← Quay lại trang sách

Chương 5 Bảy chương trình trợ cấp khác nhau từ chính phủ

Tôi cầm mũ áo mưa kéo qua đầu, nhưng cơn mưa cuối hè đã bắt đầu mau và nặng hạt đổ xuống mái tóc đã ướt đẫm của tôi. Tôi đi tới bức tường đá cuội nơi đồng sự của tôi đang đứng, gương mặt khuất dưới mũ áo mưa. “Bây giờ chúng ta làm gì?” Tôi hét lên cố át tiếng mưa.

“Chúng ta về nhà”, John nói. Anh là chồng của Emily bạn tôi và đã thuê tôi giúp làm vườn từ sáu tháng trước. Anh nhún vai và cố cười với tôi, dù chiếc áo mưa màu xanh thẫm của anh vẫn lốm đốm những giọt mưa đá đã quất túi bụi xuống trước khi cơn mưa bắt đầu. Anh tháo kính, lau lớp sương mờ và những giọt nước mưa bám trên đó trước khi đeo lại.

Tôi cúi đầu chấp nhận. Dạo này chúng tôi hay phải ngừng công việc vì gặp mưa. Đã sắp hết mùa và nguồn thu nhập chính của tôi theo đó cũng sắp đi tong.

Chúng tôi chất những xô rác, máy xén và cái cào vào đằng sau chiếc xe bán tải màu vàng của John; anh lại cười với tôi trước khi lên xe và lái đi. Tôi nhìn theo trước khi quay lại với xe của mình, đậu bên vệ đường. Cửa kính ghế lái vẫn để mở. Chết tiệt.

Về đến nhà, tôi đứng co một chân trên tấm vải sơn lót sàn đặt trước cửa, cố cởi đôi ủng nhựa Xtratuf. Tôi tháo khuy cái quần Carhatt và tụt xuống đầu gối để cởi ra. Nó bị đóng cứng bùn và nước mưa đến nỗi không chịu nằm ẹp xuống sàn vẫn ở nguyên dạng trông tựa cây đàn acordion. Người Alaska chính gốc có câu nói rằng khi và chỉ khi cởi quần Carhatt ra mà nó vẫn tự đứng được thì hẵng giặt.

Tối hôm ấy, Mia ở với Jamie đến bảy giờ, và tôi không biết nên làm gì với thời gian còn lại. Vài cuốn giáo trình ngổn ngang trên bàn bếp, nhắc tôi nhớ đến bài tập về nhà đã trở thành một phần của cuộc sống thường ngày. Tôi đã bắt đầu một quá trình chậm rề rề để kiếm lấy một tấm bằng và đã đăng kí 12 tín chỉ: hai môn học từ xa và một tại một tòa nhà gần nhà trẻ của Mia. Khi tôi gặp chuyên viên tư vấn của nhà trường, tôi nói rằng mình chỉ muốn có bằng cao đẳng nghệ thuật chuyển tiếp. Tôi sẽ học hầu hết các môn tại trường trung học thông qua chương trình Running Start, cho phép tôi học các môn của chương trình cao đẳng bằng tín chỉ trung học, và trường Đại học Alaska chấp nhận kiểu đó. Một tấm bằng hai năm tại một trường cao đẳng cộng đồng sẽ là xuất phát điểm dễ dàng nhất, và tôi sẽ được học các môn chuyên ngành với chi phí thấp nhất có thể. Sau đó, tôi có thể thoải mái chuyển tiếp lên một khóa đại học bốn năm. Nhưng, giống như hầu hết những ông bố bà mẹ đơn thân không mấy dư dả, tôi sẽ mất nhiều năm để đạt được mục tiêu của mình.

Vì tôi đã đăng kí tên Mia trong mục giảm trừ gia cảnh với bên thuế, việc xin trợ cấp học phí từ chính phủ là đơn giản. Đăng kí Mia làm người phụ thuộc và có các tờ khai thuế làm bằng chứng là cách đơn giản nhất để cho thấy tôi đang nuôi một đứa trẻ với mức lương (không biết đâu là) tối thiểu của mình.

Pell Grant, chương trình liên bang hỗ trợ tài chính cho sinh viên có thu nhập thấp, trợ cấp cho tôi cao hơn mức học phí toàn thời gian cho một học kì, nên tôi dư ra 1.300 đô. Cùng với 275 đô tiền trợ cấp nuôi con và 45 đô mỗi tuần nhờ dọn dẹp trường mẫu giáo, mẹ con tôi có khoảng 700 đô để trang trải một tháng. Tiền tem phiếu thực phẩm rơi vào dưới 300 đô một chút, và chúng tôi vẫn có các tấm séc WIC. Nhờ TBRA và LIHEAP, tiền thuê nhà rơi vào chừng 150 đô, nên số tiền còn lại sẽ để dành cho bảo hiểm xe, tiền điện thoại và Internet. Vào mùa đông thì tôi thất nghiệp, nên tôi không được nhận tiền trợ cấp chăm sóc trẻ nhỏ nữa. Đi học, tới lớp sẽ không giúp tôi được nhận trợ cấp chăm sóc trẻ nên tôi phải tìm người trông Mia khoảng hai giờ mỗi tuần để học tiếng Pháp: Đó không chỉ là môn học bắt buộc mà còn thiết thân nữa. Dù tôi ghét phải học thứ ngôn ngữ này nhưng đó gần như là khoảng thời gian duy nhất tôi ngồi chung phòng với nhiều người khác.

Nhiều đêm tôi pha cho mình một cốc cà phê tướng sau khi Mia đi ngủ và thức tới một, hai giờ sáng để làm cho xong bài tập về nhà. Mia không ngủ trưa và hiếm khi ngơi tay ngơi chân hoặc ngơi miệng. Con cần tôi toàn tâm chú ý và chăm sóc. Tôi không thể tìm được công việc phù hợp với thời gian rảnh của mình nên những lúc ấy, mẹ con tôi thường đi dạo trong rừng hoặc bên bờ biển, mặc cho tôi chỉ ngủ vỏn vẹn có bốn tiếng và cực kì thiếu tiền. Hồi Mia còn nhỏ hơn, chưa biết đi thì cuộc sống của tôi dễ thở hơn đôi chút, đã thế lúc nào còn thức là con bé còn chống đối tôi. Mia chắc chắn là một đứa bé tự lập; tự lập đến nỗi làm tôi mệt nhoài chỉ trong vòng một buổi sáng.

Nhưng sau khi con ngủ, tôi đọc sách trong gian bếp yên tĩnh. Việc đọc các bài tập và câu hỏi thảo luận cuối chương chỉ làm tăng thêm sự cô độc. Mùa hè cuốn tôi đi khi tôi chỉ tập trung ổn định nhà cửa. Giờ thì mọi thứ đã vào đúng quỹ đạo, đầu óc tôi được nghỉ ngơi đôi chút và ý nghĩ tôi đang một mình chăm sóc một đứa trẻ len lỏi vào tâm trí tôi như một đám mây mù. Với quá nhiều vấn đề xảy ra trong thời gian Mia ở cùng bố và anh ta chỉ trông con có hai đến ba giờ, tôi chưa bao giờ có cảm giác mình được nghỉ ngơi. Năng lượng của Mia dường như không bao giờ cạn kiệt. Khi đi bộ, con tự đẩy xe với những bước chân lũn cũn. Ở công viên, con đòi tôi đẩy xích đu không biết chán, hoặc tôi sẽ xem con trượt cầu tụt hết lần này đến lần khác. Tôi đã gần ba mươi, và trong số bạn bè tôi nhiều người đã kết hôn, mua nhà và bắt đầu an cư lạc nghiệp. Họ làm tất cả theo một đường hướng đúng đắn. Tôi đã ngừng hẳn chuyện gọi điện cho họ, vì xấu hổ không dám thú thực những chuyện tồi tệ đến mức nào đã xảy đến với mình. Nếu tôi dừng lại để đếm thì hiện tôi đang đăng kí tổng cộng bảy chương trình hỗ trợ: Pell Grant, SNAP, TBRA, LIHEAP, WIC, Medicaid và chăm sóc trẻ nhỏ. Tôi cần đến bảy chương trình trợ cầyp khác nhau từ chính phủ để tồn tại. Thế giới của tôi tĩnh lặng giữa sự hỗn loạn liên miên vì đứa con, vì liên tục xê dịch, vì những căng thẳng mệt mỏi.

Lần đầu tiên sinh nhật của tôi đến một cách âm thầm lặng lẽ, chẳng một người thân nào hay nhớ. Jamie hẳn là cảm thấy thương hại tôi và đồng ý đưa tôi cùng Mia ra ngoài vẽ cốc sứ. Trong bữa tối tại nhà hàng Olive Garden, tôi nhìn anh ta đặt Mia ngồi trên đùi trong khi con bé tọng cả thìa mì pasta vào miệng.

Khi xe dừng trước chung cư, tôi ngồi im thêm một lúc trước khi mở cửa.

“Anh có muốn vào chơi không?” Tôi hỏi.

“Vì sao?” Anh ta hỏi và vỗ vô lăng.

Tôi cố ngăn dòng nước mắt vì cảm giác muốn và cần anh ta bầu bạn. “Để anh được cho Mia đi ngủ chăng?”

Anh ta trề môi bực bội, nhưng vẫn vặn chìa khóa tắt máy. Tôi nhìn anh ta một chút rồi ngoái lại cười với Mia. Jamie và Mia là những người thân duy nhất mà tôi có.

Tôi muốn Jamie ở lại qua đêm, dù cho có phải ngủ trên sofa cũng được.

Vào một ngày bình thường, mỗi khi nghĩ đến chuyện ngủ một mình, tôi lại có cảm giác như một con quái vật trong ngực đang cào cấu tôi từ bên trong. Tôi sẽ co người lại hết cỡ và có lúc tôi ôm chặt gối, nhưng không gì có thể vuốt ve cái lỗ hổng sâu hoắm bên trong tôi. Tôi cực kì muốn nó biến mất, nhưng mỗi đêm nó cứ kiên trì ở đó. Trong ngày sinh nhật của tôi, sinh nhật đầu tiên suốt nhiều năm không có ai ôm ngủ, tôi đang chiến đấu với cảm giác đó.

“Hay là anh ở lại nhé?” Tôi lí nhí, cắm mặt nhìn sàn nhà vì không dám nhìn Jamie.

“Không”, anh ta nói và suýt bật cười. Jamie rời khỏi nhà không buồn tạm biệt hay chúc mừng sinh nhật tôi. Tôi thấy hối hận vì đã mở miệng xin xỏ anh ta.

Tôi ngồi bệt dưới sàn nhà và gọi điện cho bố. Đã gần mười giờ tối nhưng tôi biết bố vẫn còn thức và đang xem chương trình Coundown with Keith Olbermann trên MSNBC với vợ - Charlotte -như mọi tối. Tôi thích điều đó khi sống cùng họ. Sau khi Jamie đá chúng tôi ra khỏi cửa, tôi đã sống với bố vài tuần vì không có nơi nào để đi.

“Alô, bố ạ”, tôi nói và dừng lại. Tôi không biết phải nói gì thêm; tôi cần bố nhưng không thể truyền đạt thành lời. Ngôn ngữ bí mật của gia đình tôi là ngôn ngữ không một ai nói ra.

“Chào Steph”, bố đáp, có vẻ hơi ngạc nhiên. Dạo này tôi không gọi cho bố. Chúng tôi không gặp mặt hay nói chuyện từ sinh nhật Mia ba tháng trước, dù bố chỉ sống cách chỗ tôi vài giờ. “Có chuyện gì thế?”

Tôi hít một hơi. “Hôm nay là sinh nhật con”, giọng tôi run run.

“Ôi, Steph”, bố nói và thở dài thườn thượt.

Cả hai cùng im lặng. Tôi không nghe thấy tiếng tivi vọng vào ống nghe, và hình dung ra phòng khách mờ mờ tối với ánh sáng duy nhất đến màn hình. Có lẽ Charlotte đã ra ngoài hút thuốc. Tôi tự hỏi có phải họ vẫn không uống rượu vào những ngày trong tuần hay không.

Hồi tôi mới chia tay Jamie và nương nhờ nhà bố, bố đã nhìn tôi ngồi bên bàn bếp nhà mình tới tối muộn, xung quanh chồng chất những giấy tờ và trát của tòa. Tôi đồ rằng bố đang cố hiểu những chuyện xảy ra với cuộc đời tôi. Tất cả những gì bố biết là tôi không có tiền, không có nhà, và Mia chỉ mới bảy tháng tuổi. Bố không biết làm sao để cải thiện tình hình. Bố có thể nuôi tôi, nhưng không phải người dư dả gì cho cam. Cuộc khủng hoảng bất động sản đã ảnh hưởng đến nghề thợ điện của bố. Đó là vào năm 2008, và những nhà đầu tư trầy trật với chuyện chẳng còn ai đổ tiền đầu tư gì nữa. Tôi cố gắng giảm gánh nặng bằng cách mua thức ăn cho cả nhà bằng tem phiếu của mình. Tôi nấu bữa sáng, bữa tối và cố dọn dẹp nhà cửa trong ngày - nhưng tôi cũng biết như thế là không đủ. Tôi đang xin bố và Charlotte quá nhiều, mà họ đã phải vất vả mưu sinh lắm rồi. Họ đã mua một lô đất cách đây bốn hoặc năm năm gì dó và dự định sống trong một căn nhà lưu động để tiết kiệm tiền xây ngôi nhà mơ ước của mình. Sau đó giá trị bất động sản của họ rớt không phanh và kế hoạch cũng theo đó tan biến. Charlotte nhận công việc tạo mã y tế cho các công ty bảo hiểm tại nhà nên phải đi học lại để lấy một chứng chỉ đặc biệt. Bố tôi làm thợ điện từ hồi tốt nghiệp phổ thông.

Charlotte đã mua căn nhà lưu động này sau khi li hôn và phải một mình nuôi con với mức lương khiêm tốn. Bố tôi, nhằm biến nó trở thành một tổ ấm, đã dựng một cái hiên lớn ở phía sau, để hơn chục hộp chứa hạt cho chim ăn các loại. Từ cửa sổ phòng khách, Mia thích ngắm nhìn những con chim giẻ cùi xanh sà xuống ăn lạc, vừa nhìn vừa vẫy vẫy tay và reo hò thích thú. Bố tôi bật cười mỗi khi trông thấy cảnh tượng đó. “Con bé giống hệt con hồi bằng này tuổi”, bố bâng khuâng, nói.

Một tối nọ, bố tôi về muộn, tay ôm những túi thực phẩm. Sau khi cho Mia đi ngủ, tôi ngồi trong phòng khách xem tivi với Charlotte. Bố lẳng lặng đi ra bồn tắm nóng ngoài nhà, cầm theo một chai rượu. Lẫn giữa tiếng tivi, Charlotte và tôi bắt đầu nghe thấy một âm thanh gì đó như tiếng nức nở. Tiếng khóc của một người đàn ông. Tôi chưa từng nghe thấy một âm thanh như thế bao giờ. Charlotte chốc chốc lại ra ngoài xem bố tôi thế nào.

“Ngừng ngay!” Cuối cùng tôi nghe bà hét lên. “Anh đang dọa con gái anh đấy!”

Tôi chưa từng nhìn thấy hay nghe thấy bố khóc, nhưng tôi biết đó là lỗi của tôi. Tôi đã khiến bố phải mang một gánh nặng khi xin giúp đỡ vào lúc bố lực bất tòng tâm. Đầu tuần ấy, bố bảo tôi phải chuyển đi. Khi tôi nói với Charlotte, bà trấn an rằng tôi có thể ở bao lâu tôi cần. Tôi tự hỏi họ đã cãi vã về chuyện mẹ con tôi bao lâu rồi.

Sự suy sụp của bố dường như là điềm gở báo trước mẹ con tôi phải chuyển đi nơi khác. Dù đã cố cảm thông cho bố, nhưng ý nghĩ tôi và Mia sống ở một nơi tôi phải trả tiền thuê dường như là bất khả thi khi mà tôi chẳng có nghề ngỗng gì, và tôi không thể tưởng tượng việc đó sẽ ra sao. Tôi chẳng có thời gian phục hồi từ cú sốc vừa không nhà không cửa vừa phải nuôi con. Charlotte nói đúng. Bố đang dọa tôi, nhưng có lẽ không phải theo cách bà nghĩ.

Khi Charlotte trở vào trong nhà lần thứ ba, bà ngồi xuống ghế, và chúng tôi không ai nói với ai câu gì. Bà bật tiếng lên và chúng tôi tiếp tục xem Counting down with Keith Olbermann. Tôi không dám nhìn bà và cố ngồi thật yên. Bình tĩnh.

Cuối cùng, tôi đứng dậy đi ngủ. Chú tôi đã mang đến một chiếc nhà xe lưu động ngắn và cho đậu ở lối đánh xe. Mia và tôi ở tạm trong đó. Nóc xe bị hổng ở phía trên cửa và chúng tôi không thể sử dụng căn bếp bé xíu lẫn nhà tắm, nhưng nó có máy sưởi điện và một chỗ để ngủ.

“Con định đi ngủ hả, Steph?” Charlotte hỏi, trong nỗ lực biến tối nay thành một buổi tối bình thường.

“Vâng, con hơi mệt”, tôi nói dối. Tôi dừng ở cửa và nhìn bà. “Cảm ơn dì đã cho mẹ con con ở lại đây.”

Charlotte mỉm cười như thường lệ và nói, “Con cứ ở lại bao lâu con muốn.” Nhưng giờ thì cả hai chúng tôi có vẻ đều biết điều đó không còn là sự thật.

Khi thò đầu vào cái nhà xe của mình, tôi thấy Mia ngủ ngon lành trên chiếc giường gấp. Tôi chui vào trong chăn, từ từ nhích lại gần con. Tôi không mệt, tôi chỉ muốn nằm đó lắng nghe tiếng con ngủ, quên đi mọi sự thay đổi trong thế giới mới của chúng tôi. Tôi nằm ngửa rồi nằm nghiêng, nhưng không thể nào quên tiếng khóc của bố. Có lẽ tôi có thể thuê một chỗ đậu xe ở khu cắm trại dã ngoại và đậu cái nhà xe này ở đó. Hoặc có lẽ chúng tôi sẽ chuyển nó ra đằng sau nhà của ông tôi ở Anacortes, nhưng tôi không thể tưởng tượng cảnh sống gần bà tôi vì nghe nói hiện bà đang nuôi tận 50 con mèo hoang.

Một giờ sau, qua những bức vách mỏng của căn nhà lưu động, tôi nghe tiếng cửa đóng sầm lại. Bố và Charlotte đang cãi vã và tôi nghe thấy tiếng đổ vỡ. Sau đó là im lặng.

Tôi lẻn vào nhà xem có chuyện gì. Trong bếp, những đồ trang trí gắn nam châm đính trên tủ lạnh rải rác khắp sàn. Bàn bị xô ra khỏi chỗ vốn có. Không gian yên lặng đến khó thở. Và sau đó tôi nghe thấy tiếng họ ở hiên sau. Bố tôi vẫn khóc nhưng đang xin lỗi Charlotte hết lần này đến lần khác.

Khi Mia và tôi vào nhà vào sáng hôm sau để ăn sáng, bố đã đi làm. Charlotte ngồi bên bàn bếp, vẫn xiên xẹo như tối trước. Tôi ngồi xuống, theo bản năng nắm tay bà. Bà ngước nhìn tôi, đôi mắt sưng húp và buồn rười rượi.

“Ông ấy chưa từng như vậy bao giờ”, bà nói, ánh mắt chăm chắm nhìn bức tường đối diện. Rồi đột ngột, bà nhìn thẳng vào mắt tôi. “Ông ấy như một con gấu bông vậy.”

Charlotte dần dần kể cho tôi nghe chuyện tối hôm qua: Bà bảo với bố tôi rằng sẽ chuyển đến sống ở nhà em gái và bắt đầu dọn hành lí, bà còn nói sẽ đưa con chó cưng đi cùng. Tôi nhìn bà trầm trồ, chỉ ước giá mà mình có đủ sức mạnh để bỏ đi khi cơn thịnh nộ của Jamie bộc phát vào lúc biết tôi có bầu. Giá như tôi mạnh mẽ được như Charlotte.

“Đó là lỗi của dì”, Charlotte nói với tôi và cúi nhìn Jack đang cuộn tròn nằm trên sàn bên chân bà. “Dì đã phạm sai lầm.” Bà đặt cốc cà phê xuống bàn và cẩn thận xắn tay áo, để lộ ra những vết bầm tím.

Tôi cúi nhìn Mia đang vui vẻ chơi bên cạnh con chó trên sàn bếp, vừa vỗ lưng nó vừa nói, “Chó, chó.” Tóc nó xù bông vì vừa tỉnh dậy, và con bé vẫn mặc bộ đồ ngủ liền quần. Tôi nghĩ mà thấy nực cười - tôi trốn chạy khỏi một người đàn ông bạo lực này và đến trú ngụ trong nhà một người khác, tương tự.

Tôi nhắm mắt. Tôi phải ra đi.

Ngày hôm đó, tôi bắt đầu gọi đến các khu nhà dành cho người vô gia cư. Một căn nhà cấp bốn ít nhất cũng là mái nhà che mưa che nắng và cho tôi và con gái sống mà không sợ bị ai đó đánh đập một thời gian. Khi bố gọi điện bảo tôi hãy đi đi, tôi đã dọn đồ lên xe sẵn sàng rồi.

Khi tôi cố gặng hỏi cô tôi và cậu em trai về những vết bầm Charlotte cho tôi thấy, bố đã nói chuyện với họ và bảo rằng tôi bịa chuyện để được quan tâm, rằng tôi còn bịa đặt tất cả những gì liên quan đến Jamie để được chú ý nữa.

“Bố xin lỗi, Steph”, bố nói đi nói lại trong điện thoại vào cái tối sinh nhật tôi. Bố bắt đầu viện cớ bận công chuyện nhưng tôi đã ngừng nghe. Tôi thấy hối hận vì đã gọi.

Ông cố bù đắp cho lỗi quên mất sinh nhật tôi. Một tuần sau, tôi nhận được một tấm thiệp cùng tờ séc 100 đô la. Tôi chăm chăm nhìn, biết đó là một món tiền lớn với bố. Không thể dẹp bỏ cảm giác giận dỗi vì bị bố đuổi ra khỏi nhà, tôi bốc đồng quyết định: Thay vì tiết kiệm tiền để trang trải các hóa đơn và mua nhu yếu phẩm, tôi sẽ dẫn Mia đi ăn trưa tại một nhà hàng Thái trong thành phố có phục vụ những tô cơm nhỏ rưới nước cốt dừa và có món xoài tráng miệng. Cơm bết đầy vào những lọn tóc xoăn xinh xắn của Mia nên con bé cần tắm rửa. Sau đó tôi cho con đi ngủ, rồi ngồi trước máy tính tại bàn bếp, quyết định làm gì đó chỉ riêng cho mình.

Mấy hôm nay tôi đều mở trang web Match.com. Tôi đã điền thông tin cá nhân, đăng ảnh và tìm tiểu sử của những người đàn ông cùng tuổi. Bố mẹ tôi đã tìm được nửa kia của mình ở đó, và cô tôi cũng thế. Dù tôi không hoàn toàn chắc chắn rằng mình sẽ tìm được bạn đời ở đó nhưng tôi biết chắc chắn mình đang thiếu một thứ: giao tiếp xã hội. Hầu hết các mối quan hệ bạn hữu của tôi đã phai nhạt từ năm ngoái vì tôi tự cô lập mình và trốn tránh vì tủi hổ về cuộc sống thường ngày. Nhiều giờ trong đêm, rất lâu sau khi Mia đã ngủ, khi tôi được ngồi yên lần đầu tiên trong cả một ngày dài, tôi thèm có người bầu bạn, dù cho đó chỉ là bạn qua thư hay qua điện thoại. Đó không thể là người biết tất cả những sóng gió bủa vây tôi: Tôi đã chán ngán nghe mình lải nhải về những chuyện đó. Tôi muốn theo đuổi một ai đó, muốn lại là tôi của ngày xưa, trở thành cô gái mang những hình xăm có mái tóc nâu dài ngang vai, áo phông dài tay thắt ngang eo. Tôi muốn có bạn.

Có vẻ trong hoàn cảnh này, tôi lại lên mạng tìm bạn thì thật quá tuyệt vọng, nhưng tôi không quan tâm. Tôi trò chuyện với những anh chàng ở tít tận thành phố Salt Lake, và Winthrop, Washington. Tôi thích những người sống xa tôi vì tôi không phải sợ sẽ quyến luyến họ. Tôi không thể gặp họ, họ cũng chẳng thể tới sống cùng tôi, vì Mia chỉ gặp bố trong những lần thăm nom ngắn ngủi. Đằng nào thì tất cả nghe đều bất khả thi. Tôi thật sự chỉ muốn được cười, gợi nhắc bản thân về con người thời son rỗi, trước khi cái nghèo mài mòn mọi nét cá tính của mình. Tôi đã đánh mất hoàn toàn con người đó, con người tự do đến và đi, thích gặp bạn bè hay không tùy ý, làm dăm ba công việc để tiết kiệm tiền và đi du lịch. Tôi cần biết con người đó còn tồn tại.

Nếu tôi thành thật với chính mình, tôi sẽ thừa nhận mình đang tìm, hoặc đang thầm hi vọng sẽ tìm được một người bạn đời. Nỗi lo lắng của tôi, hoặc có lẽ là phần thực tế, lí trí của tôi, thừa biết cơ hội đó mong manh lắm. Tôi đang nhận sự hỗ trợ của chính phủ, thường xuyên trong trạng thái bất an, chưa thể vượt qua sự bạo hành cảm xúc vẫn tác động đến tôi sâu sắc. Có thể nói cuộc đời tôi đang bế tắc trong một nhân dạng mới,- bị khuất lấp bởi việc làm mẹ - một công việc mà tôi không chắc mình có thực sự yêu thích hay không. Ý tôi là, một người đầu óc minh mẫn làm sao lại muốn yêu một con người như thế ?

Chỉ sau một tháng lang thang trên mạng, bực mình thay là có người đã thực sự tới gặp tôi. Anh sống gần đây, tại một thành phố tên là Stanwood. Tôi đã có vài dịp đi qua đó trong cuộc săn tìm một chốn ở khác không phải là Port Townsend. Stanwood là một cộng đồng nông nghiệp nhỏ ở phía nam hạt Skagit - nơi cả gia đình tôi sinh sống. Nó gần nhưng cũng không quá gần, ở cạnh đảo Camano, với không biết bao nhiêu bãi biển kín đáo gần như còn nguyên sơ. Người đàn ông này không chỉ có chỗ ở mà các email của anh còn giống như của John Steinbeck viết khi anh kể về việc sống điền viên trong trang trại do cụ cố để lại.

Travis tả nông trang nơi anh sống một cách tự hào vô cùng, vì anh mới chỉ từng rời đó một lần duy nhất một thời gian ngắn. Anh nói anh có ảnh chụp mình hồi còn bé tí, tắm trong cái bồn mà bây giờ, tối tối anh lại đứng cạnh để đánh răng. Bố mẹ anh, đã mua lại trang trại từ ông của anh, vẫn sống và làm việc tại đó, làm dịch vụ chăm sóc ngựa. Mẹ Travis vừa làm kế toán vừa chăm sóc năm đứa cháu vào các ngày trong tuần. Điều đó, còn hơn cả lời hứa cho tôi được cưỡi ngựa bất cứ lúc nào tôi muốn, đã quyến rũ tôi đến nỗi tôi chấp nhận lời mời đi ăn tối.

Anh đã nhờ bố cho ngựa ăn cỏ, uống nước hộ vào buổi tối hôm đó, và khấp khởi tới Port Townsend. Khi tôi đón anh tại bến phà, anh mang dáng vẻ của người nhà quê ra phố.

“Anh chưa từng đi phà”, anh nói với vẻ ít nhiều trầm trồ. “Anh còn không biết thành phố này ở đây.” Anh lo lắng bật cười, và tôi đề nghị chúng tôi đi bộ tới quán Sirens. Mới bốn giờ chiều nên quán rất vắng khách. Tôi biết nếu có ai thấy tôi đi ăn với một anh chàng lạ mặt, người ta sẽ đưa chuyện tới Jamie. Hai tháng trước, sau một ngày dài làm vườn, tôi vào thành phố để được một mình uống bia xả hơi. Có người đã kể với Jamie và anh ta áp cho tôi tội say xỉn khi tôi đón Mia. Sau đó tôi cố tránh xa các quán bar.

Chúng tôi tìm một bàn và cả hai gọi burger với bia. Tôi liếc nhìn cái bàn ở tầng trên, nơi tôi đã ngồi cùng mẹ và William sáu tháng trước vào lần cuối cùng lui tới nơi này. Tôi không có cảm giác Travis hay đi ăn ngoài tiệm từ cách anh lúng túng lật giở thực đơn. Tôi đoán là anh căng thẳng.

“Vậy, chính xác là anh làm gì?” Tôi hỏi, dù anh đã kể cho tôi qua email và điện thoại.

“Anh dọn chuồng ngựa vào buổi sáng, cho ngựa ăn vào buổi tối, và sửa những thứ cần sửa trong ngày.” Travis có vẻ không phật ý trước sự tò mò và những câu hỏi thường xuyên của tôi, anh dễ bật cười khi một trong hai chúng tôi cố tỏ ra hài hước. “Nhưng vào mùa cỏ khô thì anh làm việc cả ngày.”

Tôi gật đầu như thể đã hiểu. “Vậy gia đình anh tự trồng cỏ để nuôi dám ngựa mà người ta gửi à? Nhà anh chăm sóc bao nhiêu con?”

“Bố mẹ anh có hai con trong trang trại, cộng thêm vài con khác nuôi giúp bạn bè.” Anh cắn một miếng burger to tướng và tôi đợi anh nói tiếp. Anh mặc đồ có vẻ là đồ lao động - quần bò xanh có những lỗ thủng và dính vết dầu nhờn, giày da nâu và một chiếc áo sơ mi dài tay có mũ khoác ngoài chiếc áo phông đã bạc màu. Đồ của tôi cũng tạm coi là ăn rơ với anh, chỉ khác là tôi mặc quần bò hiệu Lucky điệu đà mua hồi hè tại một cửa hàng đồ kí gửi. “Sau đó Susan, đã thuê một phần đất nhà anh, đã thuê nhà kho. Tàu ngựa chính có thể trông giữ khoảng 120 con, nhưng hiện trong nhà anh chỉ nuôi có một nửa số ấy, Người thuê nhà anh trông ngựa đã phá sản và không thể trả tiền cho lũ ngựa nữa. Họ còn không thể trả tiền để tống khứ chúng.”

Tôi chưa từng nghĩ nuôi một con ngựa lại tốn kém như thế, nhưng tôi biết chúng cần được chăm sóc kĩ càng. Khi còn rất nhỏ và sống gần nhà ông bà, tôi dành rất nhiều ngày hè tại một cơ ngơi cuối con đường đất dài nơi bố tôi đã lớn lên. Ngày xưa ông làm thợ đốn củi và từng đưa những đàn ngựa thồ vào rừng. Ông đã đặt tôi ngồi lên lưng ngựa khi tôi chỉ bằng tuổi Mia. Tôi cưỡi ngựa giỏi hơn chạy trên đôi chân mình. Đầu tôi tràn ngập những hình dung Mia có cùng trải nghiệm ấy.

Trời sẩm tối khi tôi cùng Travis về bến phà. Chúng tôi ôm tạm biệt, và tôi bỗng muốn vùi đầu vào ngực anh mãi. Anh có mùi ngựa, cỏ khô, dầu nhớt và mùn cưa. Anh có mùi của công việc, được đầu óc tôi dịch ra là sự ổn định. Những mùi hương kết hợp ấy làm tôi choáng ngợp bởi một nổii niềm hoài cổ: làm việc trên những chiếc xe, cưỡi ngựa cùng ông, đưa đinh cho bố khi còn thơ bé. Cái ôm của Travis làm tôi nhớ tới tất cả những kí ức đấy, nó an ủi tôi và bằng cách nào đó đưa tôi về nhà.