Chương 6 Nông trại
Tôi gập con dao gấp hiệu Gerber lại và nhét vào túi quần Carhartt. Gió mùa thu mát lạnh phả trên mặt tôi khi Travis và tôi thảy hàng chục súc cỏ khô nặng hơn ba chục kí vào máy nghiền, cắt thành những mảnh dài chừng một đốt ngón tay để trộn cùng mùn gỗ rải chuồng ngựa. Tôi quệt lớp bụi màu vàng sẫm trên trán trước khi tiếp tục nhét tay vào đôi găng bảo hộ vừa kẹp dưới nách. Tôi dừng lại để lấy hơi rồi kéo sợi dây bện màu đỏ về phía mình. Nếu tôi cắt sợi dây bện buộc gia cố súc cỏ ngay trước nút thắt, tôi có thể kéo nó dễ dàng và cả súc cỏ sẽ không bị suy suyển để sau đó tôi dễ dàng vác lên bỏ vào máy nghiền. Cắt dây bện đằng sau nút thắt sẽ khiến nó toạc ra, những sợi cỏ sẽ vãi ra đất thành một đống, làm giảm năng suất.
“Em làm sai rồi!” Travis lại kêu lên khi đống cỏ khô chất đống dưới chân tôi.
“Xin lỗi!” Tôi đáp lại, cố sao cho thật chân thành. Tôi làm điều này hết lần này tới lần khác, qua cả một núi súc cỏ, để biến chúng thành một ngọn núi cỏ khô cắt nhỏ thậm chí còn lớn hơn.
Mẹ con tôi đã chuyển tới Stanwood sống cùng Travis chỉ bốn tháng sau buổi hẹn hò đầu tiên, khi đó Mia gần hai tuổi. Sau đấy là chín tháng vất vả. Travis làm việc cật lực trong trang trại và ngoài nhà. Khi ở trong nhà, anh hiếm khi rời mắt khỏi tivi. Mối quan hệ của chúng tôi phát triển ổn định; nơi này trở thành một tổ ấm. Nhưng có lẽ quan trọng hơn, nó như đóng cho tôi một con dấu chấp thuận vô hình. Với Travis, tôi là một phần của gia đình. Tôi viên mãn. Nhưng tôi không thích mất đi sự độc lập, không nhận ra là mẹ đã định nghĩa tôi nhiều như thế nào. Trong mắt Travis, giá trị của tôi dựa vào công việc tôi làm bên ngoài nhà trong trang trại, vì công việc tôi làm bên trong - dọn dẹp và nấu nướng - với anh là vô giá trị. Nhưng tôi không tìm được việc làm nên giá trị của tôi phụ thuộc vào công việc tôi có thể giúp anh. Vấn đề là, tôi chỉ có số tiền ít ỏi Jamie trợ cấp nuôi con và tem phiếu để chăm sóc Mia. Tôi thấy Travis được trả tiền cho công sức lao động mà tôi góp phần kha khá nhưng tôi lại không được chia một chút nào.
Lúc đầu, chuyện ra ngoài hằng đêm cho chừng năm mươi con ngựa được gửi nuôi ăn uống cũng khá thú vị. Khi các công nhân vệ sinh chuồng ngựa vào những ngày cuối tuần nghỉ hẳn, Travis xung phong nhận việc và kiếm thêm 100 đô la mỗi tuần ngoài khoản 100 đô la bố mẹ anh trả cho việc cho ngựa ăn. Trong những ngày cuối tuần Mia ở cùng bố con bé, tôi phải dậy từ bảy giờ sáng để giúp dọn phân ngựa trong khi hằng tối vẫn phải cho ngựa ăn, đồng thời nhìn Travis được nhận tiền công từ bố mẹ anh nhưng không chia cho tôi lấy một cắc.
“Travis”, tôi nói vào lần thứ hai chuyện này xảy ra. “Chẳng lẽ em không nên được nhận chút nào à? Em có giúp cơ mà.”
“Em cần tiền làm gì?” Anh gắt. “Em không hề trả một hóa đơn nào hết.”
Tôi cố ngăn nước mắt vì sự bẽ bàng và cố nghẹn ngào nói rằng xe tôi cần đổ xăng.
“Đây”, anh nói, đếm tiền và đưa tôi 20 đô.
Chúng tôi bắt đầu cãi vã. Mỗi lần tôi từ chối giúp cho ngựa ăn. Mỗi lần không có bữa tối. Mỗi lần tôi quyết định ngủ một mạch đến sáng dù biết rằng sẽ bị anh chiến tranh lạnh như một kiểu hình phạt. Tôi tuyệt vọng ứng tuyển cho gần như mọi công việc đăng trên Craigslist hoặc báo địa phương, mỗi tuần ứng tuyển từ vài công việc đến cả tá, nhưng tôi hiếm khi được gọi lại. Sau đó một người bạn cho số điện thoại của tôi cho một người phụ nữ cần tìm nhân viên dọn vệ sinh mới, và tôi được trả 10 đô một giờ. Jenny, chủ công ty, hi vọng sẽ có cho tôi khoảng 20 giờ làm một tuần, vậy tôi sẽ có 200 đô la của riêng mình. Và có lẽ tôi có thể thôi việc ở nông trại.
“Đó là một công việc tốt. Tất cả những ngôi nhà cần dọn vệ sinh đều ở Stanwood”, tôi kể với Travis khi anh xuống khỏi máy kéo. “Em không nghĩ họ yêu cầu thử việc. Em chỉ việc đi làm và kiếm tiền tươi thóc thật.” Tôi cố cười ngọt ngào, dù chúng tôi đã không nói với nhau quá vài từ suốt nhiều ngày nay. “Nghe thật sự được.” Mia, đã gần hai tuổi rưỡi, rất thích ở cùng Travis. Nếu tôi thành thật với bản thân thì chính tôi cũng thấy vậy, nhưng chủ yếu vì khi ở cùng anh, tấm màn những vết nhơ vì là mẹ đơn thân đã được lột bỏ.
“Cái gì?” Travis hỏi, có vẻ bực bội và hình như mới nghe được một nửa những gì tôi nói. Anh vẫn mặc bộ đồ giống hệt lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Tôi cố nhớ lại cảm giác lần đầu tiên ôm anh. Một năm trước, tôi cảm thấy an toàn, thoải mái trong vòng tay anh. Giờ thì vòng tay ấy toàn những gắt gỏng chẳng thèm ôm tôi nữa.
“Nếu em làm việc bán thời gian vào các buổi sáng”, tôi phân trần, theo sau anh khi anh nối rơ-moóc đằng sau máy kéo, “Mia sẽ ở nhà trẻ cả ngày, và em có thể giúp việc trang trại. Được chứ?” Tôi tự thuyết phục mình rằng làm việc ở trang trại cũng là một hình thức trả tiền thuê nhà và hóa đơn. Tôi chỉ không chấp nhận được việc phải ngửa tay xin tiền đổ xăng xe thôi.
Travis nhìn tôi không tỏ thái độ gì.
“Em sẽ làm việc chăm chỉ. Em sẽ dọn chuồng ngựa”, tôi nói, mặc kệ chuyện mình chẳng còn tự trọng khi gần như van xin anh. “Em sẽ cho ngựa ăn uống. Em sẽ cố gắng nấu bữa tối, dù không thích.”
“Anh không quan tâm về chuyện bữa tối miễn là em làm việc trong trang trại”, anh nói, sau đó liền thở dài.
Tôi đợi.
“Giúp anh nghiền mấy súc cỏ khô này đi”, anh nói và lại leo lên máy kéo.
“Vậy anh thấy được chứ?” Tôi hét lên át tiếng máy kéo. Anh liếc nhìn tôi nhưng không đáp. Lựa chọn duy nhất của tôi là hờn dỗi ở phía sau, đi theo xe rơ-moóc chất đầy súc cỏ khô về kho.
Đó là đầu mùa đông năm 2009, trong thời kì suy thoái, khi người ta không còn tiền để nuôi ngựa cưng, hay để làm những điều khác. Hoạt động chăm ngựa thuê của Travis và bố mẹ anh bị đình trệ trong khi giá cỏ linh lăng và mùn gỗ để rải chuồng ngựa lại tăng vọt. Hầu hết vật dụng của họ đều cũ kĩ và hỏng hóc. Bố mẹ anh đã mệt mỏi vì phải duy trì công việc và dựa chủ yếu vào Travis. Anh làm việc cả ngày vào mùa cỏ khô, dành tới mười hai giờ trên máy kéo, và vào những tháng mùa lạnh, anh thường sửa chữa, thông ống nước và đi dọn phân thêm cho chừng 40 đến 80 chuồng ngựa của nhà khác mỗi sáng.
Tôi ngước nhìn qua đám bụi cỏ khô bay bay trong không khí, ngạc nhiên khi thấy Travis mỉm cười với mình. Chúng tôi sắp nghiền xong súc cỏ thứ hai. Cỏ khô phủ kín đỉnh mũ lưỡi trai và vai cái áo len có mũ của anh. Khi Travis đưa bàn tay đeo găng vò tóc tôi, tôi tránh và sau đó ném một nắm dây bện về phía anh. Travis bật cười, đôi mắt long lanh khiến cả gương mặt rạng rỡ.
Theo như tôi thấy thì công ty dọn vệ sinh của Jenny có vẻ được tổ chức rất tốt. Cô sắp xếp đâu ra đấy lịch dọn nhà cho các khách hàng trong sổ hẹn được cô cầm theo như một chiếc ví. Ngày đầu tiên tôi đi làm, cô giao cho tôi một bộ đồ vệ sinh và một cuộn khăn giấy. Tôi gặp cô và vài người phụ nữ khác bên ngoài căn nhà rộng rãi sơn màu nâu, nhìn ra thung lũng của một khách hàng. Jenny không giới thiệu tên tôi với mọi người mà chỉ nói, “Đây là người mới.” Những người khác gật đầu chào, không buồn dừng lại để bắt tay hay nhìn tôi trong lúc lấy đồ nghề ra khỏi cốp xe. Mở cửa là một người phụ nữ lớn tuổi, mái tóc trắng xoăn lọn, mỉm cười chào đón như thể chúng tôi là những vị khách tới nhà ăn tối. Mọi người vào trong căn nhà khang trang và tôi đứng đó, đợi chỉ thị.
“Nếu có thời gian, em cứ dọn phòng tắm lớn và phòng ngủ đi đã”, một đồng nghiệp của tôi, người lớn tuổi nhất, nói. Hình như chị ấy tên là Tracy. Chị ấy chỉ vào một căn phòng có chiếc ghế bành lớn màu hồng đặt cạnh giường và để tôi đứng đó, chưa kịp hỏi thêm câu nào.
Khi tôi sắp dọn xong một nửa, Jenny đến kiểm tra, gương mặt không biểu lộ cảm xúc gì trong một giây; sau đó cô mỉm cười và nói, “Làm tốt lắm!” rồi lại biến mất. Mọi người đang dọn dẹp đồ nghề khi tôi ra ngoài, và Jenny nói, “Đi theo chúng tôi đến nhà tiếp nhé.” Trong suốt một tuần đầu, công việc luôn như thế. Cả nhóm chúng tôi vào một căn nhà trong một tiếng đồng hồ, mỗi người tản ra các góc và phòng khác nhau, làm ngược ra hướng cửa chính. Sau đó chúng tôi trở lại xe, rồng rắn kéo nhau đến nhà kế tiếp.
Ở trung tâm của tất thảy là Jenny, mái tóc hung vàng buộc gọn. Hình như cô từng là một học sinh nổi tiếng trong trường trung học và mong muốn mọi người vẫn tiếp tục nhượng bộ mình. Khi hướng dẫn tôi cách dọn phòng, dù là phòng ngủ hay phòng tắm, Jenny luôn mỉm cười và nói, “Hãy làm cho nó sáng bóng lên nào!” Tôi xịt dung dịch vệ sinh và lau bằng khăn giấy, quét bụi bằng chổi lông sặc sỡ, sau đó xịt nước hoa xịt phòng trước khi ra về.
Mỗi người dường như đều có một gu dọn dẹp khác nhau. Có người thích dọn phòng bếp, người khác có vẻ thích hút bụi phòng khách và phòng ngủ. Không ai thích dọn nhà vệ sinh. Công việc đó là dành cho người mới.
Một nhà tắm nhìn thì có vẻ sạch sẽ và đẹp đẽ, với bệ toilet phủ thảm hồng, có thảm chùi chân, khăn tắm cùng tông với rèm buồng tắm in hoa hồng, nhưng như vậy không có nghĩa là toilet không tởm lợm. Lúc đầu, cái làm tôi ghê người nhất là những sợi lông mu. Nhưng nhìn nhiều quá làm tôi đâm ra chai sạn. Tôi dần biết cách vứt những túi rác nhỏ trong khi tránh - dù đã đeo găng tay - băng vệ sinh, bao cao su, những mảnh giấy vệ sinh dính đấy chất thải và những nùi tóc. Người ta bỏ các lọ thuốc kê theo toa khắp kệ, bên cạnh kem đánh răng hoặc một cốc thủy tinh. Tôi ở đó để dọn dẹp - điều đó thì quá rõ - nhưng vẫn mong chủ nhà chịu ngăn nắp hơn một chút, hoặc để ý dọn đống lộn xộn của mình. Tôi dành ít nhất năm phút nhặt nhạnh đủ thứ vật dụng khác nhau, lau chùi khắp trên dưới và sắp xếp lại cho ngay ngắn.
Sau tuần đầu tiên đi theo cả nhóm, cuối cùng tôi cũng được ghép cặp với một người phụ nữ tóc nâu xoăn dợn sóng dài chấm vai, lớn hơn tôi khoảng mười tuổi và luôn bị mọi người phàn nàn chê bôi sau lưng Jenny. Angela có hàm răng và bộ móng tay vàng xỉn vì thói quen hút thuốc. Mãi tới khi Jenny bảo tôi rằng chúng tôi sẽ tự mình đến ngôi nhà tiếp theo thì tôi mới gọi là được giới thiệu rõ ràng với người này.
“Angela hiểu căn nhà đó”, Jenny nói. “Chị ấy sẽ hướng dẫn em. Xong việc, em cho chị ấy đi nhờ về nhà và đón vào sáng hôm sau. Angie, tối nay em sẽ nhắn cho chị biết hai người sẽ làm ở nhà nào vào sáng mai, được chứ?” Jenny vẫy chào và lên xe cùng hai người phụ nữ khác; có vẻ thời gian tập sự của tôi đã kết thúc.
Ở căn nhà nọ, Angela tán dóc với khách hàng là một cặp vợ chồng trung niên mặc đồ kaki là lượt thẳng thớm trong khi tôi dọn phòng bếp và nhà vệ sinh. Hình như chị ta chẳng hề động tay động chân, nhưng một lát trước khi tôi dọn xong nhà vệ sinh lớn, tôi nghe thấy tiếng chị ta hút bụi và ra giúp một tay.
“Em xong rồi à?” Chị ta tắt máy hút bụi, cười nói.
Sau khi Jenny ghép tôi làm việc cùng Angela, một đồng nghiệp khác đợi tới khi chị ta đi rồi mới nói nhỏ rằng tôi nên để ý chị ta khi dọn dẹp. “Angela hay thó nùi giẻ và khăn giấy từ các nhà”, cô ấy nói nhỏ. Đó là những thứ đáng ra chúng tôi phải tự bỏ tiền túi ra mua. Có lúc sau khi chúng tôi dọn dẹp xong, Angela sẽ lấy một túi bim bim khỏi chạn và lên xe cùng một túi khoai tây chiên vơi nửa hoặc một túi bánh quy mặn. Tôi nhìn chị ta ăn, thừa biết trước khi chúng tôi vào nhà, chúng chưa hề xuất hiện.
“Em ăn không?” Chị ta hỏi và chỉ cái túi trước mặt, chẳng thèm để tâm đến cái lườm cố ý của tôi. Tôi chỉ muốn hét thật to.
“Không”, tôi nói, đợi hai người dọn dẹp cùng vào ngày hôm đó lùi xe ra trước. Tracy cầm lái, mái tóc đen ngắn đã lộ chân tóc bạc, đang dừng xe lại để đốt một điếu thuốc.
“Này, chị hút thuốc trong xe nhé?” Angela hỏi tôi lần thứ ba hoặc thứ tư, hệt như Mia vẫn làm mỗi khi biết tôi đã thấm mệt và có lẽ sẽ buông xuôi chấp nhận.
“Không”, tôi thẳng thừng.
“Thế thì để chị đi hỏi xem có đi cùng xe với Tracy được không”, chị ta nói, mở cửa xe và chạy vội ra cái xe phía sau khi nó vừa nổ máy.
Tôi chưa từng kể xấu Angela với Jenny. Tôi giữ mồm giữ miệng, không phàn nàn gì, khiêm tốn và cảm kích vì có việc làm. Nhưng tôi cũng cần làm thêm giờ. Jenny nói chuyện với nhân viên một cách ân cần quan tâm, và tôi có cảm giác Angela đã làm việc với cô từ lâu, có lẽ là lâu nhất trong số chúng tôi. Tôi tự hỏi vì đâu mà Angela rơi vào hoàn cảnh này. Tôi tò mò về tất cả đồng nghiệp. Điều gì đã đưa đẩy họ đến đây, tới việc kì cọ toilet để kiếm một chút tiền còm cõi?
“Chị ấy từng là nhân viên giỏi nhất của chị”, Jenny đã nói vậy trong một dịp hiếm hoi chỉ có hai chúng tôi lái xe đến căn nhà tiếp theo. Giọng cô dịu lại. “Chị ấy đã trải qua một thời gian nhiều biến động. Chị rất thương chị ấy.”
“Vâng”, tôi nói. “Em biết.” Nhưng tôi chắc chắn không có chút thương cảm nào cho con người ấy. Trong những căn nhà mà tôi và Angela cùng dọn dẹp, chị ta la cà xung quanh, xem tạp chí và lục chạn, trong khi tôi làm tất cả với tốc độ gần như gấp đôi bình thường. Sau một thời gian, các ngón tay tôi bắt đầu nứt nẻ. Tôi bị mẩn ngứa vì dung dịch amoniac, chất tẩy và cái thứ bột chết tiệt rắc lên thảm trước khi hút bụi.
Tiết trời mùa đông mang theo sự ẩm ướt lấp đầy hai lá phổi tôi. Sau vài tuần làm việc, tôi bị cảm lạnh; tôi cố gắng giấu bệnh bằng viên ngậm ho và thuốc cảm, nhưng bệnh tình càng lúc càng trở nặng. Một sáng nọ, khi Angela và tôi theo lối đánh xe rải đá cuội đến một căn nhà sơn màu xanh nước biển nằm lọt thỏm giữa rừng, tôi bỗng ho sù sụ. Cơn ho dồn dập đến nỗi tôi tưởng như không thở nổi.
“Ôi”, Angela nói với một kiểu tọc mạch chẳng hay hớm gì. “Em cũng bị ốm à?” Tôi cố hít một hơi sâu nhưng tôi có cảm giác như đang hít thở qua một chiếc khăn ướt. Tôi nhìn chị ta, bực dọc, rõ ràng là ốm. “Có lẽ chúng ta nên gọi cho Jenny”, chị ta nói. “Những người sống trong nhà đó cũng già rồi. Chị nghĩ hôm nay chúng ta không nên giúp họ.” Angela rút điện thoại và bắt đầu tìm số của Jenny.
Angela quay lưng với tôi và đi xa ra vài bước. Trước khi tôi kịp ngăn lại, chị ta đã ấn gọi. Tôi vẫy tay và lắc đầu, nói “Đừng”, không thành tiếng, nhưng chị ta vẫn tiếp tục nói chuyện với Jenny.
“Stephanie bị ốm nặng”, Angela nói bằng giọng trầm, khàn, hệt như một đứa trẻ muốn trốn học. “Và chị nghĩ hình như chị bị lây rồi.” Chị ta kẹp điện thoại giữa đầu và vai rồi rút một bao thuốc lá ra khỏi túi quần, nhíu mày vì chẳng còn điếu nào rồi vứt toẹt vào khay đựng đổ nghề.
Tôi không muốn mất một ngày lương và cũng chẳng muốn mới đi làm đã xin nghỉ ốm. Tôi cần công việc này và không muốn Jenny nghĩ tôi chểnh mảng. Angela mặc kệ tôi xuống xe và cứng đầu bắt tay dỡ đồ nghề xuống. “Chiều thứ Năm thì được”, Angela nói và nhìn tôi cười toe toét, giơ ngón cái với tôi, trông có vẻ cao hứng vì được nghỉ. “Tuyệt vời”, chị ta nói vào điện thoại, vẫn cười, quên mất phải đổi giọng cho giống người ốm. “Được, bọn chị sẽ nói chuyện với em sau.”
“Tôi đã bảo là chị đừng làm thế cơ mà”, tôi nói khi chị ta đến bên cốp xe cạnh tôi. Đầu tôi bắt đầu váng vất. Tôi sẽ phải giải thích với Travis, biết anh sẽ bực bội khi thấy tôi về sớm. Nhưng tôi thấy cay cú vì thiếu tiền hơn. “Tôi không thể mất việc. Chị có hiểu không?”
“Không sao đầu cưng”, chị ta nói, xách khay đồ vệ sinh gần như trống trơn bỏ lại vào trong xe tôi. “Ngày mai sẽ có nhiều việc hơn.”
Chúng tôi lái xe về nhà Angela mà không nói với nhau một lời nào,- tôi vươn tay vặn to tiếng radio để giữ nguyên bầu không khí ấy. Angela lắc lư theo nhạc, hơi nhịp ngón tay vào chân. Tôi không thể tin là chị ta không hề căng thẳng chút nào khi thiếu chỗ tiền công đó. Tôi có những thắc mắc về con cái và điều kiện sống của Angela: Tôi muốn hiểu cuộc sống của người phụ nữ này vì tôi cũng là một bà mẹ đơn thân, không nhà cửa và nghèo túng. Dù không hề thổ lộ với ai nhưng đó là một phần lí do khiến tôi dọn đến sống cùng Travis. Hóa ra nhà của Angela ở ngay góc ngoặt gần nhà tôi. Nó bị niêm phong và dù đã bị đuổi ra khỏi nhà nhưng chị ta nhất quyết không chịu đi. Chị ta sống trong điều kiện không nước máy, không điện.
Nhưng sự thương cảm hay tò mò của tôi đã tan biến vì tôi mất toi 20 đô tiền công ngày hôm đó. Khi dừng xe trước nhà Angela, tôi cúi đầu cố không nhìn các cáo thị dán trên cửa cấm bất kì ai được ở trong nhà.
Angela ngừng một chút trước khi xuống xe. “Em cho chị mượn ít tiến mua thuốc lá nhé?”
“Nó bằng tiền lương một giờ làm”, tôi nhăn nhó, biết kiểu gì chị ta cũng sẽ ép tôi xì tiền ra bằng được.
Nhưng chị ta chỉ gật đầu, có lẽ vì hiểu tôi đang vô cùng bực tức. Và Angela có lẽ cũng biết tôi chẳng có nổi chừng đó tiền.
Tôi đợi trong lúc Angela lấy khay đồ nghề và cố không nhìn ngôi nhà. Tôi không muốn chị ta xấu hổ, và thoáng nhớ lại cảm giác sống trong căn nhà tạm mới năm ngoái đây thôi. Vài người giúp việc thì thào kháo nhau rằng chị ta mất quyền nuôi con vì mất nhà. Tôi không chắc lắm, nhưng tôi cũng không thấy bóng dáng lũ trẻ đâu khi cho chị ta xuống xe.
“Xong xuôi rồi”, chị ta nói to cho tôi nghe thấy sau khi đóng cốp lại. Tôi gật đầu, cố không tự hỏi khoảng thời gian còn lại trong ngày của chị ta sẽ ra sao. Tôi chỉ hi vọng Angela đã sẵn sàng vào sáng mai khi tôi tới đón.
Khi chúng tôi trở lại dọn nhà của cặp vợ chồng già vào tuần đó, tôi thấy họ đã cùng nhau gầy dựng cuộc sống: Xung quanh họ là những tấm ảnh gia đình, và giờ họ đang nắm tay nhau đi nốt đoạn đời còn lại. Ông chồng cười đùa với Angela, còn tôi quan sát ông cầm lấy tô ngũ cốc của vợ, đi lấy cho vợ cái chăn bà thích trước khi bà ngồi xuống ghế. Lòng tôi bỗng nhói đau trước viễn cảnh một người ra đi trước. Tôi bỗng giật mình nhận ra bản thân đóng vai trò gì trong cuộc sống của các khách hàng.
Tôi đã trở thành nhân chứng. Và kì lạ hơn nữa là tôi trở thành một người vô hình vô danh trong cuộc sống của họ mặc cho tôi dành vài giờ mỗi tháng trong mái nhà của họ. Công việc của tôi là quét dọn bụi đất, khiến các tấm thảm trải sàn thẳng thớm, và mãi là người vô hình. Tôi có cảm giác tôi có thể hiểu rõ về họ hơn cả những người bà con của họ. Tôi biết họ ăn gì vào bữa sáng, họ xem chương trình truyền hình gì, liệu họ có bị ốm không và ốm bao lâu. Tôi thấy họ dù cho họ không có nhà nhờ những dấu ấn in lại trên giường và khăn giấy trên tủ đầu giường. Tôi hiểu họ theo cái cách ít người hiểu được, hoặc chẳng bao giờ có thể hiểu.