← Quay lại trang sách

Chương 2

Từ lầu ba nhìn qua khung cửa sổ xuống con đường trước mặt, tất cả nhịp hoạt động bình thường của nó như không hồn. Những chiếc xe từ bốn ngả đường xuyên qua ngã tư chuyển động hệt như những đồ chơi máy móc nhỏ của Nhật tràn vào đây từ vài chục năm trước. Những con người nhỏ bé di chuyển chẳng khác những con vịt ngốc nghếch trên bờ ruộng ngơ ngác đi theo đàn. Những mái ngói mốc đen, những bức tường nham nhở xám xịt, những hàng dây điện chằng chịt rối rắm, những hàng cây xếp thành cụm chỉ còn thấy những mảng lá xanh. Tất cả cúi đầu trong màn mưa bụi. Cơn mưa dữ dội buổi chiều với sức gió giật cấp năm cấp sáu, bây giờ chỉ còn để lại một bầu trời xám xịt với màn mưa trắng đục thoáng chút gió heo may.

Nỗi buồn cũng như từ đó toát lên, nó bao vây lấy ông Huy, nó gậm nhấm và như rứt ra từng mảnh đau đớn, từng mảnh xót xa, từng nắm hận thù, từng xâu tiếc nuối, từng đoạn đời gãy vụn. Trước đây, chẳng bao giờ ông đứng trong cửa sổ này để nhìn xuống những con đường đổ vào một ngã tư dưới kia, mặc dù đây là nhà ông và căn phòng này cũng là căn phòng ngủ của chính vợ chồng ông ngày nào- Bởi một lẽ giản dị là hồi đó ông không có thì giờ cho những thứ công việc vớ vẩn ấy. Nhìn trời và đo đường là công việc dành cho những anh thất nghiệp, vô dụng trong cuộc đời. Hồi đó ông có ba thứ việc phải làm cho cái tuổi trên bốn mươi. Đó là ngự trị trong cái chức vụ mà ông đã tóm được trong suốt những năm tuổi trẻ mà ông vẫn gọi là "đi làm việc" hay nói một cách văn vẻ và thời đại hơn là "phụng sự đất nước". Việc thứ hai là nhờ đó ông có uy quyền, dù không nhiều lắm song cũng đủ dùng vào những cái áp-phe cung cấp cho gia đình ông cuộc sống đàng hoàng, sung túc và rất có thể trở nên giàu sang. Sau khi có hai thứ đó rồi thì một người đàn ông biết sống phải nghĩ đến việc thứ ba là chơi bời "một tí". Chơi bời có nhiều loại, nhưng Huy chỉ giới hạn trong hai thứ, cờ bạc theo đúng thời khóa biểu - mỗi tuần ba lần vào thứ Năm, thứ Bảy, Chủ nhật - rồi đi ăn đi nhảy và đôi khi có đàn bà tục gọi là "ăn vụng tí đỉnh" chứ không say mê ai. Cái thời mê gái của ông qua rồi.

Ba thứ công việc ấy chiếm trọn ngày tháng của ông. Mỗi thứ công việc đều có mặt riêng của nó như ba vở kịch và ba vai trò khác nhau. Đôi khi nó đối nghịch nhau nhưng vẫn có một điểm căn bản chung, đó chính là ông. Con người thật của ông tạo thành cái "style" của toàn bộ vai diễn ba vở kịch. Người diễn viên dở nhất hoặc tuyệt vời nhất hay người diễn viên bất đắc dĩ đến nỗi không hề biết rằng mình đang đóng kịch cũng có chung một điểm căn bản duy nhất ấy. Con người thật làm nên tất cả. Làm việc, kiếm tiền, chơi bời. Người đàn ông được sinh ra để sống và chết cho ba thứ đó thôi. Ngoài ra còn gì nữa nhỉ?

Thế cũng là quá nhiều rồi. Tuy nhiên có người đồng hóa sự làm việc và sự kiếm tiền. Có lẽ đó là người lương thiện nhất hoặc biển lận nhất. Bởi, nếu chỉ lấy sức mình ra làm việc không thôi thì khó thể có tiền để phè phỡn để nghĩ đến chuyện ăn chơi. Trong khi kẻ biển lận là kẻ sống để làm mọi việc cho có thật nhiều tiền và chỉ làm việc nào có nhiều tiền cho nên làm việc và làm tiền là một. Còn ăn chơi vung vít tí đỉnh đó là bệnh muôn đời của đàn ông ngoại trừ khi anh ta vào viện dưỡng lão!

Suốt cuộc đời tuổi trẻ của ông Huy trôi qua bằng ba thứ công việc đó. Có thể nói là một sự may mắn và bây giờ nhìn lại có thể coi như cái "một thời lừng lẫy" và đó chính là mảng nuối tiếc một dĩ vãng vàng son đã qua đi, qua mãi. Song ông thường khéo léo chôn sâu giấu chặt nỗi nuối tiếc ấy, bởi ông đã từng nhìn thấy những người cũng như ông quá nuối tiếc đến trở thành lố bịch, từ lố bịch trở thành kẻ giả dối hợm hĩnh vì tưởng tượng quá nhiều để bôi son vẽ phấn cho cái "thời oanh liệt" đã qua đi của mình. Ông Huy chỉ âm thầm nhớ đến những ngày tháng ấy và bây giờ ông nhìn lại như một nhịp cầu vắt qua dòng sông đẹp thơ mộng và xanh biếc. Màu xanh dịu dàng của một tà áo nào đó trong kỷ niệm. Thật thế, cuộc đời trôi qua rất nhanh, chỉ ở tuổi trên năm mươi người ta mới thấy rõ được đời vụt qua nhanh biết chừng nào!

Mắt ông Huy bỗng mờ đi. Ông đứng đó nhìn xuống đường mà không nhìn gì hết. Trước mắt ông lại là những ngày tháng cũ- Vào những ngày tháng đó, giờ này ông không đứng ở đây, ông có khối chuyện để làm, khối điều bất ngờ để mà thú vị và tất nhiên cũng không thiếu những chuyện lặt vặt bực mình. Bởi ông chỉ là một sĩ quan trung cấp, trên ông còn hàng đống cấp bậc, hàng trăm chức vụ đè lên đầu. Tuy vậy những bực bội gai góc trong công việc lại đều mang một chút hy vọng cho ông leo lên một chức vụ cao hơn, một cấp bậc lớn hơn trong một kỳ thăng thưởng nào gần tới. Cái mồi câu ấy luôn luôn óng ánh trước mũi khiến hầu hết con người lao theo dòng nước ở bất kỳ nơi chốn nào. Cái mồi câu ấy hiện diện ở mọi địa hạt trên toàn thế giới, lơ lửng trong tâm tưởng mọi người và mỗi người đuổi theo nó bằng cái cách riêng của mình. Điều đó không loại trừ một ai, từ anh bạch đinh dân ngu cu đen đến một ông vua bà chúa. Ông Huy đã nhìn thấy điều đó khi còn ngồi trong nhà tù được ngụy trang - hay gọi một cách đầy lòng nhân ái là "Trại cải tạo". Sự ngụy trang trắng trợn đến nỗi tự nó là một sự khỏa thân thô tục không cần đến một lời bình luận nào.

- Một con điếm có vẽ hình thiên thần trên bụng thì vẫn là hình hài con điếm.

Câu nguyền rủa này thường hiện lên trong đầu ông mỗi khi phải ngồi nghe các anh cai tù giảng về đạo đức, về dân chủ, độc lập, tự do, và làm thành một hàng rào vững chắc giúp ông khỏi phát khùng lên vì bị dộng mãi vào tai mớ lý luận ngọng nghịu lặp đi lặp lại suốt mười ba năm. Thứ máy hát cũ rích với cái đĩa hát đã nứt toác mà vẫn cứ phải lên giây cót chạy ậm ạch để phát ra một loại âm thanh như chửi vào cuộc đời. Sự khó chịu lâu dần bỗng biến thành một vẻ gì khôi hài ngầm, khôi hài đen pha lẫn đôi chút thương hại của ngay cả khán giả là những anh tù.

Người ta phì cười và tội nghiệp cho những anh quê mùa dốt nát, hì hục và long trọng ra sức lên gân vặn cái máy hát cũ, hớn hở nhìn nó quay, hào hứng khi làm cho nó tuôn ra những âm thanh cà lăm mà vẫn cứ cho rằng đó là sự văn minh tân kỳ nhất trong thế giới này.

Ông Huy và các bạn tù của mình trở nên khoái chí khi nhìn thấy cái hình ảnh hài hước ấy trên khắp các sân khấu trong trại tù và ngay cả trên màn ảnh, trên ti-vi mỗi khi buộc phải xem phim, xem kịch để gọi là học tập.

Đó là những thù hận ngấm ngầm lặt vặt trong chuỗi ngày tù bi thảm kinh khủng. Về được hơn hai năm, thù hận kia hầu như nguôi ngoai đi. Ít nhất thì ông cũng đã được trở về thay vì có thể chết bằng một cách nào đó. Đói rét, bệnh tật, lao động đến đờ đẫn vật vờ, khủng bố trên mọi mặt tinh thần và tình cảm, "súc vật hóa" tước đoạt mọi giá trị con người, kìm kẹp khống chế từng giờ phút và vân vân- Nhưng ông đã không chết, ông chỉ vật vờ như một hồn ma, đôi khi ông đã phải sống một cách sống mà ông nghĩ rằng có vẻ yếu hèn. Có lẽ không anh nào còn sống sót ra khỏi trại cải tạo mà không có cảm nghĩ ấy nếu anh ta chân thật với chính mình, ngoại trừ anh ta là một con người vĩ đại - nếu thật sự trên đời còn có những con người vĩ đại. Ông Huy thường thầm nghĩ thế và ray rứt tự hỏi những lúc sống trong bị kịch kinh hoàng ấy mình có còn là mình không? Câu hỏi có hàng ngàn câu trả lời. Nhưng câu trả lời nào cũng không thể đúng hoàn toàn trong một sự việc ở một khoảng chớp của thời gian đã qua đi. Phải! Phản ứng của con người thường chỉ được quyết định trong một khoảng chớp như ánh đèn flash, khoảng thời gian định mệnh hay là khoảng của thượng đế - nếu thật sự Thượng Đế nhúng tay vào tất cả mọi việc từ xấu xa đến tốt đẹp nhất trong vũ trụ bao la - huống chi đằng này ông đã phải sống trong cùng khổ một thời gian dài.

Điều quan trọng cuối cùng là may mắn ông đã có tên trong danh sách tù chính trị được xét thả vào một ngày cuối năm. Quẳng tất cả lại phía sau để "thơ thới hân hoan" bước ra khỏi hai cánh cổng nhà tù, hai cánh cổng địa ngục gây rất nhiều ấn tượng suốt khoảng thời gian dài đằng đẵng. Những người ra về bỏ lại cả lòng hận thù, muốn quên ngay tất cả, quên luôn cả những người bạn tù từng đồng cam cộng khổ chưa được xét tha mà chẳng bao giờ biết được lý do đích thực tại sao được tha và tại sao chưa đến lượt mình được tha. Đó là sự khác biệt tàn nhẫn nhất, kinh khủng nhất và cũng đê tiện nhất giữa nhà tù của "bọn tư bản" và trại cải tạo suốt nửa thế kỷ vừa qua. Những kẻ còn lại ngơ ngẩn sau hàng chấn song sắt nhìn kẻ bước ra khỏi cổng trại tù với những đôi mắt của con thú bị thương nhìn ra ngọn đồi xanh tươi dưới một khung trời xanh cao lồng lộng.

Ông Huy đã trở về đúng vào một ngày cuối năm.

Thành phố cũ nhìn ông như nhìn một kẻ xa lạ và chính ông cũng không dám cố gắng nhìn thành phố bằng tâm trạng của kẻ thân quen. Sự dè dặt đè nặng tâm tư ông. Thành phố đã khác. Những ông chủ mới đa nghi và khó tính. Những chiếc xe đạp đầy đường. Những công viên mới và khẩu hiệu vàng chóe, đỏ rực. Những con người tất tả, áo bỏ ngoài quần, chân đi dép. Phố xá vẫn đông nhưng không thể gọi là vui hay là không vui dưới mắt ông - kẻ chiến bại đáng thương và đáng nguyền rủa. Kẻ bại tất yếu và vô lý. Đó là cái mặc cảm trĩu nặng trong ông, nó trỗi dậy như lò xo tự động khi bước chân trở về đầu tiên của ông đặt lên mặt đường nhựa.

Đến tận bây giờ ông vẫn không quên cái cảm giác ngượng ngập, buồn tủi trong khoảnh khắc trở lại với Sài Gòn sau mười ba năm xa cách đau đớn. Có những khoảnh khắc của tình yêu, của sự thăng hoa nào đó, hay là khoảnh khắc của chia xa, của hội ngộ. Chắp nối những khoảnh khắc ấy thôi cũng đủ là một cuộc đời. Với Huy, cái địa ngục trại cải tạo mười ba năm đã làm nên địa ngục mới. Bởi không có mười ba năm "học tập" thì đâu có sự tan nát của gia đình ông hôm nay.

Nhưng tất cả cái nội tâm buồn tủi ấy vẫn chưa phải là bi kịch chính trong lòng Huy. Cái chính là vết thương trí mạng ông âm thầm đeo tận góc sâu kín nhất phía dưới cùng tâm sự. Đó là chuyện vợ con ông. Sự phản bội trắng trợn của người vợ, sự hư hỏng của những đứa con và sự bơ vơ của chính ông. Đó là cái địa ngục trước mắt mà ông sẽ phải lao vào. Trên đường từ trại tù trở về, ông đã băn khoăn, lo sợ, dằn vặt đến chảy máu não bởi hình ảnh cái địa ngục tàn tệ ấy. Có lẽ nó còn hành hạ ông khủng khiếp hơn cả khoảng đường ông bị điệu đến các nhà tù từ miền Nam tới miền Bắc. Khi ra đi, ông ít đau đớn dằn vặt hơn khi trở về.

Tuy nhiên, điều mà ông tưởng là cái địa ngục của riêng ông thì thật ra lại là của hầu hết những người trở về. Năm mươi phần trăm hay hơn nữa, có thể lắm, đều vác nặng cái thánh giá gai góc của riêng mình trên vai. Hầu hết gia đình không còn hoàn hảo. Hầu hết con người ở trại cải tạo ra không còn nguyên vẹn về mọi mặt và về chính con người mình. Tự ông đã thấy ông khác đi nhiều lắm.

Phải một thời gian sau ông Huy mới nhận ra đó là sự bình thường, sự tự nhiên như chuyện phải có và nếu phải kể lại thì chẳng khác gì một chuyện cổ tích cũ mèm đã có quá nhiều người kể, chẳng còn chút thi vị hay ngạc nhiên nào. Cái đau xé ruột của mỗi người, mỗi gia đình chỉ còn là cái đau của một cô Tấm khi con cá thân yêu nuôi ở dưới ao bị bà dì ghẻ độc ác lén lôi lên làm thịt trong thứ truyện cổ tích dân gian. Người ta không thể khóc mãi, người ta phải sống, mỗi người trong cái địa ngục của mình. Và trong cái địa ngục mới ấy, mỗi người phải tự tìm lấy một chút gì của thiên đường. Dù có là giả tạo, dù có là tạm thời, song nhờ có vậy người ta mới đủ can đảm để sống.

Trở về đến nay gần tròn ba năm, ông Huy đã phải "xí xóa" hết, phải chấp nhận, hay nói cho đúng là buộc phải đầu hàng một số nghịch cảnh để sống, để hy vọng vào một sư đổi thay trong tương lai.

Tương lai huy hoàng của ông là đi Mỹ, theo diện H.O. nghĩa là diện "tị nạn chính trị". Tương lai của ông lại vẫn tùy thuộc vào tay người khác! Phải chăng một bi kịch khác lại bắt đầu?