba chữ để sau này lớn lên đỡ bị người ta khinh cười là vô học ».

Tiệp đã pha nước bưng tới.

Ông đồ mời bác xã: « Bác xã xơi nước. Đây là chè hảo hạng của thầy Huyện Thanh-Oai gửi biếu ».

Thầy Huyện Thanh Oai tức là một học trò cũ của ông đồ, đã đậu cử-nhân và được bổ tri-huyện Thanh-Oai thuộc tỉnh Hà Đông.

Vừa lúc ấy Khoan cũng ở lớp học bước lên. Đang pha nước, thấy Khoan lên, Tiệp nhẹ đưa mắt nhìn Khoan như muốn nói điều gì. Và Khoan cũng nhìn lại Tiệp mỉm cười.

Khoan thưa với ông đồ: « Thưa thầy gọi con ».

Ông đồ đáp: « Ừ, thầy gọi anh lên để giao cho anh thằng cu con bác xã đây, mới nhập học buổi nay. Con trông nom cho nó cũng như các em khác. Con cho nó vỡ lòng bằng sách Ấu-học tân thư ».

Ông đồ quay lại bác xã nói: « Đây là anh Khoan, trưởng tràng của tôi. Anh cũng người làng ta. Anh chịu khó và học hành tấn-tới lắm. Những học trò mới, tôi đều giao cho anh trông nom. Tôi chỉ tự dạy lấy những học-trò lớn ».

Ông lại bảo thằng cu: « Thôi con đi xuống lớp học. Có anh trưởng tràng dạy học cho. Đi học thì phải ngoan-ngoãn, nếu hư-hỏng lười-biếng thì phải đòn ».

Cu Kiệm khép-nép vâng dạ, cặp mắt ngây thơ nhìn hết ông đồ lại nhìn đến anh trưởng tràng.

Bác xã bảo con: « Con chịu khó học, anh trưởng tràng sẽ dạy con giỏi như thằng Thọ con ông bá Thúy bên cạnh. Buổi trưa tan học, con theo thằng Thọ cùng về ».

Khoan dắt cu Kiệm xuống lớp học. Cu Kiệm đi theo nhưng vẫn quay lại nhìn bác xã và ông đồ.

Từ trong nhà bước ra ngoài sân, Khoan thấy Tiệp lúc đó đã pha nước xong đang đi chậm chậm có ý chờ đợi Khoan.

Khoan nhìn Tiệp như say đắm, Tiệp cũng nhìn Khoan với đôi mắt đầy ý nghĩa.

Khoan nói: « Cô Tiệp dạo này nghỉ học tha hồ nhàn ».

Tiệp đáp: « Nhàn sao được hở anh? Nhàn việc học nhưng bận việc nhà, anh ơi. Vả lại tôi vẫn thích học lắm. Học với các anh vui lắm, làm công việc nhà vất vả nhiều ». Rồi Tiệp chỉ cu Kiệm nói tiếp: « Anh trưởng tràng lại có thêm một em mới nhập học ».

Cuộc đối đáp chỉ ngắn-ngủi như thế thôi, Khoan dẫn cu Kiệm xuống lớp học còn Tiệp đi thẳng xuống bếp. Gần tới bếp nàng còn quay lại nhìn Khoan. Vừa lúc ấy Khoan cũng dừng chân ở trước cửa lớp học để nhìn theo nàng. Bốn mắt lại gặp nhau, Tiệp vội vàng cúi mặt xuống sau một cái mỉm cười duyên-dáng. Nàng thấy nóng bừng đôi má. Lòng nàng rạo-rực rộn-ràng một niềm vui.

Khoan cũng cười theo nàng, lòng chàng thấy tràn ngập một nỗi yêu đương vô bờ bến đối với Tiệp. Chàng nghĩ đến tương lai, đến ngày chàng được cùng Tiệp sánh đôi.

Bóng Tiệp đã khuất vào trong nhà bếp, Khoan và Kiệm vào lớp học.

VI

Một buổi chiều mùa Thu. Trời Thu trong không gợn chút mây, gió thu hây hẩy thổi mấy lá vàng rơi.

Dòng sông Nguyệt-Đức lặng-lờ chảy, nước xanh xanh gợn sóng đều đều theo từng cơn gió nhẹ. Mấy cây cổ thụ làng Kim-Đôi nghiêng mình soi bóng bên bờ sông, để hé xa xa nóc ngôi đình cổ kính cùng vài nóc nhà gạch bên hữu ngạn dòng sông. Vài thôn nữ đứng dưới bóng cây đang cùng nhau chuyện vãn. Ngay bờ sông, sát mặt nước, trên một hòn đá lớn, vài thôn nữ khác đang giặt vội một ít quần áo. Cùng ngay bến sông, vài cô khác lội ra xa xa bờ nước khỏa khoắng mấy đôi thùng để kín nước trong.

Bốn bề hầu như im lặng, không một tiếng động mạnh không một cơn gió to. Vài lá vàng từ trên ngọn cây rớt xuống là lượn trong không trung trước khi rơi xuống mặt nước, chiếc đảo nghiêng, chiếc đảo ngược. Dòng sông lạnh-lùng chầm chậm chảy mang theo những chiếc lá rơi không tiếc bến.

Vài con thuyền căng buồm chạy theo chiều gió, đè làn nước. Mấy con đò nhỏ sang ngang đang rập-rờn trên sóng nhẹ theo đà của các cô lái đò đưa bơi chèo làm rung làn nước bạc.

Một con đò, từ mé bên kia sông sắp cập bến Kim-Đôi. Khách đi đò thưa lắm, chỉ có vài ba người nhà quê quần nâu áo vải với một ít thúng mủng quang gánh. Con đò không to. Đây là loại thuyền nan thường được dùng để chở khách qua sông trên những bến vắng.

Bến Kim-Đôi chỉ là một bến nhỏ của sông Nguyệt-Đức. Khách hàng ngày sang ngang không bao nhiêu: chỉ những người ở một vài làng ngay bờ đê hai bên sông mới dùng bến này, còn ở làng trên xã dưới người ta thường dùng bến Đáp-Cầu hoặc bến Ngư-Đại là hai nơi có chợ búa đông-đúc.

Con thuyền nan từ từ cặp bến. Cô lái đò nhẹ đưa bơi chèo gạt nước lựa cho đầu mũi thuyền giáp vào bờ sông. Nước theo đà bơi chèo bắn trắng trên mặt sông. Cô lái đò cố giữ cho con thuyền đứng vững khỏi trôi theo nước chảy. Cô cắm sào xuống lòng sông.

Chiếc sào đã giữ chắc con thuyền. Khách đi thuyền người một bước lên bờ. Trong số khách qua sông có Tiệp với đôi quang gánh đã nhẹ không. Nếu ai tò mò nhìn vào đôi thúng của nàng thì chỉ thấy mấy mớ dưa, vài xâu bánh phòng cho con trẻ.

Tiệp bước chân lên bờ. Nàng chưa kịp để ý tới những ai đứng quanh bờ sông, bỗng có tiếng gọi: « Chị Tiệp đi chợ về đấy à? »

Tiệp ngoảnh lại thì đấy là Niệm, một cô bạn cùng xóm với nàng và trước cũng đã có theo học ông đồ Ngư.

- Vâng, em hôm nay đi chợ Nếnh bán gánh gạo lấy tiền mua rau.

Chợ Nếnh tức là một chợ nhỏ thuộc làng Nội-Ninh, huyện Việt-Yên, tỉnh Bắc-Giang, bên kia sông, ở không cách xa làng Kim-Đôi bao nhiêu.

Tiệp lại hỏi Niệm: « Chị làm gì ở bên sông đấy? »

Niệm đáp: « Em giặt ít quần áo. Em cứ tưởng hôm nay ở nhà thầy có cuộc bình văn làm câu đối chị cũng ở nhà dự như mọi tháng. Mọi tháng thầy em vẫn bảo em đến nghe và thỉnh thoảng góp vài vế câu đối cho đỡ quên, nhưng hôm nay đẻ em bảo em đi bán gạo. Chính thày em lần này cũng bảo em đi chợ. Con gái dự được buổi bình văn nào hay buổi ấy, không dự cũng không sao ».

Hàng tháng, vào kỳ đầu tháng, tại lớp học của ông đồ Ngư có cuộc bình văn và thi câu đối giữa các học-trò. Những ngày này có nhiều học-trò cũ xin được tới dự nghe để thưởng-thức những bài văn, những thơ phú của học trò đang học. Và mọi kỳ, Tiệp vẫn dự nghe để thưởng-thức những bài văn, những vế câu đối của các bạn học, nhất là của Khoan. Mỗi khi bài của Khoan được ngợi khen Tiệp thấy sung-sướng như chính mình đã làm bài văn đó, chính mình đã đối về câu đối đó.

Tháng này Tiệp vẫn muốn dự cuộc bình văn, nhưng mẹ nàng bảo nàng đi chợ, và hình như ông đồ cũng không muốn nàng dự vào các cuộc bình văn thơ này nữa.

Làm con nàng chỉ biết tuân theo lời cha mẹ, dù nàng muốn hay không. Vâng lời cha mẹ là điều đầu tiên trong đạo tam-tòng. Nàng cũng không hiểu tại sao cha mẹ nàng lại không muốn nàng tham dự buổi bình văn. Hay là… nàng không dám nghĩ tới.

Nàng chào Niệm rồi quảy quang gánh đi lên bờ đê. Niệm nhìn theo rồi tấm tắc khen: « Trông chị dạo này đẹp quá! »

Tiệp quay lại nhìn Niệm rồi cười như cảm ơn.

Tiệp cũng biết mình đang tuổi xinh đẹp, nhan-sắc đang lộng-lẫy, và ngoài Khoan ra, rất nhiều chàng trai trong làng cũng như ngoài xã để ý tới nàng. Nàng không có cao vọng gì xa xôi, nàng chỉ mong nếu duyên trời đưa lại, được cùng Khoan chấp mối chỉ hồng. Mong là mong vậy, nhưng còn tùy số mệnh cũng như còn tùy song thân nàng. Con gái đâu có quyền kén cá chọn canh. Lời xưa có câu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Nàng là con nhà lễ giáo, bao giờ sai được lời xưa.

Tiệp đi lên đường đê, Niệm tiếp-tục giặt quần áo trong khi con thuyền nan cũng đang rời bến với vài khách qua sông.

Một thôn nữ khác cũng đang giặt bên sông. Từ nãy giờ nàng không nói gì, bỗng hỏi Niệm: « Chị có biết tại sao chị Tiệp không ở nhà nghe bình văn như mọi tháng? »

- Nào em biết được! Chắc chị ấy phải đi chợ như chị ấy vừa nói chứ gì.

- Không phải đâu, em biết!

- Chị biết sao?

- Hình như ông Chánh-Tổng có ngỏ ý với ông đồ để xin chị Tiệp cho anh Thúc thì phải. Nghe đâu anh Thúc mê chị Tiệp lắm.

- Thế à! Em không biết. Nhà ông Chánh-Tổng thông gia với nhà ông đồ thực là môn đăng hộ đối, nhưng chẳng biết ông đồ có chịu gả chị Tiệp cho anh Thúc không?

- Làm gì mà không gả, ông Chánh-Tổng vừa nhà giàu lại vừa có thế lực. Anh Thúc cũng học-hành khá, sau này thế nào chẳng có chút công-danh.

- Chị Tiệp độ này trông đẹp hẳn lên. Anh Thúc mê là phải, em là con trai, em cũng mê chị Tiệp. Nhưng không hiểu chị Tiệp có chịu lấy anh Thúc không.

- Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Chị Tiệp cũng như em với chị, đâu có quyền chịu hay không chịu.

- Nhưng, cứ kể hai bên lấy nhau cũng đẹp đôi!

Câu chuyện của hai cô thôn nữ vẫn tiếp-tục trong khi Tiệp đã lững-thững đi xa trên bờ đê.

Xa xa đi ngược chiều về phía Tiệp, có hai thanh niên dắt tay nhau vừa đi vừa chuyện.

Khi tới gần, Tiệp nhận ra đó là Thúc và một người làng. Trông Thúc ăn mặc lịch-sự. Khăn áo rất chỉnh tề, trông thật đúng con nhà giàu trong hàng tổng. Có lẽ hai người đi trên con đường đê đã lâu, và họ đang chờ đợi ai?

Gặp Tiệp, đôi mắt của Thúc ngời sáng long-lanh. Chàng nhìn chầm-chập vào Tiệp, nàng phải cúi mặt xuống.

Thúc chào: « Cô Tiệp đi đâu về đấy? Sao hôm nay cô không tới dự buổi bình văn? »

Tiệp vừa đi vừa thong-thả đáp: « Tôi đi chợ Nếnh bán gạo về. Đã đi chợ còn dự sao được buổi bình văn ».

Tiệp vẫn đi. Thúc như cố muốn cho nàng ngừng lại, tìm cách kéo dài câu chuyện: « Buổi bình văn sáng nay vui lắm. Tiếc không có cô! »

Tiệp bước rảo hơn, nhưng vẫn lễ-độ trả lời: « Tôi cũng rất tiếc không được dự ».

Thúc và người bạn quay gót đi theo Tiệp cố tìm cớ nói chuyện: « Cô đi chợ có mệt không? Chắc là đắt hàng nhỉ? »

Tiệp thấy Thúc quay gót đi theo mình, nàng càng bước nhanh hơn. Nàng không muốn nói chuyện với Thúc, và nhất là nàng không muốn ai bắt gặp nàng nói chuyện với Thúc. Nàng rất sợ tai tiếng, và nàng cũng e Khoan hiểu lầm tưởng nàng có tình ý gì với Thúc. Nàng ấm-ứ trả lời, muốn cho Thúc không hỏi-han mình nữa: « Cảm ơn anh ».

Câu trả lời không đầu-đuôi này đáng lẽ chấm dứt câu chuyện nhưng Thúc vẫn cố gợi những truyện khác.

Tiệp đi rảo cẳng thì Thúc cũng bước theo nhanh, kéo theo người bạn đi bên cạnh. Sau cùng Tiệp phải bảo Thúc: « Xin anh đừng đi theo tôi nói chuyện nữa kẻo có ai bắt gặp rất không tiện cho tôi ».

- Sao mà không tiện. Tôi là học-trò, cô là con thày, gặp nhau nói chuyện có sao!

- « Nam nữ thụ thụ bất thân », anh không nhớ chăng? Vả lại anh cứ đi theo tôi, sao khỏi điều này tiếng khác, nếu có ai nom thấy.

- Cô cẩn-thận quá. Cô ghét tôi hay sao?

Tiệp bực mình với những câu hỏi vô duyên của Thúc.

Nàng vùng-vằng đáp: « Sao anh ăn nói lạ vậy. Xin phép anh ; tôi phải vội về kẻo thày mẹ tôi quở, không thể đáp chuyện mãi anh được ».

Thấy Tiệp cáu-kỉnh Thúc cười hà hà. Chàng lại nói: « Cô giận tôi chăng? Cô lạ-lùng nhỉ ».

Tiệp không đáp, rảo bước đi mau hơn. Thúc nói thêm: « Chỉ sợ sau này cô không cáu-kỉnh như vậy với tôi mãi mãi được thôi. Nói thật, cô Tiệp ạ, trông cô xinh đẹp quá! »

Thấy Thúc đi tới chỗ sỗ-sàng. Tiệp phải nói: « Anh ăn nói hay nhỉ. Xin anh giữ mồm giữ miệng một chút ».

Rồi nàng đi mau hơn. Thúc lại cười hà hà. Và người bạn của Thúc cũng nói theo một câu: « Làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta trêu! Làm chi cô vùng-vằng vậy ».

Tiệp làm thinh đi thẳng, bỏ mặc hai chàng lẽo đẽo mỗi lúc một xa hơn. Vừa đi Tiệp vừa nghĩ. Có năm bảy hạng học-trò thì cũng có năm bảy hạng gái…

VII

Đáp đứng chờ Khoan ở cổng xóm, nơi đi vào nhà ông đồ. Đáp vốn xưa nay vẫn quý trọng Khoan vì sức học, lại mến Khoan vì nết. Khoan cũng thân-mật với Đáp hơn với mọi người trong lớp. Có truyện gì Khoan đều nói với Đáp cũng như Đáp không bao giờ dấu Khoan điều gì dù là truyện riêng của mình.

Đáp mong-manh được tin Thúc nhờ người mai-mối tới nhà ông đồ Ngư để xin hỏi Tiệp, và ông đồ Ngư hình như chưa trả lời dứt-khoát. Đáp hiểu Khoan đối với Tiệp có tình ý nhiều lắm, và đã đôi lần Khoan thú thật với Đáp mong sau này ch?