← Quay lại trang sách

Chương 12 Sống tối giản

Một trong những điều tuyệt vời nhất của việc tự nguyện quỳ xuống dùng tay nhổ cỏ hoặc cọ toilet là ta không bao giờ phải lo đi tìm việc. Để bù vào những giờ không làm cho Classic Clean, tôi bắt đầu tự tìm khách hàng. Tôi đăng quảng cáo trực tuyến và trên Facebook. Tôi dọn nhà cho cô Donna hai tuần một lần, mỗi lần bốn tiếng vào các chiều thứ Sáu khi không phải đưa Mia đến chỗ Jamie. Nhà của Donna nằm sâu trong những ngọn đồi của thung lũng Skagit, về phía dãy núi Cascade và quê cha đất tổ nơi gia đình tôi đã sinh sống suốt sáu thế hệ.

Bà là thành viên của tổ chức Môi trường sống cho Nhân loại của địa phương và có nhắc tới vài gia đình gần đây đã được trao cho cơ hội sở hữu mảnh đất đầu tiên của mình - phần lớn là nhờ chương trình “công sức tính bằng mồ hôi”, trong đó các thành viên gia đình và bạn bè làm những công việc chân tay thuần túy như đóng đinh, sơn nhà, làm vườn để được mua nhà giá rẻ hơn. Tính riêng việc tìm thời gian thực hiện những yêu cầu đó đã khó rồi thì tôi, một người lớn có một đứa trẻ phụ thuộc, còn cần có thu nhập ròng hằng tháng là 1.600 đô mới thỏa mãn điều kiện của chương trình.

“Cháu không biết liệu mình có thể không nữa”, tôi nói. Bà khuyến khích tôi liên lạc với chương trình. Nhưng khi tôi thực sự suy nghĩ về nó, tôi lại không chắc mình có muốn sở hữu một ngôi nhà trong thung lũng Skagit hay không. Với mức thu nhập của tôi, tôi không thể mơ mộng hão huyền là sở hữu một căn nhà ở thành phố Anacortes bên eo biển Deception, và đó là nơi duy nhất cho tôi cảm giác là quê nhà của mình. Môi trường sống cho Nhân loại không cho phép lựa chọn về nơi sinh sống trong địa hạt.

“Tất cả bà con họ hàng của cháu đều ở đây”, Donna nói. “Không nơi nào có thể là quê nhà của cháu hơn được nữa.”

“Vâng”, tôi vừa nói vừa phủi bụi bên trên những khung hình treo ở phòng khách chính. “Cháu vẫn muốn xem Missoula ở Montana thế nào. Cháu từng định chuyển đến đó học đại học nhưng rồi phát hiện ra có Mia.”

Donna đang dở tay làm một cuốn album và bà ngừng lục tìm qua các chồng giấy, tranh ảnh, sticker trên bàn ăn và nhìn tôi. “Cháu có biết làm thế nào để khiến Thượng đế cũng phải cười không?” Bà hỏi.

“Gì cơ ạ?” Tôi hỏi, không rõ vấn đề này thì có liên quan gì với ước mơ tới Missoula của tôi.

“Hãy cho Ngài biết kế hoạch của cháu”, bà nói. “Nếu cháu muốn làm Thượng đế bật cười, hãy cho Ngài biết kế hoạch của cháu.” Sau đó bà cười sảng khoái.

“Vâng”, tôi nói, tiếp tục phủi bụi thanh dầm dọc hành lang.

Donna trả cho tôi 20 đô một giờ dọn dẹp nhà cửa và yêu cầu tôi không bao giờ được chấp nhận mức tiền công thấp hơn. Classic Clean thu về 25 đô cho mỗi giờ tôi làm việc tại một nhà, nhưng tôi chỉ được nhận vỏn vẹn có 9 đô. Trừ đi thuế và các chi phí, tôi chỉ mang về nhà có 6 đô cho mỗi giờ lao động. Tìm và lên lịch cho các khách hàng riêng mất nhiều thời gian, nhất là khi làm thử chưa chắc đã mang lại khách hàng mới. Nhưng những giờ tìm và lên lịch khách hàng không được trả công cũng có giá trị của nó và giúp tăng mức lương trung bình của tôi lên, nếu như tôi không làm hỏng cái gì.

Rời khỏi nhà Travis khiến tôi mất thêm 40 phút đi lại mỗi ngày. Ngoại trừ hai khách hàng ở nơi khác còn hầu hết khách hàng Classic Clean của tôi đều ở khu vực Stanwood và đảo Camano. Nhưng nhà trẻ của Mia vẫn ở ngay góc quẹo từ nhà Travis và tôi không thể không lái xe qua đó. Tôi gần như luôn vô tình lái chậm lại mỗi khi đi qua, nghển cổ lên để được trông thấy Travis đi đôi ủng sình lầy vào nhà. Ngoài nhớ cảm giác thân thuộc có một người bên cạnh, tôi dường như không thể buông bỏ một điều khác nữa. Sau hai tuần đi qua nhà Travis nhiều lần mỗi ngày, tôi đề nghị Travis cho tôi ghé qua chăm sóc khu vườn. Tôi không thích nhìn đám hoa màu mọc um tùm và héo rũ - thức ăn ngon lành hoàn hảo sắp bị phí phạm.

“Được”, anh nói sau một hồi lâu suy nghĩ.

“Tôi có thể đưa Mia đến chơi một lúc”, tôi nói. Anh có vẻ bằng lòng. Travis nói sẽ cố quan tâm đến Mia nhiều nhất có thể. Nhưng mùa hè là mùa cỏ khô và hầu hết các ngày anh đều làm việc từ bình minh đến chiều muộn. Con bé thích ngồi trong lòng Travis trong lúc anh lái máy kéo. Ít nhất con bé sẽ có thêm vài lần được ngồi trong lòng anh.

Cuộc sống mới của chúng tôi bắt đầu vào lúc bảy giờ mỗi sáng. Tôi sẽ rời giường, cố gắng tỉnh táo và đun nước pha cà phê. Tôi pha một tách cho bữa sáng và sau đó rót vào bình để uống trên đường. Mia thường ăn yến mạch hoặc ngũ cốc. Thi thoảng tôi sẽ hòa bột làm bánh kếp và con sẽ xem tôi lật những cái bánh kếp bé xíu nóng hôi hổi bỏ vào một cái đĩa trước khi rót thêm bơ hoặc siro. Tôi nhét một thanh kẹo bơ lạc Clif Bar trong túi quần Carhartts, quấn một chiếc sandwich nướng phết bơ lạc và thạch trong khăn giấy và giấy bạc. Chúng sẽ được tái sử dụng đến khi nào hỏng mới thôi.

Cộng cả tiền nhà, nhu yếu phẩm, bảo hiểm xe, tiền ga, điện thoại và Internet, tiền giặt ủi ngoài tiệm, đồ dùng vệ sinh, tiền sinh hoạt hằng tháng của tôi rơi vào khoảng 1.000 đô. Khi Mia hoặc tôi cần một đôi giày mới hoặc thậm chí là kem đánh răng, tôi sẽ phải xem lại ngân quỹ được dán trên tường, với một danh sách những hóa đơn nào đã tới hạn và đến ngày nào sẽ bị trừ khỏi tài khoản. Điều đó có nghĩa là tôi chỉ có 20 đô để làm dịu bớt bất kì cú nổ bất ngờ nào, ví dụ hóa đơn tiền điện cao hơn bình thường. Nếu không được nhận trợ cấp chăm sóc trẻ nhỏ từ chính phủ, tôi đã chẳng thể đi làm. Vì thu nhập tăng nên mỗi tháng tôi chỉ nhận được 50 đô từ chương trình trợ cấp này. Thu nhập tăng đồng nghĩa với việc tôi sẽ nhận được ít tem phiếu hơn - hiện đang ở mức 200 đô mỗi tháng - mà đó vẫn là toàn bộ số tiền tôi có để mua thực phẩm. Dù thu nhập tăng nhưng tôi lại có nhiều hóa đơn và nguồn hỗ trợ từ chính phủ ít đi. Vì vậy hầu hết các tháng mẹ con tôi chỉ còn khoảng 50 đô cho các hoạt động và mua sắm vật dụng gia đình. Với từng đấy thời gian và năng lượng dồn vào công việc, cái cảm giác khốn khổ khi không thể mua nổi những vật dụng thiết yếu càng trở nên đau đớn hơn.

Vị trí đắc địa của căn hộ mới là một phước lành. Có một siêu thị thực phẩm nơi Mia có “thẻ chuối” của riêng mình, thành thử con bé sẽ được tặng một quả táo, quả cam hoặc quả chuối mỗi lần đi mua sắm. Tôi có thể sử dụng các tem phiếu thực phẩm để mua một chiếc sandwich tuyệt hảo của họ vào mỗi dịp đại hạ giá, sữa chua hoặc súp đậu gà cho Mia, sữa sôcôla và hoa quả tùy ý con bé.

Chúng tôi sẽ ngồi bên một cái bàn gần những ô cửa sổ lớn nhìn ra vỉa hè. Tôi sẽ mua một cốc cà phê với giá chỉ 1 đô la. Chúng tôi ngồi đó, cười với nhau, hưởng thụ cảm giác được đi “ăn tiệm”.

Cuối đường có một cửa tiệm hàng hóa kí gửi tên là Sprouts mới khai trương. Sadie, trẻ trung tóc vàng là chủ cửa tiệm, luôn ở đó cùng cô con gái được địu trước ngực hoặc ngồi trong cũi.

“Em có thể nhận thêm một chiếc cũi di động nữa không?” Tôi hỏi khi cô xem túi quần áo tôi mang đến. Sadie dừng lại một giây để suy ngẫm.

“Nó còn tốt chứ?” Cô hỏi, hơi rung người để dỗ bé con ngủ trong khi cô xem xét các đồ dùng.

Tôi cho cô biết có lỗ thủng ở một bên mắt lưới. “Nhưng chị không hay dùng đến nó lắm”, tôi nói, sau đó quyết định bổ sung. “Chị còn có một chiếc xe đẩy nữa.”

“Em chỉ có thể thanh toán bằng hình thức hàng đổi hàng thôi”, cô nói, chun mũi lại vì thất vọng, “chứ không phải tiền mặt.”

“Được”, tôi nói nhỏ.

Cô mở két thu ngân và đưa tôi 20 đô tiền quần áo. “Chị mang đến nhiều bộ xinh quá”, cô cười nói.

“Chị biết”, tôi thì thầm. “Chị định giữ lại cho… ” Tôi hít một hơi, nhìn những bộ đồ liền dành cho trẻ sơ sinh được cẩn thận gấp lại, mong đến ngày tôi và Travis có với nhau một đứa con. “Chị giữ lại cũng chẳng ích gì.”

Sadie hình như hiểu ý tôi, hoặc là cố tình tỏ vẻ hiểu. Chúng tôi quen biết nhau sau khi cô thấy những bài đăng tìm việc làm của tôi trên một nhóm Facebook của các bà mẹ sống trong vùng. Cô thuê tôi dọn dẹp nhà cửa vì cô đã bỏ bê nó quá lâu sau khi khởi nghiệp với một đứa con thơ và một đứa còn đang ẵm ngửa. Khi tôi hỏi cô có cần giúp việc cửa hàng không, lúc đầu cô từ chối, sau đó tôi hỏi cô có muốn tôi dọn nhà vệ sinh cửa hàng và để đổi lại, tôi sẽ lấy một ít quần áo hay không. Sadie mỉm cười, đầu tiên là với tôi, sau đó là với Mia đang ôm chặt bộ đồ ngủ liền tất in hình Xe lửa Thomas tôi tìm được ở khu đồ bé trai, và gật đầu. Nhờ sự đổi chác này, Mia có thể đi vào cửa hàng và chọn một chiếc váy hay gì đó hợp mắt khi cần thiết. Tôi dọn dẹp vào các buổi chiều - ra ngoài ăn trưa tại siêu thị, sau đó tới Sprouts để con lựa đồ. Tủ quần áo của Mia toàn quần áo cũ và và quần thụng mua tại Walmart vào dịp thanh lí. Ấy vậy nhưng Mia luôn ngẩng cao đầu mỗi khi được chọn váy, như thể con gái tôi đang ở trong một thương xá cao cấp.

Khi chúng tôi mới chuyển đến tòa chung cư chuyển tiếp, mẹ đã tặng tôi một hộp đồ cổ bà từng bày tại ngôi nhà thời thơ ấu của tôi. Bây giờ, sống ở một nơi chật chội, tôi càng lúc càng nghi ngờ mẹ đang giúi cho tôi những thứ mẹ không muốn cất trong kho cho tốn tiền vô ích. Tôi đã mang hầu hết những đồ vật lớn hơn đến các trung tâm thiện nguyện hoặc cửa hàng bán đồ kí gửi vì căn hộ studio quá chật chội, khá giống với căn nhà cho người vô gia cư chỉ chứa nổi duy nhất một túi đồ của tôi, nên tôi không còn chỗ cho những thứ phù phiếm. Thiếu không gian sống nên tôi chỉ giữ lại những thứ hữu dụng. Tôi nghĩ về những tờ tạp chí từng xem qua, đăng các bài viết về những cặp đôi hạnh phúc đã chọn tối giản hóa đồ đạc, hoặc chọn sống ở những căn nhà nhỏ nhắn, và tự hào khoe khoang rằng họ thấy thoải mái thế nào khi sống ở môi trường mới ấy. Nhưng họ hoàn toàn có thể dễ dàng chuyển về sống trong một căn nhà bình thường có hai phòng ngủ, một phòng làm việc, một phòng tắm. Về phần tôi, tôi sẽ không có cùng cảm xúc với họ khi trả tiền thuê nhà hằng tháng nếu biết tôi có đủ tiền thuê một chỗ rộng gấp ba lần.

Trong những tuần sau khi tôi chuyển từ nhà Travis đến căn hộ mới, Pam đề nghị cho tôi mượn một phần ban công cửa hàng để đồ cho đến khi tôi biết phải làm gì với chúng. Tôi đến văn phòng Classic Clean để lấy thêm đồ dùng, tiền lương, và chính thức thay đổi địa chỉ.

“Chỗ ở mới thế nào?” Pam vui vẻ hỏi, và tôi cố trả lời một cách tích cực, hoặc ít nhất là cố bắt chước chị.

“Ổn ạ”, tôi nói. “Em chỉ không biết làm gì với đồ đạc của mình. Travis không muốn em để lại gì, mà em chẳng đủ tiền thuê nhà kho.” Tôi dừng lại, cố không đùn đẩy mọi căng thẳng của mình sang bà chủ. Chị đã chân thành hỏi tôi thấy thế nào, chăm chú lắng nghe tôi, chị đã bắt đầu giống như một người mẹ mà bấy lâu nay tôi khát khao được có.

Những quyết định nên giữ cái gì, quyên tặng hoặc bán cái gì đều không hề dễ dàng. Những thứ tôi giữ lại đều vô dụng và vô giá trị. Sách thiếu nhi, tranh ảnh, những bức thư cũ và những cuốn kỉ yếu không có giá trị nhưng lại chiếm không gian quý báu. Sau đó tôi chuyển sang lọc quần áo, bỏ đi bộ đồ mùa đông và câu cá từ hồi sống ở Alaska, váy đầm và áo tôi không còn hay mặc. Khó nhất là quyết định nên giữ hay nên bỏ những vật dụng gia đình nào. Cái tôi phải quyết định không chỉ là chúng tôi có chỗ cho thứ gì, mà còn không có tiền để thay mới thứ gì. Tôi chẳng mấy khi sử dụng nồi quấy tương ớt của bố nhưng nó, cũng như những chiếc đĩa đất nung bố mẹ tôi được tặng trong ngày cưới, đều chứa đựng những kỉ niệm khó phai. Thôi thì, chúng cũng chỉ là vật dụng vô tri vô giác, mà tôi chẳng có nhiều nhặn không gian cho những thứ như thế. Vì vậy Mia và tôi, mỗi người có hai chiếc khăn mặt, khăn tắm và một bộ ga giường. Trong tủ đồ của mình, vốn được đóng để cất chổi và cây lau nhà, tôi treo toàn bộ trang phục của mình: hai chiếc quần bò, một chiếc quần kaki, một áo sơ mi ngắn tay và một chiếc váy đầm “lộng lẫy” tôi mua bằng tiền riêng. Phần còn lại là những chiếc áo phông Classic Clean và quần mặc đi làm. Tôi chẳng nhẫn tâm vứt bỏ nhiều đồ của Mia và tìm cách sáng tạo biến những con thú bông, sách và đồ chơi của con thành đồ trang trí. Có rất nhiều thứ phải phân loại. Những quyết định nên giữ nên vứt cái gì, và nhiều lần đau lòng. Tôi cất một số trong tầng hầm bên dưới căn hộ nhưng không nhiều, vì sợ chúng bị hỏng do ẩm mốc và chuột bọ. Nhưng tôi cũng không thể vứt bỏ tất cả. Chúng là lịch sử của chúng tôi.

Trong khoảnh khắc đó, tôi không thể nào diễn tả thành lời tất cả với Pam, nhưng có vẻ bằng trực giác, chị đã hiểu tất cả. Có lẽ chị cũng từng trải qua những tiến thoái lưỡng nan tương tự khi là mẹ đơn thân sống ở một nơi chật hẹp. Đột nhiên, gương mặt chị ánh lên sự nhân hậu của bà già Noel, và chị bảo tôi đi theo.

Chúng tôi vào một cửa hàng nhỏ hơn nằm giữa văn phòng và nhà Pam, sau đó chị chỉ vào một chỗ khuất nho nhỏ bên trên. “Trên đấy thật ra khá rộng, và chẳng mấy khi được dùng đến”, Pam nói và nhún vai. Tầng gác mái có một cây thang kêu cót két mà tôi phải bằng cách nào đó bê đồ lên đó. Trên sàn nơi chúng tôi đứng là đủ thứ đồ cũ - như những thứ ta tìm thấy ở nơi bán đồ cũ đã từng được người ta nâng lên đặt xuống. “Nếu em cần gì thì cứ lấy.” Chị chỉ đống chai lọ và giá nhựa khi thấy tôi đang nhìn chúng. “Cứ lấy đi. Nhà thờ ở chỗ chị sắp mở một đợt bán hàng ngoài sân lớn và cần đồ quyên tặng, nhưng nếu em thấy gì cần thì cứ lấy.”

Tôi nhìn xuống và thấy một cái ghế đẩu cũ. “Em có thể dùng nó làm bàn uống nước”, tôi nói. Pam mỉm cười và gật đầu. “Và chắc là cả cái lọ này để đựng gia vị.”

“Nếu em cần thêm gì nữa, kể cả nếu cần chị giúp giặt giẻ lau hộ, cứ nói”, Pam đề nghị. Tôi rất muốn ôm chị. Tôi muốn Pam ôm tôi. Tôi cần cái ôm của mẹ đến mức nghẹn ngào nước mắt và thèm muốn dáng hình ấy. “Và chị cần người phụ bán hàng ngoài sân, nếu em rảnh”, chị nói thêm.

“Chắc chắn là em rảnh vào cuối tuần tới!” Tôi vui vẻ nói. “Nếu chị cần người sớm hơn thì để em xem lại lịch làm việc luôn!”

“Được”, chị nói. “Đừng vội.” Chị mở một phòng âm tường dự trữ đồ vệ sinh. “Em có thể sắp xếp lại chỗ này giúp chị nhé.” Khi chị bật đèn, tôi thấy một hàng dài đầy những máy hút bụi, dầu đánh bóng sàn và những hàng chổi lau nhà và chai lọ lỉnh kỉnh.

Tôi đã bắt đầu nhẩm tính tiền công trong đầu.

Pam mỉm cười. Mắt chị thêm long lanh. Với dáng người thấp tròn và tấm lòng nhân hậu, làm sao những người giúp việc có thể không yêu mến chị nhỉ?

Vào những ngày cuối tuần rảnh rỗi, tôi bắt đầu lọc đồ đạc chất trong gian gác áp mái của Pam. Tôi dọn giấy tờ, sách và các kỉ vật vào hai thùng. Hầu hết hoặc bị vứt vào thùng rác hoặc đưa tới cửa hàng bán đồ hàng thùng - tôi từ bỏ những thứ từng một thời được tôi cẩn thận gấp lại giữ gìn. Một buổi chiều, khi biết không ai ở cửa hàng, tôi lọc lựa và bỏ đi những bộ quần áo sơ sinh cuối cùng đã để dành lại - những bộ đồ sơ sinh đặc biệt tôi đã giữ lại đến phút cuối cùng và tôi hi vọng một ngày nào đó sẽ được mặc lên người một đứa con khác. Ít nhất tôi có thể đổi chúng ở cửa hàng đồ kí gửi lấy quẩn áo hợp với đứa trẻ tôi đang có, đang cần những chiếc quần và đôi giày mới gần như ngay lập tức. Nhưng có lẽ nhờ chúng, tôi đã học được một bài học: hãy biết trân trọng những đồ vật mình có, cuộc sống hiện tại, tận dụng không gian mình được trao tặng. Tôi chỉ ước giá mà đó không phải một hành trình gượng ép, nhưng tôi nhận ra nó đã là một phần quan trọng của mình.