CHƯƠNG II
Tháng Tám bắt đầu mùa cưới. Người ta không cưới hỏi trong mấy tháng Hè, mùa của cô-hồn chúng-sinh, và tháng bảy tuy sang thu nhưng người ta kiêng tháng Ngâu, nên việc cưới xin là việc tốt-lành, không ai cử-hành trong tháng đó. Việc trăm-năm đâu phải việc một ngày, trước sau một tháng có đâu chậm trễ, vội gì chẳng đợi tháng tốt chọn ngày lành.
Gió thu mát, trời thu trong, tiết thu êm-dịu, cúc thu nở vàng khắp vườn ngỏ trong làng báo hiệu mùa cưới tới.
Làng Kim-Đôi, với tiết trời tháng Tám đã có nhiều đám dạm hỏi. Con ông Bá Nhất hỏi con gái ông Cả Huân, con ông Nhiêu Cư lấy con gái ông Lý Liệu và nhiều đám nữa, trong đó có hai đám ăn hỏi của Khoan và Thúc. Những ngày tốt có khi có hai ba đám cưới. Tiếng pháo đưa rể đón dâu nổ từ xóm này qua thôn khác. Xác pháo hồng như tô-điểm cho những cặp má ửng hồng của các cô thôn-nữ vu-quy. Những chàng trai sung-sướng trong đám cưới, chú rể sung-sướng vì được vợ đã đành, cả những anh phù rể cũng sung-sướng vì được dịp ngắm các cô phù dâu xinh đẹp để kén vợ. Có chàng trai mấy bữa trước đóng vai phù rể, mấy bữa sau đã chính mình là chú rể.
Các vị-hôn-thê nhộn-nhịp sắm-sửa đồ cưới. Nào áo quần, nào nón quai thao, nào dép cong kinh kỳ. Và các chàng trai sắp cưới vợ cũng lo may mặc, lo mua khăn, mua giày không thua các cô thôn-nữ.
Họ nhà trai sửa-soạn đồ dẫn cưới, họ nhà gái cũng sắm sanh chờ ngày vu-quy cho con gái.
Thúc may mặc toàn đồ sang. Áo đoạn kim ngân, phủ áo the La Cả, khăn nhiễu Kỳ-Cầu, giày Gia-Định.
Đồ dẫn cưới ông bà Chánh-Tổng cho người ra tận Hà-Nội để kén từ bánh trái đến chè cau. Và Thảo cũng lo trang điểm cho mình thật diêm-dúa, vượt hẳn các chị em trong làng. Một đời người mới có một lần, tội gì có tiền không trang-điểm cho hơn người. Mỗi lần mua bán được thứ gì tốt đẹp, Thảo lại rủ bạn-bè tới xem, chúng bạn nhiều cô thèm muốn số phận của nàng.
Một bữa nàng rủ Hoài tới xem chiếc vấn đầu nhung gửi mua tận phố Hàng Đào Hà-Nội. Sờ mặt nhung mịn-màng, nhìn sắc nhung đen óng-ánh, Hoài không ngớt lời khen. Hoài nói: « Chị sung-sướng thật! Cái gì của chị cũng tốt cũng đẹp ».
Thảo hỏi thăm Hoài về Tiệp: « Chị có thấy chị Tiệp có sắm-sửa gì không. Chị ấy ăn hỏi trước em, nhưng có lẽ sẽ cưới sau em ».
- Em không thấy chị ấy nói chuyện và cũng chẳng thấy chị ấy mua bán gì. Ai sắp tới ngày cưới cũng sắm-sửa, riêng chị ấy, em chẳng thấy động tĩnh gì.
- Còn anh Khoan?
- Anh Khoan em cũng không thấy sửa-soạn. Nhà anh ấy nghèo lấy tiền đâu may mặc như anh Thúc.
Thảo cũng hiểu nhà Khoan nghèo, nhưng nàng cứ hỏi Hoài cốt để nhắc đến sự sang trọng của Thúc, và nàng cũng muốn để Hoài so-sánh Thúc với Khoan, cũng như nàng với Tiệp.
Đám cưới của nàng đã cử hành linh-đình vào một ngày đầu tháng chín. Nhà Thúc đã mổ bò giết lợn để mời hàng tổng xã. Khách tới mừng đông-đúc đến nỗi chật cả mấy căn nhà ngói, lại chật cả rạp dựng tạp ở ngoài sân.
Những đồ mừng của bạn-bè ông Chánh-Tổng cũng sang-trọng. Nhưng bức trướng màu hồng, màu đỏ, màu vàng rực-rỡ được treo khắp hai bên tường nhà. Bao nhiêu là lời chúc tụng tốt đẹp trên những hàng chữ thêu kim-tuyến óng-ánh hoặc trên những hàng chữ đen biếc, mực quốc-bảo thơm phức.
Tiệc-tùng rã-rích ba bốn ngày liền. Những tràng pháo liên-tiếp nổ. Xác pháo hồng bay đỏ rực từ cổng vào tới sân nhà Thúc.
Ai cũng khen vợ chồng ông Chánh-Tổng tốt phúc. Và người ta tưng-bốc ông bà với những lời-lẽ làm cho ông bà rất mực sung-sướng. Ông bà không tiếc tiền chỉ cốt cho người ta trông vào, và không ai có thể dị nghị.
Trong nhà ba bốn bàn tổ-tôm để các cụ mua vui, và cụ nào không có tiền điều được ông Chánh-Tổng cấp vốn để thừa tiếp các cụ khác. Lại có cả bốn bàn đèn để các cụ ưa làm bạn với phù-dung hút sách. Thuốc phiện toàn thuốc ty hạng tốt, hộp Rồng Vàng. Mùi khói thuốc bốc lên thơm ngát, át cả mùi hương trên bàn thờ ngào-ngạt.
Các cụ cười to nói lớn, các cụ tán-dương những bức trướng mừng, các cụ khen ngợi sự rộng-rãi của ông bà Chánh-Tổng.
Và ở đằng nhà Thảo cũng cổ bàn tấp nập. Từ hôm tiên-thường, tiếng lợn bị thọc tiết kêu eng-éc đã kéo bà con tới làm giúp nhộn-nhịp.
Như muốn ganh đua với nhà trai, nhà Thảo cũng ran pháo nổ, cũng ồn-ào khách-khứa, khách trong làng, khách thiên hạ. Cô dâu đã nhận được những đồ mừng rất quý: có nhẫn vàng, có ống vôi bạc, có những rổ trầu cau xinh xinh bằng bạc nạm vàng, có trâm cài, có giải yếm lụa hồng và nhiều lắm…
Khách ăn cổ ở nhà trai sang nhà gái. Ở đây cũng mấy bàn tổ-tôm, và các cụ vui chơi, được thua cũng đều là tiền chủ cấp vốn. Cũng mấy bàn đèn sực mùi thuốc Cống-chạp, Rồng Vàng. Tiếng chúc-tụng cô dâu và mừng ông bà Phong vang lên trên những mâm rượu. Vui-vẻ tưng-bừng. Gia chủ vui, khách khứa cũng vui.
Rồi ngày đưa rể đón dâu, hai họ đều hoan-hỷ. Pháo càng nổ nhiều. Mặt chú rể hồng màu rượu, mặt cô dâu đỏ vì sung-sướng, và xác pháo đỏ như tăng vẻ huy-hoàng cho tiệc cưới.
Để trả thù Khoan và Tiệp, Thúc đã mời Khoan đến dự tiệc cưới, và Thảo cũng đã mời Tiệp đi phù dâu. Khoan đã đến mừng Thúc với lòng chân thành và chúc vợ chồng Thúc được bách-niên giai-lão, con cháu đề huề và luôn luôn hạnh-phúc. Nâng chén rượu mừng, Khoan không nghĩ đến sự Thúc vẫn căm mình vì không lấy được Tiệp.
Tiệp cũng đến mừng Thảo như các bạn đồng học khác, nhưng nàng đã từ-chối không đi phù dâu, nàng muốn tránh mặt Thúc không muốn thấy Thúc để nhớ lại buổi Thúc cợt ghẹo nàng ở bên sông. Nàng đã không thuận lấy Thúc lẽ nào nàng còn đi phù dâu.
Trong tiệc cưới có người nhắc tới cuộc hôn-nhân của Khoan. Một bạn học hỏi khoan: « Hôm nay chúng tôi được uống rượu mừng anh Thúc, bao giờ đến lượt anh trưởng tràng cho chúng tôi say sưa ».
Khoan ngay thẳng nói: « Anh em lo gì điều đó. Có điều xin nói trước là bữa tiệc rượu của tôi không linh-đình được như bữa rượu hôm nay của anh Thúc đâu ».
Lời khiêm tốn chân thật của Khoan khiến Thúc bằng lòng.
Thúc tự nghĩ Khoan có bắc bẩy tầng cầu cũng không bằng được sự sang-trọng của Thúc.
Chính Khoan cũng chưa biết ngày cưới của mình định vào bao giờ. Điều đó còn tùy thuộc cha mẹ chàng và ông Khóa Hữu. Chàng thấy nhà mình nghèo, cưới xin lại tốn kém. Đã đành rằng ông đồ Ngư thương không thách cưới gì, và mọi lễ-nghi đều giản-tiện, nhưng không nhiều thì ít cũng phải có tiền mới dám tính đến lễ cưới.
Khoan cũng mong chóng được gần Tiệp để phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng, sớm chừng nào hay chừng ấy. Và chính Tiệp, nàng cũng ngóng-đợi nhà trai xin cưới để chấm dứt mọi sự bàn ra tán vào của bạn bè cùng làng nước.
Ông đồ Ngư hiểu rõ lắm. Ông biết rõ tâm-lý của Tiệp cũng như tình trạng của Khoan. Đã có lần ông tỏ cho Khoan biết mọi sự dễ-dãi của ông để Khoan về thưa lại cùng cha mẹ.
Đã có hỏi tất phải có cưới, cha mẹ Khoan luôn luôn nghĩ đến việc hôn-nhân của con. Ông bà định chờ xong vụ gặt tháng mười, có tiền ông bà sẽ cố làm cho xong đi.
Khoan vẫn đi học, và sự học vẫn ngày càng tấn-tới. Chàng tin-tưởng vào sự học cũng như ông đồ tin-tưởng ở chàng.
Thời gian chầm chậm đi! Tháng Tám hết rồi tháng chín. Dân quê đã bắt đầu gặt lúa sớm…
IIVụ gặt tháng Mười! Ngoài cánh đồng, những ruộng lúa mùa nặng trĩu những bông vàng như tơ ánh, và mùi lúa chín bốc lên thơm dìu-dịu. Những cơn gió tạt qua lung-lay những bông lúa nhẹ cọ sát vào nhau như những tiếng rì-rầm, và hương thơm của lúa chín tỏa rộng một mùi mát mát êm êm.
Từ sáng sớm, thợ gặt đã kéo nhau khắp cánh đồng để gặt lúa. Những ruộng lúa vàng, trước những lưỡi liềm lưỡi hái cứ vơi dần. Các cô thôn nữ, chít khăn mỏ quạ, váy xắn cao cùng những chàng trai quần nâu áo nâu gọn-gàng cũng cắt lúa.
Các cô tay cầm liềm, tay nắm mấy cây lúa, đưa lưỡi liềm cắt lúa kêu soèn-soẹt. Những bông lúa cắt rồi, các cô xếp ngay trên mặt ruộng, khi được thành từng đống, các cô bó lại thành từng con, từng lượm bằng ngay những ngọn rơm ở ruộng lúa. Các chàng trai cũng cắt lúa, cũng bó thành con thành lượm, nhưng các chàng trai sức-vóc khỏe mạnh hơn, các chàng phải bó những con lúa thành từng bó lớn. Rồi người ta chia nhau gánh lúa về nhà. Những chiếc đòn sóc nhọn hai đầu, thọc sâu vào bó lúa và người thợ gặt ghé vai vào nhấc lên để quảy đi một cách nhẹ nhàng.
Trong khi cùng gặt cùng hái, các cô các cậu trò truyện với nhau, tiếng nói vui-vẻ, tiếng cười ròn-rã khiến cho công việc đỡ mệt-nhọc. Thỉnh thoảng một vài cô lại cất giọng hát một vài câu. Tiếng hát như thúc đẩy cho công việc, và khiến cho mọi sự mỏi mệt tiêu-tan:
« Bao giờ cho đến tháng Mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta ».
Cũng có khi các cô hát những câu yêu-đương tình-tứ để nhắn-nhủ người yêu, thì lập tức có những chàng trai đáp lại bằng những câu thật là khả-ái. Đã có nhiều cuộc nhân-duyên bắt đầu bằng những câu hát trong buổi gặt.
Cảnh mùa gặt ở ngoài đồng thật vui. Xen vào những đám thợ gặt có các cô con gái nhà chủ ruộng đi trông nom. Các cô cũng gặt, cũng nói cười và ca hát, thật là bình-đẳng với các anh chị em thợ gặt. Lại còn có những người đi đổi đồng. Đây là mấy người trong làng nhân vụ gặt mang quà bánh, nước nôi ra đổi lấy lúa cho anh chị em thợ đồng.
Đi làm từ sớm, công việc nặng nhọc, trời tháng Mười lại nắng hanh, anh chị em thợ đồng thường đói bụng khát nước. Mấy người đổi đồng đưa quà bánh cho họ ăn, đổi lấy vài con lúa. Việc đổi đồng được các chủ ruộng mặc-nhiên ưng-thuận, miển là anh chị em thợ gặt không ăn uống quá đáng đến đỗi phí phạm mất nhiều lúa đổi.
Nhà Khoan cũng có ít ruộng mùa, nên vụ gặt tháng Mười, Khoan cũng thỉnh-thoảng có mặt tại cánh đồng sau buổi học. Cả Tiệp cũng bận-rộn ở ngoài đồng để trông nom thóc ruộng nhà. Nhờ vậy đôi lúc Khoan và Tiệp lại được cùng nhau trao đổi vài mẩu chuyện, những mẩu truyện tuy ngắn nhưng khiến lòng đôi bên đều vui vui trong khi chờ đợi chính thức cùng nhau như chim liền cánh, như cây liền cành.
Ruộng tốt, lúa nhiều, người dân làng Kim-Đôi yên lòng với vụ gặt. Người thu-hoạch được nhiều nhất về vụ lúa chín nầy là ông bà Chánh-Tổng. Ông bà nhiều ruộng lắm, ruộng đồng nhà lại ruộng ngoại canh.
Thảo được ông bà giao cho việc trông coi gặt hái tại cánh đồng nhà. Thúc cũng luôn có mặt tại cánh đồng với vợ. Chàng hãnh-diện về sự thu hoạch của nhà mình, và có ý dè bỉu khi nói tới Khoan.
Lẽ tất nhiên, cũng có mặt tại cánh đồng Thúc vẫn gặp Khoan cũng như Thảo vẫn gặp Tiệp. Thúc thường tỏ ý coi thường Khoan, nhưng trái lại Khoan không hề bao giờ có một hậu ý gì không tốt đối với Thúc.
Thảo gặp Tiệp ở ngoài cánh đồng thường khéo khoe khoang trong câu chuyện giàu có của gia đình nhà chồng, và nàng kể lại cùng Tiệp cái cảnh sung túc đầy đủ nàng sống với Thúc. Nàng lấy làm tự mãn được lấy chồng giàu. Đôi khi nàng hỏi tới ngày cưới của Tiệp. Bao giờ Tiệp cũng trả lời một câu rất không đâu: « Bao giờ cưới thế nào em chẳng phải mời chị. Chị nhớ mừng em thật sang đấy nhé ».
Với lúa tháng Mười gặt xong là mùa xêu của các chàng rể đã dạm hỏi vợ nhưng chưa cưới. Và cũng là mùa để học-trò mang biếu thày nhân dịp cơm mới.
Gia-đình Khoan cũng đã sắm-sửa đủ đồ lễ để Khoan mang xêu đằng nhà Tiệp.
Đồ lễ tuy đơn sơ, nhưng đủ chứng tỏ sự thành-kính của Khoan đối với ông đồ, vừa là thầy học lại vừa là bố vợ chưa cưới.
Chiều hôm đó, sau buổi học, Khoan cũng người nhà mang tới nhà ông đồ một thúng gạo nếp và hai chục con chim ngói cùng với trầu cau.
Về mùa lúa chín này, chim ngói bay ra rất nhiều, và được người ta dùng làm đồ xêu vào dịp cơm mới.
Người nhà Khoan thưa cùng ông đồ: « Nhân dịp cơm mới, nhà chúng tôi gọi có chút đồ lễ tới xin ông bà Đồ nhận cho để chứng lòng thành của bên ông bà chúng tôi ».
Lẽ tất nhiên ông bà Đồ vui vẻ nhận, nhưng ông vẫn xã giao nói: « Bên đằng ông bà nhà bày vẽ quá. Chúng tôi xin thành-thật cảm ơn ».
Rồi ông đồ nhắc tới việc cưới xin của Khoan và Tiệp: « Chỗ tôi với ông Khóa Hữu thân mật, việc trăm-năm của các cháu chúng tôi dễ-dàng. Nhờ ông về thưa lại với ông bà bên nhà rõ. Chúng tôi muốn cho đôi trẻ sớm phối-hợp, kẻo chúng phải chờ-đợi mãi tội-nghiệp ».
- Ông bà đồ thật quý-hóa quá. Bên ông bà chúng tôi cũng đang tính ngày.
Khi Khoan và người nhà về, mấy bọn học-trò của ông đồ tới. Họ cũng mang biếu ông đồ gạo nếp và chim ngói.
Hằng năm vào những dịp mồng năm tháng năm, rằm tháng tám, cơm mới tháng mười, bao giờ ông đồ cũng nhận được nhiều đồ lễ của học-trò.
Ngày xưa, học-trò đối với thày ân tình rất trọng, không bao giờ họ quên ngày tư ngày Tết của thày. Giàu nghèo họ cũng cố lo có chút ít đồ lễ mang biếu thày vào những dịp tháng năm ngày Tết. Một mình lo không xong, họ chung nhau rủ bạn-bè. Thày dạy học mở trường ngày xưa không lấy tiền học, hàng năm thường chỉ trông vào những đồ biếu sén. Khi còn đi học, học-trò tết biếu thày đã đành, ngay khi thôi học rồi, các học-trò cũng vẫn nhớ ơn thày.
Cha mẹ có công sinh-dưỡng, tác-thành cho mình nên người, ấy chính là công của thày.
Vợ chồng Thúc cũng mang biếu ông đồ gạo nếp và chim ngói như khi còn đi học.
Ông đồ nhận đồ lễ rồi bảo Thúc: « Thày cảm ơn anh. Thày mong anh không giận thày về việc em Tiệp. Chẳng qua cũng là duyên-số. Bây giờ anh lấy con gái ông bà Phong, thày thấy thật là đẹp đôi. Thày mong anh chị loan phụng hòa-minh, bách-niên giai-lão, con đàn cháu đông ».
Thúc chỉ biết vâng dạ. Sự thật, tuy cưới Thảo, nhưng lòng Thúc vẫn mang mang muốn yêu Tiệp.
Thúc vẫn oán ông đồ về chuyện không gả Tiệp cho chàng. Lẽ ra dịp cơm mới này, Thúc đã thôi học, Thúc không muốn trở lại nhà ông đồ nữa, phần vì ngượng-ngùng sợ gặp Tiệp, phần vì nỗi oán-hận của chàng chưa nguôi, nhưng chàng bị ông bà Chánh-Tổng bó buộc phải mang biếu ông đồ gạo và chim.
Ông Chánh-Tổng, tuy hơi không bằng lòng ông đồ ở chỗ không hỏi được Tiệp cho Thúc, nhưng ông lại không muốn bị ai chê cười là không hiểu lễ-nghĩa, nên trong dịp cơm mới ông bắt Thúc phải cư-xử đúng đạo thầy trò.
Thúng gạo nếp, vài chục chim ngói đối với nhà ông có nghĩa-lý gì, nhưng tiếng-tăm bề-thế của ông, đó mới là quan-trọng.
Trước khi Thúc ra về, ông Đồ lại bảo: « Thày gửi nhời về cám ơn ông bà Chánh-Tổng nhé! Năm nay được mùa, chắc đằng nhà gặt hái được bội thóc lúa đấy nhỉ ».
Thúc ra về. Lại vài bọn học-trò khác tới biếu thầy.
Tiệp luôn luôn vất-vả vì phải đun nước pha trà để ông đồ tiếp khách. Đối với bạn học, nàng cũng chạy lên chạy xuống chào hỏi, nhưng riêng khi Thúc tới, nàng đã ở lỳ ở dưới bếp cho tới lúc Thúc ra về.
IIIKhoan vừa bước chân vào tới sân thì Tiệp đã chạy ra đón. Nàng bảo Tiệp: « Thày đang chờ anh ».
- Thế nào thày đã đỡ chưa?
- Bệnh thày vẫn vậy, không thuyên-giảm chút nào. Từ sáng thày đã uống thêm hai bát thuốc của ông lang Thiệu, nhưng bệnh tình thày không thấy khác. Anh vào ngay đi, thày mong anh lắm.
Ông đồ Ngư ốm nặng. Lúc đầu ông chỉ cảm sốt xoàng nhưng không ngờ bệnh một ngày một trọng. Tuổi già, sức yếu, ông tự thấy trong người suy kém nhiều.
Từ ngày ông ốm, đã hơn nửa tháng nay, Tiệp luôn luôn ở bên cha và hàng ngày Khoan tới thăm ông ít nhất hai ba lần. Lớp học ông vẫn mở, Khoan đảm-nhiệm dạy các học-trò nhỏ thay ông, còn các trò lớn đều nghỉ học.
Con trai lớn ông đồ, anh cả Vinh, đang làm việc tại dinh Án-Sát Sơn-Tây, cũng đã về thăm ông, và cũng luôn hầu-hạ chầu-chực ông. Các trò lớn thay phiên nhau tới túc-trực để nhờ ông sai bảo. Các trò cũ được tin cũng nhiều người tới thăm và mang sâm nhung lại để ông dùng.
Trước sự săn-sóc tận-tình của người nhà cũng như của đám học-trò mới cũ, bệnh ông không bớt lại cứ một ngày một tăng.
Ông đã bảo bà đồ và các con: « Tôi biết mình tôi lắm. Tôi cũng đã nhiều tuổi, có được các cụ gọi về cũng phải. Tôi xét đời tôi đã gây dựng được cho nhiều học-trò thành đạt, tôi có nhắm mắt cũng mãn-nguyện lắm rồi ».
Rồi ông lại nói về Tiệp: « Tiệp con, chết đi thày chỉ thương con. Thày sẽ bảo nhà thằng Khoan cưới chạy tang. Lẽ ra đám cưới của con cũng phải được đàng-hoàng. Nhưng số con vất-vã, thày chết đi giữa lúc cuộc nhân-duyên của con sắp hoàn-thành ».
Ông quay lại bà đồ và cả Vinh: « Bà cho nhà trai cưới chạy tang để con chúng ta khỏi phải chờ đợi. Nhà thằng Khoan nghèo, nhưng nó là người có tư-cách. Vinh con sau này phải giúp đở các em ».
Ông lại nhắc tới thằng Mẫn: « Thằng Mẫn nó còn nhỏ dại. Phải cho nó đi học cho đến lớn. Thằng Khoan sẽ trông nom cho nó ».
Bà đồ bảo chồng: « Ông cứ yên-tâm nằm nghỉ đi, thuốc thang rồi ông sẽ khỏi hơi đâu mà nghỉ truyện đường xa ».
Tiệp ngấn lệ long-lanh trên đôi mắt, nói: « Xin thày cứ nằm nghỉ, ngày một ngày hai thày sẽ bớt dần ».
Vinh cũng nói: « Thày đừng lo nghĩ điều gì cả. Chúng con lớn cả rồi. Chúng con biết thương yêu nhau ».
Ông đồ bảo: « Thày hiểu lắm. Thấy các con thương yêu nhau thày rất mừng, thày biết mình có lẽ khó qua khỏi bệnh này, nhưng thày cũng sung-sướng nhắm mắt, vì chẳng thọ thày cũng đã già. Các con phải nghe lời thày dặn bảo. Thày chết đi các con phải đối với mẹ con cho hiếu kính và anh em phải hết sức thương nhau, đùm-bọc với nhau, đừng bao giờ vì lợi ghẻ-lạnh nhau ».
Rồi ông đồ hỏi tới Khoan: « Thằng Khoan chưa tới à? »
Tiệp đáp: « Từ sáng anh ấy đã có ở đây hai lần, có lẽ anh ấy cũng lại sắp tới nữa ».
Ông đồ nói: « Thày thương nó lắm! Nó chỉ phải cái nhà nghèo, chứ nó thực xứng đáng làm rể thày. Tư cách nó khá, đạo-đức nó hơn người ».
Chiều hôm đó Khoan tới. Gặp Tiệp ở ngoài sân, Khoan hỏi thăm ngay đến bệnh tình của thày học. Ông đồ ốm, Khoan cũng lo lắng. Ông đồ có mệnh-hệ nào, thật là một điều đau-đớn cho Tiệp ; và cho cả chính Khoan. Chàng biết ông đồ thương mình và muốn gây dựng cho.
Ông đồ đang thiu-thiu nằm ngủ. Gian buồng đóng cửa tối mờ-mờ. Chiếc màn nâu buông hai cánh thõng nửa chừng, móc lên hai móc màn, khẽ rung-rung khi Khoan mở cửa buồng bước vào. Trên chiếc ghế kê ở đầu giường có bát thuốc ông đồ vừa uống hết.
Trông ông đồ gầy lắm, gầy trơ xương dưới bộ quần áo lụa mỏng. Ông thở nhè nhẹ.
Khoan đứng lặng ngắm ông ngủ. Chàng không dám đụng mạnh vì chàng biết mỗi phút ngủ được đối với người ốm là một phút hay. Ông đồ nằm nghiêng quay mặt vào trong tường lưng hơi cong-cong, chân nọ đè lên chân kia.
Có lẽ đã lâu, Khoan cứ đứng lặng ngắm ông đồ nằm ngủ như vậy. Tiệp thấp-thoáng ở ngoài cửa buồng. Khoan ra hiệu cho nàng biết ông đồ đang ngủ không nên đánh thức.
Chợt ông đồ trở mình rồi ho mạnh một tiếng. Sau tiếng ho mạnh tiếp một cơn ho kéo dài.
Chưa kịp nhìn thấy Khoan, ông gọi Tiệp: « Tiệp cho thày hớp nước ».
Tiệp ở ngoài cửa buồng chạy vào, rót nước đưa ông đồ uống. Lúc đó ông mới để ý tới Khoan đứng ở đầu giường.
Ngẩng đầu lên uống xong hớp nước, ông đồ lại nằm xuống. Ông ra hiệu cho Khoan lại gần giường nghe ông nói.
Khoan ghé lại bên, ngồi trên một chiếc ghế đẩu ở ngay cạnh giường, cúi sát người xuống ông đồ. Ông đồ bảo: « Khoan ạ, thày thấy mình yếu lắm rồi, khó qua khỏi lắm. Việc của con thày đã dặn đẻ và anh Vinh con. Con nói với các cụ lo cưới chạy tang để các con khỏi chờ-đợi. Sau khi ma chay thày xong, con giữ lấy lớp học của thày dạy bảo các em. Học lực của con cũng đã khá, có thể vừa dạy học vừa tự học để chờ khoa thi. Con trông nom em Mẫn cho thày ».
Lời ông đồ nói trầm trầm đều đều, không có vẻ gì là buồn, giọng rất chân-thật, đúng với lòng ông vẫn thương Khoan xưa nay.
Mọi việc Khoan đều vâng dạ, và hứa sẽ tận-tụy trông nom Mẫn.
Nói một hồi, ông đồ mệt lại ho, sau cơn ho ông lại bảo Khoan rót cho mình hớp nước. Uống xong hớp nước, ông nằm nghỉ để thở.
Trong lúc ông nói chuyện với Khoan, Tiệp vẫn thập-thò ngoài cửa buồng. Mắt nàng luôn luôn dưng-dưng ngấn lệ.
Một lát sau một số đông các học-trò kéo nhau tới thăm, trong số đó có cả Đáp. Thấy họ kéo nhau vào, Khoan ra hiệu bảo họ im lặng để ông đồ nằm nghỉ, nhưng bước chân dù nhẹ nhàng của họ cũng đủ làm cho ông đồ mở mắt nhìn ra. Ông đưa tay ra hiệu vẫy họ lại gần.
Họ kéo nhau lại đứng khoanh tay bên giường. Ông đồ nói: « Các con đến thăm thày tốt lắm. Thày chắc không sống được nữa đâu. Thày khuyên các con cố gắng học-hành để mai sau trở nên những người hữu-ích. Thầy chết đi, lớp học của thày sẽ do anh Khoan đây thay thày dạy-dỗ các con ».
Ông đồ lại bảo mấy anh học-trò lớn.
Còn các con đã lớn, học-lực đã khá, các con có thể đi học thêm với một thày đồ khác, hoặc các con có thể họp nhau lại với anh Đáp, anh Khoan cùng nhau học-tập, ôn luyện văn bài đợi khoa thi.
Anh em học trò đứng yên lặng nhìn thày, không ai có một cử chỉ nào.
Đáp thay mặt tất cả anh em nói: « Thưa thày, chắc là thày yếu đau ít bữa rồi đây thày sẽ khỏi. Chúng con đội ơn thày nhiều lắm, những lời thày dạy chúng con xin ghi xương khắc cốt ».
Ông đồ mỉm cười, một nụ cười héo-hắt trên một khuôn mặt gầy guộc, ông bảo: « Thày biết bệnh của thày. Các con cầu mong cho thày bình-phục đó là lòng quý-mến thày. Thày rất cảm động. Sinh ký, tử quy, trong cuộc sống gửi trên trần-thế, gây dựng được cho các con, thày mãn-nguyện lắm. Nay gần nhắm mắt, lại có các con ở cạnh thày càng vui mừng, sung-sướng hơn. Sau này các con nhớ thương yêu nhau, coi người hơn tuổi như anh, người kém tuổi như em, làm sáng tỏ nền đạo-đức, thày ở dưới suối vàng cũng thỏa dạ ».
Nói mệt ông lại nghỉ, rồi ông lại nói. Tình thày trò thật là thâm trọng. Trông thấy lũ học-trò ông cũng ham sống để dạy bảo thêm, nhưng sinh tử có mệnh, ông chỉ đành theo định số.
Học-trò có người dơm-dớm lệ trước những lời ân-cần của thày. Không lúc nào bằng lúc này, họ cảm thấy ông đồ thương họ lắm.
Nhưng rồi bọn học-trò cũng rút lui để thày nằm nghỉ. Và Khoan cũng trở ra. Trong gian buồng mờ mờ tối chỉ còn ông đồ nằm một mình thở nhè nhẹ trong một giấc ngủ không say.
Tiệp vẫn luôn luôn túc trực ở ngoài cửa buồng. Bà đồ tuy bận công việc nhà nhưng lát lát lại vào thăm ông và hỏi Tiệp về bệnh-tình của ông.
Đến giờ uống thuốc, bà đồ và Tiệp vào đánh thức ông đồ dậy. Ông đồ có vẻ mỏi-mệt hơn trước, không muốn uống nhưng nể vợ và thương con ông lại cố uống cho hết bát thuốc.
Trong làng nhiều bạn-bè tới hỏi thăm, nhưng bà đồ và Vinh chỉ tiếp ở nhà ngoài, trừ những người nào rất thân-mật bà đồ mới để vào buồng ông đồ. Gặp lúc ông đồ ngủ mệt thì người đó cũng chỉ rón-rén đến cạnh rồi lại lui ra.
Bệnh tình ông đồ ngày một trầm-trọng, không chút thuyên-giảm.
IVThuốc thang không chuyển, bệnh ông đồ càng nặng hơn cho đến một buổi chiều. Ông cho gọi hết vợ con trong nhà lại để ông trối-trăng lời cuối cùng. Lúc ấy ông thấy tỉnh vô cùng, không mơ hoảng li-bì như mọi ngày. Ngọn đèn sắp tắt, vụt lên sáng tỏ, người ta sắp chết cũng trở nên sáng-suốt.
Bà đồ, vợ chồng Vinh, Tiệp, Mẫn và cả Khoan nữa đã có mặt đủ bên giường ông đồ. Gian buồng mờ tối. Ông đồ bảo Tiệp mở cửa rộng cho sáng. Ông nói: « Nằm mãi trong bóng tối người đâm mê sảng. Hôm nay thày tỉnh, mở cửa cho thày nhìn thấy ánh-sáng ngoài trời lần cuối cùng ».
Cửa mở ra, trông ông đồ gầy đét, da bọc xương, nước da đen sạm, không còn sinh khí.
Ông thấy bà đồ nước mắt ràn-rụa đứng ngay sát bên giường nhìn ông. Ông lắc đầu thương hại vợ. Ông lại đưa mắt nhìn các con, các con đều có ngấn lệ trên má.
Ông bảo bà đồ: « Làm gì bà phải khóc. Sống chết có mệnh, sinh ký tử quy có ai mà sống mãi được đâu. Bà nên giữ-gìn sức-khỏe kẻo lại đau ốm thì khốn. Và các con nữa, cũng đừng khóc làm chi. Thày biết các con thương thày, nhưng trước số-mệnh các con có khóc cũng chẳng ích gì. Hôm nay thày tỉnh táo, có mặt đủ các con đây và mẹ các con, thày sung-sướng, thày chết đi, các con hãy nhớ lấy những lời thày đã dặn. Hôm nay thày muốn bảo thêm các con phải ăn ở với xóm giềng làng nước cho đứng-đắn, có nhân-nghĩa có thủy-chung đừng để cho ai chê cười. Còn anh Khoan, anh nhớ trông nom em Mẫn cho thày, và anh nên giữ lấy lớp học của thày ».
Rồi ông tự đặt lấy tên hèm là Thái Thụy: « Tên hèm còn gọi là tên thụy hoặc tên cúng cơm, tức là tên người ta đặt cho người chết, hoặc người sắp chết tự đặt lấy. Trong trường hợp hấp-hối người chết không còn tỉnh-táo hoặc không còn đủ sức để nói rõ ý muốn của mình thì người nhà đặt cho một tên hèm và nói cho người hấp-hối hay. Tên hèm này sẽ được khấn tới trong tang lễ cũng như trong những ngày giỗ ngày Tết hàng năm ».
Đặt xong tên hèm cho mình, ông đồ nói với bà đồ: « Việc ma chay của tôi bà liệu tùng-tiệm cho đỡ tốn. Nếu các môn sinh muốn, họ sẽ góp nhau làm ma, còn nếu không bà đừng nên xa-xỉ. Để tiền cho các con. Con chim sắp chết kêu lên tiếng đau thương, con người sắp chết bao giờ cũng nói lời nói phải. Những điều tôi nói, bà và các con phải nghe ».
Bà đồ mắt vẫn ràn-rụa lệ rơi nhìn chồng gật đầu và lũ các con cũng đều vâng dạ trước mọi lời trăng-trối của ông đồ.
Bỗng ông đồ bảo: « Thôi bà ở lại tôi đi! Các con ở lại thày đi. Ông lim dim nhắm đôi mắt yếu ớt lại. Bà đồ và Tiệp òa khóc ra tiếng ».
Nghe tiếng khóc của vợ và con, ông đồ lại mở mắt ra và nhắc lại: « Tôi đã bảo bà và các con đừng khóc để tôi đi cho được yên-tâm ».
Ông bảo Vinh: « Con sờ chân thày mà xem, lạnh tới đầu gối rồi ».
Vinh đưa tay sờ đầu gối ông đồ quả nhiên cả hai bên đều lạnh ngắt. Sự lạnh cứ lên dần-dần, lên tới đâu ông đồ biết tới đó.
- Lạnh tới bẹn!
- Thày chết tới bụng!
Lạnh tới đâu người chết tới đó. Trong lúc đang chết ông đồ vẫn sáng-suốt. Ông hết đưa mắt nhìn bà đồ lại nhìn sang các con: « Thày chết quá bụng rồi! »
Sau đó, ông không nói được nữa. Mắt ông vẫn mở. Ông nhìn bà đồ lưu-luyến, nhìn lũ con âu-yếm, nhất là nhìn Tiệp và Mẫn.
Bỗng môi ông nở một nụ cười như để chào vợ rồi đôi mắt ông nhắm nghiền lại.
Ông đã chết hẳn. Vinh thắp một nén hương kề khói vào mũi ông, không thấy khói hương lay động gì nữa, chứng tỏ rằng ông đồ đã tắt thở.
Vinh bảo mẹ: « Thày đã đi hẳn! »
Bà đồ gào khóc! Tiệp cũng khóc òa lên, cả vợ Vinh cũng khóc.
Vinh ra hiệu cho mẹ, vợ và em nín khóc. Chàng cùng Khoan khiêng ông đồ từ trên giường đặt xuống đất. Hành động này của thân nhân có ý hi vọng rằng sinh khí rải-rác trên mặt đất sẽ hồi-sinh người chết.
Đặt ông đồ nằm dưới đất giây lát thấy không có triệu chứng gì của sự hồi-sinh, Vinh và Khoan lại khiêng ông đồ đặt lên giường như cũ.
Liền đó, Vinh sai người nhà lấy một chiếc áo dài của ông đồ vẫn mặc, leo lên mái nhà, gọi ba hồn bảy vía 2 đích danh ông đồ ba lần rồi lại leo xuống.
Người Việt-Nam tin rằng người chết hồn vía chưa đi xa, còn lẩn quất quanh nhà nhớ thương con cháu, nên khi có người mang chiếc áo lên mái nhà gọi hồn vía người chết, hồn vía có thể nhập vào chiếc áo để trở lại vào thân xác.
Người nhà leo xuống, mang chiếc áo dài vào, nhưng hồn vía ông đồ vẫn không trở lại xác. Ông đồ đã chết hẳn.
Bà đồ gào thét gọi tên ông, Tiệp và vợ Vinh cũng khóc-lóc gọi cha. Xưa nay, người ta vẫn tin người chết có khi sống lại, nếu người nhà, nhất là vợ con khóc lóc kêu gào. Tình thương vợ nhớ con đã khiến cho người chết không thể dứt tình đi hẳn.
Trong những trường hợp người chết bất-đắc-kỳ-tử, chết sông, chết đò, chết đạn lạc, tên bay, khi có cha mẹ anh em hoặc con cháu tới nhận xác thường trào máu ra miệng. Linh cảm thiêng-liêng giữa tình máu-mủ ruột thịt đã khiến có sự trào máu đó.
Bà đồ khóc, vợ Vinh kêu gào, Tiệp vừa lạy xác ông đồ vừa gọi, người nhà đứng quanh đều rơm-rớm lệ, nhưng ông đồ vẫn không hồi lại.
Vinh bảo mẹ: « Thôi, đẻ đừng khóc-lóc quá nữa! Thày con đi hẳn rồi ».
Ông đồ đi thật. Số mệnh của ông đã đến ngày phải về bên kia thế giới cùng tổ-tiên.
Bà đồ bảo Khoan: « Thôi thày đã đi hẳn rồi, anh nhớ lời thày dặn về nói với các cụ bên nhà lo cưới chạy tang trước khi phát phục ».
Cưới chạy tang tức là đám cưới cử hành trước đám tang. Đấy là một tục-lệ cổ-truyền để cho đôi trai gái có thể kết hôn với nhau, không phải đợi mãn tang người chết. Trong trường-hợp này, người chết được coi như vẫn còn sống, và hôn-lễ tuy được cử-hành giản-dị hơn, nhưng đối với người chết nằm đấy, phải dùng những lễ nghi như đối với người còn sống.
Nghe lời bà đồ, Khoan vội-vã về nhà lo việc cưới chạy tang.
Cưới là một việc vui mừng, nhưng cưới chạy tang, mọi lễ-nghi được giảm bớt rất nhiều, và do đó sự cưới xin cũng cử-hành rất mau lẹ. Sự kén chọn ngày cũng bớt cẩn-thận. Người ta chỉ cốt làm sao cho đám cưới mau xong để còn lo tới đám tang.
Với đám cưới, Tiệp sẽ được gần Khoan. Tuy nhiên nàng cũng đau-đớn trước cái chết của cha. Phải chi cha nàng còn sống, đám cưới không linh-đình cũng tấp-nập, có phải cha nàng cũng vui-vẻ và nàng cũng sung-sướng không.
Trong lúc Khoan ra về, tại nhà ông đồ, Vinh và người nhà lo tắm rửa thay quần áo cho ông đồ.
Tiệp đã đem nồi nước vị-hương thơm phức để lau mình cho cha, và sau đó, bà đồ đích thân mặc cho ông đồ bộ quần áo đẹp nhất xưa nay ông đồ vẫn ưa mặc.
Theo đúng tục lệ, Vinh khẻ cậy mồm cha để đặt vào một nhúm gạo nếp và ba đồng tiền, tượng trưng cho thức ăn của người chết và tiền đò để qua Cửu-tuyền về bên kia thế giới. Sau đó một tấm giấy bản được phủ lên mặt ông đồ.
Việc phát phục, phải đợi lễ chiêu-hồn và lễ chiêu-hồn chỉ thực-hiện sau đám cưới chạy tang của Tiệp.
Vì chưa phát phục nên người nhà dù có thương xót cũng chỉ khóc dấm-dút, không dám khóc to. Đối với làng nước, ông đồ vẫn được coi như còn sống, tuy với lễ cưới chạy tang của Tiệp ai cũng biết là ông đồ đã chết.
Tiệp thương cha vô cùng. Nàng khóc sưng cả đôi mắt. Từ bé nàng vẫn được cha mẹ thương chiều, và chưa bao giờ nàng phải xa cha mẹ. Nỗi sinh ly nàng chưa biết, nhưng nay nàng đau-đớn biết bao nhiêu với câu tử-biệt.
Bà đồ báo tin ông đồ mất cho mấy người em ông đồ và em bà để nhờ họ đi sắm sửa đồ ma chay.
Bà buồn, nhưng tuân lời ông đồ lúc lâm-chung, bà bình-tĩnh lo việc ma chay. Bà nhờ người này chạy đi khai tử, xin phép làng để động-thổ đào huyệt, nhờ người kia lo mua bán trầu cau rượu gạo cần-thiết cho một nhà đám. Lại còn việc đặt nhà táng, minh-tinh, lo mua sô gai vải bố để liệm cũng như xé khăn cho con cháu sau khi phát phục.
VĐám cưới của Khoan và Tiệp đã cử hành rất dản dị và cũng rất mau chóng. Họ nhà gái chỉ mong đám cưới cho xong để còn lo việc chiêu-hồn cho ông đồ và phát tang.
Lễ cưới cũng đơn sơ. Nhà gái không đòi hỏi gì ở nhà trai ngoài lễ cúng gia-tiên, lễ gửi các nhà thờ họ và một ít cân chè để chia cho bạn bè thân quyến.
Nhà ông Chánh-Tổng cũng nhận được trầu cau chia. Ông cười hà hà bảo người nhà: « Bay xem, con ông đồ Ngư, giá lấy thằng Thúc nhà này có phải đám cưới linh-đình không. Bây giờ lấy thằng cháu Khóa Hữu, cưới chạy tang lúi-sùi như con nhà bách-tính! Cho đáng kiếp! Nhà thằng Khoan nghèo rớt mùng tơi, con ông đồ về làm dâu nhà ấy tha hồ vất-vả. Rồi bay sẽ thấy, nó sẽ ao ước số phận của nhà Thúc! »
Thúc cũng bảo Thảo: « Em đi đưa dâu đám cưới con Tiệp không? Đám cưới long-trọng nhỉ? »
Thảo cười nhìn chồng rồi nói: « Mình riễu người ta làm gì! Duyên ai phận nấy chứ. Thày đồ chẳng may mất đi, chị Tiệp mới phải lấy chồng cưới chạy tang! »
- Em muốn binh con ấy hay sao? Có dịp anh sẽ cho vợ chồng nó biết tay!
Người làng được tin ông đồ mệnh chung, Khoan cưới Tiệp chạy tang đều có vẻ ái-ngại. Có người nói: « Số cô Tiệp thế mà vất vả! Một đời người mới có một lần lấy chồng lại cưới chạy tang ».
Người khác nói theo: « Rồi ra cô ấy sẽ vất-vả suốt đời. Cái trò cưới chạy tang thường không tốt đẹp ».
Lại có người nói: « Các ông bà chỉ bàn nhảm! Cốt vợ chồng người ta thương yêu nhau thì thôi. Hạnh-phúc sung-sướng ở đời đều do mình tạo lấy hết. Vất-vả về đường vật-chất có hại gì! Sung-sướng về tinh-thần mới thật là sung-sướng ».
Lúc Khoan dẫn lễ cưới tới nhà gái, lễ cưới được cử-hành như thường lệ, nhưng không có trẻ nhỏ chăng giây và cũng không có đốt pháo. Cưới chạy tang, trong nhà người chết còn nằm đó, ai lại đốt pháo.
Sau khi Vinh thắp hương để Khoan lễ gia tiên, cả Khoan lẫn Tiệp đều tới lễ trước thi hài ông đồ như lễ người còn đang sống. Sau đó, đôi vợ chồng lạy mừng bà đồ.
Lễ mừng trong đám cưới có ý nghĩa rất đẹp. Người con gái lễ cha mẹ để đền ơn sinh dưỡng. Cha mẹ nuôi nấng mình nên người, nay ra đi làm dâu con nhà khác phải có lễ mừng trước để tạ ơn. Còn chàng rể lễ bố mẹ vợ cũng cốt để tạ ơn cha mẹ vợ đã gây dựng nuôi nấng cô dâu. Khi cô dâu về nhà chồng cũng lễ bố mẹ chồng với ý nghĩa xin từ nay được làm dâu con trong nhà. Và chính chàng rể cũng phải lễ bố mẹ mình trước khi đi rước dâu để đền bù lại công sinh-dưỡng.
Lễ mừng ông bà đồ xong, mấy người em họ Tiệp đưa Khoan đi lễ vài nhà thờ chính trong họ. Việc lễ nhà thờ này coi như một sự trình diện của chú rể với tổ tiên họ hàng nhà vợ.
Ngày cưới là ngày vui mừng, nhưng Tiệp buồn rười-rượi. Nổi vui sướng của ngày vu-quy không át nổi sự đau-đớn mất cha! Nàng yêu chồng, nhưng nàng lại rất thương cha.
Bà đồ nhìn con thương hại. Bà tự nghĩ thấy ái-ngại số phận kém may mắn của con. Ngày vui mừng nhất đời của con lại chính là ngày sắp chôn người cha yêu dấu.
Sau những cuộc lễ theo đúng tục lệ tại nhà gái, nhà trai xin đón Tiệp về để giữ đúng phép cưới. Cuộc đón dâu cũng vội-vàng hấp-tấp như cuộc đưa rể.
Lại lễ gia-tiên nhà chồng, rồi đến lễ mừng bố mẹ chồng.
Nhà trai, tuy là cưới chạy tang, nhưng vì đám tang về nhà gái, nên có mời họ hàng thân thuộc tới dự lễ cưới. Trong nhà cũng có vẻ tấp-nập nhộn-nhịp.
Lúc cô dâu tới nhà chồng, bà mẹ Khoan vội vàng xách ông bình vôi lẩn sang nhà hàng xóm trong một lát. Hành động này theo đúng cổ-lệ, người vợ là nội tướng trong gia-đình và bình vôi tượng-trưng cho căn bản của gia-đình. Khi cô dâu mới tới, bà mẹ chồng lánh mặt đi với bình vôi có ý nghĩa là nội tướng cũ nhường quyền cho nội tướng mới, vì thường khi có nàng dâu, bà mẹ chồng giao việc quán-xuyến nhà cửa cho nàng dâu. Trách-nhiệm của cô dâu thật là nặng-nề, lấy chồng gánh vác giang sơn nhà chồng.
Trong lúc mẹ Khoan lánh mặt đi thì đám rước dâu đi vào trong nhà. Một chiếc hỏa-lò hông lửa đặt ngay trước cửa ra vào. Tiệp phải bước qua chiếc hỏa lò đó, để những tà ma ám ảnh nàng sẽ bị đốt trừ hết.
Sau khi lễ gia tiên xong, thân mẫu Khoan cũng đã ở bên hàng xóm trở về để cùng chồng nhận lễ lạy mừng của Tiệp.
Nhà trai làm cổ mời nhà gái, trong khi cô dâu được đưa đi lễ các nhà thờ họ.
Tiệp như cái máy làm theo sự điều-khiển của mọi người. Nàng không nghĩ gì cả. Phải chi lễ cưới được cử-hành trước khi ông đồ thở hơi cuối cùng có phải tưng-bừng nhộn-nhịp bao nhiêu không. Thôi, âu là tại số!
Ngay buổi chiều hôm đó, Khoan và Tiệp liền trở lại nhà ông đồ để dự lễ chiêu-hồn phát phục của ông.
Lần này, Khoan và Tiệp đi cạnh nhau. Trước pháp-luật cũng như trước tôn-giáo, đôi bên đã thành vợ thành chồng.
Vài người làng thấy vợ chồng Khoan đi qua chỉ trỏ bàn-tán: « Cậu Khoan và cô Tiệp thật đẹp đôi, trông xứng với nhau quá. Ấy thế mà phải cưới chạy tang cũng đáng tiếc ».
- Cậu Khoan nhà nghèo, cô Tiệp lấy cậu ấy sẽ vất-vả. Biết đâu cưới chạy tang chẳng biến-đổi nổi số phận của hai người.
Có người nói: « Cậu Thúc con ông Chánh-Tổng mê cô Tiệp lắm đấy. Không lấy được cô Tiệp cậu ta mới lấy cô Thảo con ông Phong ».
Lại có người tiếp: « Tự nhiên cô Thảo sung-sướng thêm. Con nhà giàu lại lấy chồng giàu ».
Vợ chồng Khoan đang đi thì gặp Hoài. Hoài chào hai người và nói: « Em và mấy chị cũng được tin anh chị làm lễ thành-hôn, nhưng rất tiếc không được đến mừng anh chị. Rồi Hoài hỏi thăm về lúc ông đồ qua đời cùng việc ma chay ».
Tiệp nói: « Lúc mất thày tôi tỉnh lắm. Thày tôi có trối-trăng lại chúng tôi phải cưới chạy tang. Cũng là số mệnh của chúng tôi, lấy nhau không được đàng-hoàng nên không được mời các anh các chị ».
Khoan nói: « Ấy thế mà anh Đáp cũng tới mừng tôi và đóng vai phù rễ để đi đón dâu đó ».
Vừa nói Khoan vừa nhìn Tiệp tủm-tỉm cười, Tiệp cũng gượng cười theo chồng.
Khoan lại nói thêm: « Việc cưới xin của chúng tôi đã xong, giờ đây tôi đưa nhà tôi trở lại bên nhà để lo việc chiêu-hồn và phát phục ».
Hoài nói: « Em và các anh chị khác cũng đã định tới để giúp đỡ cô trong việc tang thày, nhưng vì còn vướng lễ cưới của anh chị ».
Tiệp đáp: « Bây giờ chúng em về để dự lễ chiêu-hồn thày em. Rồi sau đó là lễ phát-phục. Đẻ em và người nhà cũng đã lo sắm-sửa đủ mọi thức cần dùng rồi ».
Khoan và Tiệp từ giã Hoài nhưng Hoài đi theo họ đến tận nhà. Hoài cho họ biết là các bạn-bè nhiều người ái-ngại cho Tiệp và họ đều rất mến tiếc ông đồ.
Thực ra thì khi ông đồ ốm, học-trò cả mới lẫn cũ đều đã lũ lượt tới thăm thày và khi họ được tin ông đồ mất, họ đã cắt cử người tới hầu hạ thường-trực, và họ cũng đã trù-tính việc tham dự tang lễ.
Tình thày trò xưa nặng như tình cha con. Thày chết trò phải để tang trong lúc đi đưa. Các môn-sinh phải cắt nhau tới chầu-trực tại đám tang như con cháu trong nhà.
Khi vợ chồng Khoan và Hoài tới nhà, trong nhà đang đông khách-khứa tới hỏi thăm chia buồn. Bà đồ tiếp khách với đôi con mắt mọng lệ. Các con cháu ông đồ đều túc-trực sẳn để dự lễ chiêu-hồn.
Một pháp sư đã được mời tới để cầm đầu đám tang.
Lũ học-trò ông đồ cũng có mặt rất đông, trong số đó có cả Thúc lẫn Thảo.
Vợ chồng ông Chánh-Tổng cũng đã tới hỏi thăm chia buồn.
Ông Chánh-Tổng tuy không hài-lòng với ông đồ về việc hôn-nhân của Thúc, nhưng là kẻ cả trong hàng tổng, ông luôn luôn tỏ ra mình có một thái-độ đứng-đắn. Tới chia buồn cùng bà đồ và vợ chồng Vinh, ông Chánh-Tổng săn-đón hỏi-han đủ mọi việc và sẵn-sàng giúp đỡ tang gia bất cứ về phương diện gì.
Trong lúc ông đồ ốm, không những ông bắt vợ chồng Thúc phải luôn luôn thăm nom, chính vợ chồng ông cũng đã tới thăm và thường mua quà biếu.
VICó hai cách chiêu-hồn 3. Thày pháp có thể niệm chú chiêu-hồn người chết qua một tuần hương để hồn nhập vào một tàu chuối cắt thành hình người, nhưng đối với ông đồ, người nhà đã xin thày pháp làm phép « chiêu-hồn bạch ». Thày pháp đắp trên mặt ông đồ một tấm lụa trắng dài 7 thước ta 4 rồi khấn-khứa để hồn vía người chết nhập vào. Tấm lụa trắng được tết nhang-nhác hình người và sẽ được thờ tại linh-sàng.
Lễ chiêu-hồn ông đồ đã xong. Ông thày đã bấm giờ lâm-chung của ông đồ để biết ông đồ có bị nặng giờ không. Ông đồ đã may-mắn chết vào giờ lành, không bị các ác thần ám-ảnh lại còn được hai cái nhập mộ, tức là chết nhằm giờ có linh thần phù hộ để giữ-gìn chống thần trùng cho người chết.
Theo quan niệm của người Việt-Nam và người Trung-Hoa người chết có thể gặp giờ xấu bị thần trùng tới tra-khảo để bắt chết thêm người nhà, nhất là vợ con, hoặc được những giờ tốt các thần linh phù-hộ, không sợ bị thần trùng.
Những người bị thần trùng ám, thường thần này tra khảo tại mộ bắt chỉ cho con cháu. Muốn trị thần trùng phải có pháp-sư làm bùa phép cúng. Ông đồ không bị nặng giờ, con cháu đều mừng.
Sau lễ chiêu-hồn tới lễ khâm-liệm.
Tự tay Vinh quấn vào người ông đồ một tấm vải trắng dài suốt từ cổ tới chân. Trong lúc liệm, thày pháp cũng khấn vái để vong-hồn người quá cố được rõ.
Liệm xong là lễ nhập-quan. Lễ nhập-quan rất quan-trọng. Cả gia đình đều có mặt tại lễ này. Bà đồ và các con khóc-lóc thảm-thiết. Đã nhập-quan, người nhà không còn được nhìn mặt ông đồ nữa. Từ đây thật là vĩnh-biệt. Tiệp sấn tới bên thây cha lăn-lộn khóc-lóc. Nàng như cố muốn níu lấy hình dáng của cha già để ghi trong tâm-khảm lần cuối cùng. Rồi đây tiềm thức của nàng sẽ luôn luôn có bóng người cha thân mến.
Lũ học-trò ông đồ cũng tham-dự lễ nhập-quan. Các cô học-trò cũng khóc-lóc như Tiệp. Tình thày trò sâu nặng, thày còn hơn cha.
Lễ nhập-quan xong, người nhà và bọn học-trò ông đồ chia nhau canh gác áo quan. Chiếc áo quan của ông bằng gỗ vàng tâm, sơn son thiếp vàng do chính ông đồ đã sắm từ trước.
Đó là một tục lệ lo xa của người Việt. Mỗi khi tới tuổi già thường tính đến ngày về cõi chết, và thường sắm sẵn bộ áo quan mà các cụ gọi là cỗ thọ.
Trong áo quan có lót một lượt chè mạn thơm. Chè này dùng để ướp xác người chết, giữ cho xác lâu phân chất, và khỏi tỏa ra mùi hôi-hám.
Xác ông đồ được người nhà khiêng đặt vào trong áo quan, trong khi thày pháo niệm chú khẩn-khừa.
Người nhà cho đặt vào áo quan tất cả những đồ dùng thường nhật của ông đồ: quần áo, sách vở, kính, giày v.v… Ngoài ra, thày pháp lại lấy một cổ tổ-tôm rắc lên khắp người ông đồ trước khi nắp áo quan đóng lại. Theo sự tin-tưởng cổ tổ tôm có thể trừ được tà ma.
Áo quan đã đậy nắp. Một bát cơm bông đặt trên nắp áo quan: đấy là một bát cơm thật đầy, có một quả trứng luộc bóc vỏ để trên. Một thanh que tre nhỏ, một đầu được vót dua như một bông hoa cắm qua quả trứng thấu tới bát cơm.
Sau lễ nhập-quan là lễ thành-phục. Nhiều nơi, người ta chiêu-hồn người chết, làm lễ nhập-quan rồi, nếu có con cháu cần cưới chạy tang, lễ cưới mới cử hành. Lễ cưới chỉ cần xong trước lễ thành-phục tức là lễ phát phục, nói nôm là lễ phát tang. Nếu đám cưới không kịp cử hành trước lễ phát tang, đôi trai gái phải chờ cho đoạn tang mới được lấy nhau.
Bà đồ khóc-lóc kể-lể thảm-thiết, ôm lấy áo quan kêu gào, rồi lăn-lộn bên cạnh. Các bà con xúm nhau khuyên-giải nhưng nỗi đau đớn của bà phải đâu mỗi lúc vơi được ngay. Bà vẫn khóc. Mắt bà sưng mọng lên.
Tiệp cũng thương cha. Nàng cũng ôm lấy quan tài. Nàng không kêu gào nhiều, nhưng nhìn nàng người ta biết nàng đau-đớn.
Từ bé, luôn luôn ở cạnh cha mẹ, nay mất cha, tuy còn mẹ, nhưng nàng cũng vẫn thấy thiếu-thốn sự trìu-mến nghiêm-khắc, chỉ còn lại sự trìu mến dịu dàng.
Khoan tìm lời an-ủi, nhưng an-ủi nào làm nguôi cho ngay được nỗi đau tử biệt.
Vợ Vinh cũng khóc, nhưng khóc rất lớn và kể-lể rất dài. Nàng tuy có thương cha chồng, nhưng đau-đớn sao bằng bà đồ và Tiệp. Nàng phải khóc theo tục-lệ tang-chế của Việt-Nam, nhưng vì không thấy thấm thía sự xót thương, cho nên trong tiếng khóc, nàng phải lấy lời kể-lể thay vào sự bi ai buồn thảm.
Họa cùng tiếng khóc của mấy mẹ con bà đồ, có những tiếng khóc và lời than của các chị em ông đồ bà đồ, của bà cô bà thím họ hàng xa gần và của cả các cô học trò vẫn được ông đồ thương mến.
Kể từ lúc nhập quan, người nhà phải luôn luôn có người ngồi cạnh để canh chừng không cho một sinh vật nào nhẩy qua. Người ta tin rằng, nếu người chết đặt nằm một chỗ, chẳng may có một con vật nào nhẩy qua như con mèo, con chuột hoặc bất cứ một con gì, người chết có thể bị quỷ-nhập-tràng, nghĩa là bừng sống lại, nhưng đây không phải là hồn người trở lại, mà chính là hồn quỷ sẽ nhập vào xác người. Trong trường hợp này phải có thày pháp cao tay mới ếm bùa trị nổi.
Người nhà họ hàng bà đồ đông, lại thêm học-trò ông đồ cũng nhiều, nên luôn luôn có người ở cạnh áo quan.
Một ban nhạc đám đã được mời tới để thổi kèn đám tang.
Giọng kèn « tò e tí ỏi » dài dài buồn buồn bắt đầu vang lên theo tiếng khóc kể từ lúc tang gia có lễ phát-phục, tức là lễ phát quần áo khăn tang cho con cháu.
Khi ông đồ vừa nằm xuống bà đồ đã nhờ người nhà mua sẵn vải xé khăn và may sẵn tang-phục cũng như mua giàu cau và mọi thứ cần dùng cho tang-lễ.
Có hai loại vải để xé khăn.
Vải sô xé cho vợ, con và dâu. Ngoài khăn tang còn y phục để tang nữa.
Theo lễ ngũ phục, quần áo tang có năm loại khác nhau tùy theo người để tang là con cháu hoặc họ xa gần với người chết.
Vợ, con trai, con gái và dâu người chết ăn mặc « đại tang » và để tang 3 năm. Tang phục của những người nầy gồm một chiếc áo và một chiếc quần bằng vải thô sổ gấu, lưng có may trái sống nghĩa là đường chỉ ở giữa sống lưng may ngược ra ngoài. Trên lưng lại có miếng vải bấu hình vuông tượng trưng sự đau đớn của người để tang. Đằng trước ngực cũng có một miếng vải bấu gọi là thôi, tượng trưng sự nát tim não ruột của kẻ làm vợ làm con. Người để tang còn mặc ở ngoài bộ quần áo tang, một chiếc áo sô bằng vải màn, cũng may theo kiểu chiếc áo tang để mặc trong lúc tế lễ và đưa đám, và phải thắt ở ngoài cùng một chiếc giây lưng bằng giây chuối. Chít trên đầu là một chiếc khăn sô, quấn quanh đầu có một vòng và thắt múi dài ở đằng sau, thõng xuống lưng.
Người con trai người chết phải đội một chiếc khăn quấn bằng giây chuối và chống một chiếc gậy tre hoặc gậy vông tùy theo cha hay mẹ chết, trong lúc tế-lễ cũng như trong khi đưa người chết tới nơi an nghỉ cuối cùng.
Người đại tang đi giày cũng phải dùng màu trắng.
Những quần áo đại tang, tang chủ phải giữ trong ba năm. Sau đám tang, tang phục nầy được để ngay dưới bàn thờ người chết và chỉ đốt đi khi đoạn tang sau lễ trừ phục.
Cháu gọi người chết bằng ông bà, con rể để tang bố mẹ vợ, cháu để tang chú bác, bố mẹ để tang con hoặc dâu, anh chị em ruột để tang nhau gọi là tang « cơ niên ». Người để tang phải chịu tang một năm. Tang-phục gồm khăn trắng và quần áo trắng may theo kiểu thường, bằng một thứ vải nhỏ mặt đỡ thô hơn loại vải đại tang. Ngày nay người ta thường dùng loại vải thường.
Sau tang cơ niên là tang « đại công », mang trong chín tháng. Chắt để chở các cụ, anh chị em rể để chở nhau, cháu để chở cô chú họ, anh em con chú con bác để chở nhau mang tang đại công. Trang phục giống như tang cơ niên, duy có chắt để tang cụ thì chít khăn vàng.
Kế đó là tang « tiểu công » mang trong năm tháng. Cháu để chở cậu và dì, anh em cô cậu hoặc cháu chú cháu bác để chở lẫn nhau, chú và cô để chở cháu mang tang tiểu công. Tang phục cũng giống như tang cơ niên.
Sau cùng là tang « ty ma » mang trong ba tháng. Người ta còn gọi tang này là tang mọn. Chút để chở các kỵ, cậu và dì để chở cháu, anh em cháu cô cháu cậu để chở lẫn nhau, bố mẹ để chở chàng rể, con để chở mẹ ghẻ hoặc nhủ mẫu mang tang ty ma. Tang phục màu trắng bằng vải thường, nhưng chút để chở kỵ thì chít khăn đỏ.
Ngoài năm loại tang trên, học-trò cũng để tang thày và hàng xóm cũng để tang nhau trong ba ngày, đúng như câu ca dao:
« Hàng xóm để chở ba ngày.
Chồng cô vợ cậu một ngày cũng không ».
Nếu người chết không có con trai, người ăn thừa-tự sẽ để đại tang như chính người con, cũng như trường hợp người cháu đích-tôn phải để tang ông theo đại tang nếu cha mình đã chết.
Bà đồ đã cho xé khăn và phân-phát quần áo tang cho con cháu họ hàng đúng theo tục-lệ.
Tên họ và tên húy ông đồ được viết trên một tấm lụa hồng dài cùng với chức-tước của ông, để treo lên minh-tinh khi đưa đám.
Đồng thời một tấm lụa màu đỏ cũng viết những chữ như tấm lụa trên, được dán vào bài vị ông đồ.
Linh-sàng và linh-tọa, tức là giường và ghế của người khuất đã được thiết-lập.
Trong lúc làm lễ phát-phục, tất cả quần áo tang được đặt trước bài vị ông đồ. Nén hương được thắp lên và các con cháu lần lượt mặc tang-phục đứng trước linh-sàng dự lễ.
Lễ phát-phục xong, toàn thể người nhà đều mặc màu trắng. Tiếng kèn kéo dài của dàn kèn, màu trắng đục của quần áo vải sô như tăng nỗi đau-đớn của bà đồ và Tiệp.
Từ đây âm-dương đôi ngả, ông đồ đã ra người thiên cổ. Bộ tang-phục phải chăng đã ngăn cách kẻ khuất với người còn.
VIISuốt từ trong nhà tới rạp dựng ngoài sân, hai bên tường treo la liệt những câu đối, những bức trướng của con cháu trong nhà, của bạn-bè thân-thuộc và của học-trò kính viếng ông đồ.
Câu đối của con cháu trong nhà viết bằng chữ đen trên vải trắng, còn những bức trướng và câu đối của bạn-bè thân-thuộc và học-trò đều bằng vải màu xanh, vàng, trắng hoặc đen có thêu hay dán chữ. Chung quanh lại có viền chỉ màu sặc-sỡ và có thêu những cảnh Bát-tiên quá hải, hoặc sơn thủy để tăng vẻ thẩm-mỹ cho đối-trướng.
Người đến viếng ông đồ đông lắm, người trong làng, người hàng tổng và cả bạn-bè các tỉnh xa nữa.
Tin ông đồ chết được loan đi, học-trò cũ của ông kẻ xa người gần đều về viếng lễ thày, chỉ những người nào thật mắc bận, không thể về được mới phải chịu. Thày học cũng như cha. Đạo thày trò nghĩa trọng, về viếng tang thày cũng là một cách để tỏ lòng kính mến và biết ơn.
Trong nhà đám đông những người. Tiếng nói ồn-ào. Khách tới viếng cùng nhắc lại những tính hay điều tốt lúc sinh thời của ông đồ.
Con cháu trong nhà chạy tíu-tít để pha trà, bưng trầu và cơm rượu.
Những mâm rượu đặt ngay ở hai bên áo quan, ở ngoài rạp, ở cả những căn nhà ngang, và ngay